Kinh tế thtrường là gì? Ưu điểm, nhược điểm kinh tế thị trường
Kinh tế thtrường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu
cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định. Bài viết
phân ch cụ thể các vấn đề liên quan:
Mục lục bài viết
1. Kinh tế thị trường là gì ?
Kinh tế thtrường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu
cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn đnh.
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit (Adam Smith), với lí
thuyết “bàn tay vô hình" thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều ết, vận động theo quy luật
của thị trường, hầu như không có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh tế thị trường được hiểu dưới góc
độ khác là có sự can thiệp trực ếp của Nhà nước “bàn tay hữu hình" mà đại diện cho thuyết này là
ynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết chung về việc làm, lãi suất và ền t".
Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội lần thứ VỊ Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
4986), được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và các văn kiện của Đảng và Nhà nước. T
việc phát triển kinh tế trong cơ chế - cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây với hai
thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể (kinh tế tư bản, tư nhân không được thừa
nhận), đến nay, trong nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển
với những hình thức sở hữu khác nhau, trong đó, đáng chú ý là sự hiện diện của thành phần tư bản
ớc ngoài đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Nhà nước Việt Nam khuyến khích và bảo đảm bằng
hệ thống pháp luật, chính sách để các thành phần ` kinh tế cùng có cơ hội phát triển trong một môi š
trường cạnh tranh lành mạnh.
2. Ưu điểm kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng
lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ
chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, cho phép họ tăng quy mô sản xuất,
và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản
xuất có cơ chế sản xuấtm hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất
thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh
nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới vềng nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các
sản phẩm của mình.
Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn m ra phương án cải ến cho phương thức làm
việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển
chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý kinh doanh, cũng là nơi để
đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.
Kinh tế thtrường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển
có cơ hội được ếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát
triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở ớc mình. Trong thương mại quốc tế,
mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm êu chí trong xác định điều kiện thương
mại giữa hai bên.
Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa K, các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở
Hoa Kchiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này. Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi
mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này m ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc vi
mức lương cao ở địa phương.
3. Nhược điểm kinh tế thtrường
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội và
quan niệm. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu ngày càng nhiều của cải và quyn
lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Cuối cùng sẽ dẫn tới phân chia giai cấp: thiểu
số người giàu nắm quyền lực cai trị xã hội, còn đa số là người nghèo có đời sống khó khăn. Chênh lệch
giàu nghèo quá mức sẽ dẫn tới nguy cơ bt ổn xã hội khi người nghèo đấu tranh (nhiều khi bằng bạo
loạn, lật đổ) để có cuộc sống tốt hơn.
Sau một thời gian cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé", các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng sản xuất lớn
mạnh hơn thôn nh. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có ềm lực mạnh, họ sẽ thâu
tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ chỉ do một vài nhà tài phiệt nắm quyền thao
túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành kinh tế độc quyền chi phối. Các doanh nghiệp độc quyền
không có đối thủ cạnh tranh nên tùy ý chi phối thị trường, nếu Nhà nước không can thiệp thì họ sẽ cố
ý tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm để tăng thêm lợi nhuận, gây ra tổn thất cho xã hội và người êu
dùng.
Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm muộn sẽ dẫn
đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn
cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với cung. Hiện tượng này ch lũy qua nhiều
năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hoá bị ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để
thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại
khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ
1920 mà không có sự điều ết hợp lý của chính phủ.
Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông n có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu
quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến
cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là
nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp và lạm phát.
Trong một số nh huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Việc quá đề cao nh
thị trường mà không có sự điều ết của Nhà nước sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá nhân, vì lợi ích cá
nhân mà vô cảm cộng đồng, nhất là trong những nh huống ngặt nghèo thì sẽ có những người vì lòng
tham lợi nhuận mà sẵn sàng gây tổn hại cho xã hội. Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc
men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy định mức giá tối đa, cm đầu cơ ch trữ) thì các nhà buôn
thuốc sẽ lợi dụng nh trạng này để đẩy giá bán thuốc chữa bệnh lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ
không đủ ền mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch. Hoặc thị trường sản xuất phim ảnh, ca nhạc,
giải trí vì chạy theo lợi nhuận mà sản xuất những tác phẩm mang nội dung phản cảm, đồi trụy, gây tổn
hại tới đạo đức xã hội.
Để cơ chế thị trường không phát sinh êu cực trong cạnh tranh, thì các điều kiện sau đây phải được
thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông n minh bạch, không có các ảnh hưởng
ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh doanh, không có lách luật v.v... Tuy nhiên,
trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ
chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phầny ra khủng
hoảng kinh tế hoc khủng hoảng nhân đạo. Khi đó sẽ có thất bại thị trường. Một ví dụ êu biểu là Hoa
Kỳ: nền y tế ớc này hoàn toàn do tư nhân kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có chất
ợng hàng đầu thế giới, nhưng viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới. Nếu không có bảo
hiểm y tế, một bệnh nhân có thể êu tốn hàng trăm nghìn USD cho mỗi lần chữa bệnh, kết quả là
những người thu nhập thấp sẽ không được hệ thống y tế này cứu chữa. Hoạt động xét nghiệm y tế ở
Hoa Kỳ không được kiểm soát trên toàn quốc, nước này cũng không có hệ thng chăm sóc sức khỏe
tập trung và xét nghiệm y tế tập trung do chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi Đại dịch
COVID-19 xảy ra, Hoa Kỳ đã trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng chục triệu ca
nhim bệnh, trong đó vài trăm nghìn người đã chết
Trong điều kiện Kinh tế chiến tranh thì kinh tế thị trường lại không hiệu quả bằng kinh tế kế hoạch. Khi
xảy ra chiến tranh, kinh tế thị trường không cho phép tập trung các nguồn tài nguyên, năng lực sản
xuất vào mục êu quan trọng nhất là sản xuất quốc phòng (bởi các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến lợi
nhuận của bản thân, họ sẽ vẫn tập trung sản xuất các mặt hàng khan hiếm như thực phẩm, hàng êu
dùng chứ không ưu ên sản xuất trang bị cho quân đội). Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại
lợi ích của quốc gia, ví dụ như bán vũ khí, bí mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận hối lộ của
ớc đối thủ để ngừng sản xuất hàng hóa thiết yếu cho đất nước. Do vy, nếu xảy ra chiến tranh,
Chính phủ các nước thường chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để ngăn chặn nh trạng khủng
hoảng xã hội, huy động thêm ngân sách để mở rộng quy mô quân đội, đồng thời tập trung tài nguyên
cho sản xuất quốc phòng và khôi phục trật tự kinh tế và xã hội. Tiêu biểu như Hoa Kỳ: khi Thế chiến 2
nổ ra, nước này đã đình chỉ một phần nền kinh tế thị trường để chuyển sang Kinh tế chiến tranh.
Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần 40% GDP Hoa K là để cung ứng cho chiến tranh. Chính
phủ ưu ên cho các ngành sản xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất cả những yếu tố đầu
vào (nguyên liệu, nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được phân
phối cố định theo tem phiếu, giá cả và ền lương được Chính phủ kiểm soát, và nhiều loại hàng hoá
êu dùng bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được Chính phủ Mđiều động vào quân
đội. Các nước tham chiến khác như Anh, Đức, Nhật, Ý... cũng thi hành những chính sách tương tự.
Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có một nền
kinh tế th trường hoàn toàn tự do - tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị trường dù ít hay
nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (ngay cả
kinh tế Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng có 1 phần nhỏ là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia
đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố th
trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít. Ví dụ như tại Hoa K, tuy có nền kinh tế chủ yếu
là thị trường tư nhân nhưng nước này vẫn có Đạo luật Sản xuất Quốc phòng (DPA), cho phép tổng
thống Mỹ có quyền yêu cầu doanh nghiệp buộc phải nhận và ưu ên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết
bị được coi là cần thiết với quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp, Tổng thống
Mỹ cũng có quyền quy định những mặt hàng bị cấm ch trữ hoặc đầu cơ tăng giá.

