KTCT 3 - Summary Kinh tế chính trị Mác-Lênin - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

KTCT 3 - Summary Kinh tế chính trị Mác-Lênin - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen 

1
MỤC LỤC KTCT
ĐỀ 1. luận chung về sản xuất hàng hóa. Thử đặt mình vào vị trí nhà sản xuất để làm
trách nhiệm hội của mình đối với người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hóa...................2
ĐỀ 2. Quy luật giá trị: yêu cầu và các tác động của quy luật giá trị. Hãy thử đặt mình ở vị trí
nhà sản xuất, chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm để cho doanh nghiệp
của mình sản xuất kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường.................................9
ĐỀ 3. Lý luận chung về lợi nhuận, lợi nhuận ngân hàng và địa tô. Giả sử mình là chủ doanh
nghiệp sản xuất, nhưng phải vay vốn của ngân hàng để kinh doanh, lại phải thuê mặt bằng
để làm nhà xưởng, vậy người chủ doanh nghiệp sản xuất phải có trách nhiệm gì với người lao
động của mình? Với ngân hàng với người cho thuê mặt bằng để làm nhà xưởng?..............15
ĐỀ 4. Lý luận chung về cạnh tranh và độc quyền. Vì sao phải bảo vệ cạnh tranh lành mạnh
và hạn chế độc quyền? Thử đề xuất biện pháp bảo vệ cạnh tranh lành mạnh và hạn chế độc
quyền..............................................................................................................................................23
ĐỀ 5. Lý luận chung về lợi ích kinh tế. Với tư cách là công dân, hãy đề xuất các phương thức
để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các hoạt động kinh tế xã hội?......................29
ĐỀ 6. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Hãy chỉ ra những cơ hội và thách thức
đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Để nâng cao hiệu qutrong hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phải m gì?.........................................................................36
ĐỀ 7. Phân tích lượng giá trị hàng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng
hóa?................................................................................................................................................43
ĐỀ 8. Phân tích mối quan hệ giữa nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu? Ở Việt
nam hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước tồn tại dựa trên chế độ sở hữu liệu sản xuất
nào? Muốn cho thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ta phải làm gì?....................47
ĐỀ 9. Trình bày thị trường chế thị trường? Phân tích các chức năng bản của thị
trường. Liên hệ cách xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường hội chủ nghĩa ở Việt
Nam................................................................................................................................................49
ĐỀ 10. luận về địa tô của C.Mác? Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai ở Việt
Nam hiện nay?...............................................................................................................................51
ĐỀ 11. Nêu các khái niệm chỉ ra mối liên hệ giữa lợi nhuận lợi tức. Một chủ doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, nhưng phải vay vốn để sản xuất. Vậy người ch
doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm gì đối với người lao động của mình? Với người cho vay
vốn?................................................................................................................................................54
ĐỀ 12. Phân biệt sức lao động lao động. Hãy chứng minh sức lao động là ng hoá đặc
biệt..................................................................................................................................................57
2
ĐỀ 1. luận chung về sản xuất hàng hóa. Thử đặt mình vào vị trí nhà sản xuất để
làm rõ trách nhiệm xã hội của mình đối với người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng
hóa.
MỞ ĐẦU: Nền sản xuất xã hội Việt Nam đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó
sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Trước những năm 1986, nền kinh tế tự cung tự cấp
được Việt Nam áp dụng. Tuy nhiên, sau đó nền kinh tế này không còn phù hợp với tình hình định
hướng chung của Việt Nam và thể hiện ra những mặt yếu kém, kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế. Nhận thấy những khuyết điểm đó, Đảng Nhà nước đã quyết định đổi mới nền kinh tế sang
nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nhờ đó, sản xuất hàng hóa đã trở thành động lực thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; góp phần giúp đất nước ta hội nhập và phát triển như ngày hôm nay.