Preview text:

Kinh tế thị trường là gì? Ưu điểm, nhược điểm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu
cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định. Bài viết
phân tích cụ thể các vấn đề liên quan:

Mục lục bài viết
1. Kinh tế thị trường là gì ?
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu
cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định.

Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit (Adam Smith), với lí
thuyết “bàn tay vô hình" thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết, vận động theo quy luật
của thị trường, hầu như không có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh tế thị trường được hiểu dưới góc
độ khác là có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước “bàn tay hữu hình" mà đại diện cho thuyết này là
Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ".

Ở Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội lần thứ VỊ Đảng Cộng sản Việt Nam (năm
4986), được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Từ
việc phát triển kinh tế trong cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây với hai
thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể (kinh tế tư bản, tư nhân không được thừa
nhận), đến nay, trong nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển
với những hình thức sở hữu khác nhau, trong đó, đáng chú ý là sự hiện diện của thành phần tư bản
nước ngoài đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Nhà nước Việt Nam khuyến khích và bảo đảm bằng
hệ thống pháp luật, chính sách để các thành phần ` kinh tế cùng có cơ hội phát triển trong một môi š
trường cạnh tranh lành mạnh.

2. Ưu điểm kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng
lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ
chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, cho phép họ tăng quy mô sản xuất,
và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản
xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất
thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh
nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt
nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm của mình.

Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương thức làm
việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển

chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý kinh doanh, cũng là nơi để
đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao.

Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển
có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát
triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình. Trong thương mại quốc tế,
mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên.

Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở
Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này. Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi
mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này tìm ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với
mức lương cao ở địa phương.

3. Nhược điểm kinh tế thị trường
Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội và
quan niệm.
Người giàu sẽ sử dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu ngày càng nhiều của cải và quyền
lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Cuối cùng sẽ dẫn tới phân chia giai cấp: thiểu
số người giàu nắm quyền lực cai trị xã hội, còn đa số là người nghèo có đời sống khó khăn. Chênh lệch
giàu nghèo quá mức sẽ dẫn tới nguy cơ bất ổn xã hội khi người nghèo đấu tranh (nhiều khi bằng bạo
loạn, lật đổ) để có cuộc sống tốt hơn.

Sau một thời gian cạnh tranh "cá lớn nuốt cá bé", các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng sản xuất lớn
mạnh hơn thôn tính. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có tiềm lực mạnh, họ sẽ thâu
tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ chỉ do một vài nhà tài phiệt nắm quyền thao
túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành kinh tế độc quyền chi phối. Các doanh nghiệp độc quyền
không có đối thủ cạnh tranh nên tùy ý chi phối thị trường, nếu Nhà nước không can thiệp thì họ sẽ cố
ý tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm để tăng thêm lợi nhuận, gây ra tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng.

Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm muộn sẽ dẫn
đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn
cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với cung. Hiện tượng này tích lũy qua nhiều
năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hoá bị ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để
thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại
khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ
1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ.

Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông tin có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu
quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến
cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là
nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp và lạm phát.

Trong một số tình huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Việc quá đề cao tính
thị trường mà không có sự điều tiết của Nhà nước sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá nhân, vì lợi ích cá
nhân mà vô cảm cộng đồng, nhất là trong những tình huống ngặt nghèo thì sẽ có những người vì lòng
tham lợi nhuận mà sẵn sàng gây tổn hại cho xã hội. Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc
men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy định mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn
thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để đẩy giá bán thuốc chữa bệnh lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ
không đủ tiền mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch. Hoặc thị trường sản xuất phim ảnh, ca nhạc,
giải trí vì chạy theo lợi nhuận mà sản xuất những tác phẩm mang nội dung phản cảm, đồi trụy, gây tổn
hại tới đạo đức xã hội.

Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực trong cạnh tranh, thì các điều kiện sau đây phải được
thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch, không có các ảnh hưởng
ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh doanh, không có lách luật v.v... Tuy nhiên,
trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ
chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phần gây ra khủng
hoảng kinh tế hoặc khủng hoảng nhân đạo. Khi đó sẽ có thất bại thị trường. Một ví dụ tiêu biểu là Hoa
Kỳ: nền y tế nước này hoàn toàn do tư nhân kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có chất
lượng hàng đầu thế giới, nhưng viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới. Nếu không có bảo
hiểm y tế, một bệnh nhân có thể tiêu tốn hàng trăm nghìn USD cho mỗi lần chữa bệnh, kết quả là
những người thu nhập thấp sẽ không được hệ thống y tế này cứu chữa. Hoạt động xét nghiệm y tế ở
Hoa Kỳ không được kiểm soát trên toàn quốc, nước này cũng không có hệ thống chăm sóc sức khỏe
tập trung và xét nghiệm y tế tập trung do chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi Đại dịch
COVID-19 xảy ra, Hoa Kỳ đã trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng chục triệu ca
nhiễm bệnh, trong đó vài trăm nghìn người đã chết

Trong điều kiện Kinh tế chiến tranh thì kinh tế thị trường lại không hiệu quả bằng kinh tế kế hoạch. Khi
xảy ra chiến tranh, kinh tế thị trường không cho phép tập trung các nguồn tài nguyên, năng lực sản
xuất vào mục tiêu quan trọng nhất là sản xuất quốc phòng (bởi các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến lợi
nhuận của bản thân, họ sẽ vẫn tập trung sản xuất các mặt hàng khan hiếm như thực phẩm, hàng tiêu
dùng chứ không ưu tiên sản xuất trang bị cho quân đội). Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại
lợi ích của quốc gia, ví dụ như bán vũ khí, bí mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận hối lộ của
nước đối thủ để ngừng sản xuất hàng hóa thiết yếu cho đất nước. Do vậy, nếu xảy ra chiến tranh,
Chính phủ các nước thường chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để ngăn chặn tình trạng khủng
hoảng xã hội, huy động thêm ngân sách để mở rộng quy mô quân đội, đồng thời tập trung tài nguyên
cho sản xuất quốc phòng và khôi phục trật tự kinh tế và xã hội. Tiêu biểu như Hoa Kỳ: khi Thế chiến 2
nổ ra, nước này đã đình chỉ một phần nền kinh tế thị trường để chuyển sang Kinh tế chiến tranh.
Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần 40% GDP Hoa Kỳ là để cung ứng cho chiến tranh. Chính
phủ ưu tiên cho các ngành sản xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất cả những yếu tố đầu
vào (nguyên liệu, nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được phân
phối cố định theo tem phiếu, giá cả và tiền lương được Chính phủ kiểm soát, và nhiều loại hàng hoá
tiêu dùng bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được Chính phủ Mỹ điều động vào quân
đội. Các nước tham chiến khác như Anh, Đức, Nhật, Ý... cũng thi hành những chính sách tương tự.

Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có một nền
kinh tế thị trường hoàn toàn tự do - tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị trường dù ít hay
nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (ngay cả

kinh tế Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng có 1 phần nhỏ là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia
đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị
trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, tuy có nền kinh tế chủ yếu
là thị trường tư nhân nhưng nước này vẫn có Đạo luật Sản xuất Quốc phòng (DPA), cho phép tổng
thống Mỹ có quyền yêu cầu doanh nghiệp buộc phải nhận và ưu tiên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết
bị được coi là cần thiết với quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp, Tổng thống
Mỹ cũng có quyền quy định những mặt hàng bị cấm tích trữ hoặc đầu cơ tăng giá.