thể nói sự ra đời của sản xuất hàng hoá chính là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của lịch
sử loài người, xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao
hiệu quả kinh tế của xã hội. Nhắc đến sản xuất hàng hóa thì không thể không kể đến mối quan hệ,
tác động giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Đó là mối quan hệ mật thiết và tất yếu đặc biệt là ở
khâu tiêu thụ sản phẩm. Nếu như trước đây, trong thời kỳ bao cấp, mối quan hệ này không quan
trọng bởi vì hàng hóa sản xuất ra chắc chắn sẽ có nơi tiêu thụ thì ngày nay luôn tồn tại cạnh tranh
trong thị trường và nếu doanh nghiệp hay các nhà sản xuất không có sự quan tâm và đánh giá đúng
đắn thì hàng hóa của họ sẽ không thể bán được. Vì vây, việc nghiên cứu lý luận chung về sản
xuất hàng hóa, vận dụng lý thuyết để thử đặt mình là nhà sản xuất và đánh giá trách nhiệm xã hội
của nhà sản xuất đối với người tiêu thụ trong việc sản xuất hàng hóa một việc quan trọng ý
nghĩa lý luận và thực tiễn đối với quá trình sản xuất hàng hóa và phát triển nền kinh tế quốc gia.
NỘI DUNG:
I. Lý luận chung về sản xuất hàng hóa:
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa:
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa kiểu tổ chức kinh tế đó, những người sản xuất ra
sản phẩm không nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính mình để trao đổi, mua
bán.
Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử. Không phải ngay từ khi sinh ra con người đã sản
xuất hàng hóa để trao đổi, buôn bán mà ban đầu họ lao động để đáp ứng một cách trực tiếp nhu cầu
của bản thân. Đây chính là nền sản xuất tự cấp tự túc. Chính vì con người tự lao động cho bản thân
3
không mở rộng quan hệ hay liên quan đến các đơn vị khác nên bị giới hạn nhu cầu hạn
hẹp của mỗi nhân. Loại hình tổ chức kinh tế này chỉ phù hợp khi lực lượng sản xuất còn chưa
phát triển và lao động thủ công chiếm đa phần như thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến,..
Dần dần khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động cao thì xuất hiện sản xuất hàng hóa.
Phương thức sản xuất thủ công lạc hậu, quy mô nhỏ đã được thay thế bằng phương thức sản xuất
hiện đại với quy mô lớn.
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa: Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự
xuất hiện của xã hội loài người. Để nền kinh tế hàng hóa thể hình thành phát triển, theo C.Mác
cần hội đủ hai điều kiện gồm:
- Điều kiện thứ nhất: phân công lao động xã hội.
o Phân công lao động hội là sự phân chia lao động trong hội thành các ngành,
các lĩnh vực sản xuất khác nhau, dựa vào ưu thế, lợi thế tự nhiên; khả năng kỹ thuật; sở
trường năng khiếu của từng người, từng đơn vị… tạo nên sự chuyên môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người chỉ sản xuất một
hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của nhà sản xuất lại đòi hỏi nhiều loại
sản phẩm. Điều này dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Vì vậy, để thỏa mãn nhu cầu của
mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau, lúc này sản phẩm đó
được gọi là hàng hóa Ví dụ như để sản xuất một chiếc ô tô, các chi tiết như ghế ngồi, lốp xe,
ắc quy, đèn, kính,...mỗi chi tiết phải qua từng công ty chuyên sản xuất chi tiết đó cung cấp,
sau đó mới lắp ráp thành chiếc ô tô.. Như vậy, do sự phân công lao động xã hội nên việc trao
đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
o Theo C. Mác “Sự phân công lao động hội điều kiện tồn tại của nền sản xuất
hàng hóa, mặc dù ngược lại, sản xuất hàng hóa không phải là điều kiện tồn tại của sự phân
công lao động xã hội.” Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm
cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự
trao đổi sản phẩm.
- Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
o Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản
xuất độc lập với nhau, khác nhau về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng
sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, tức phải trao đổi
dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập
4
không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.Vì vậy, sự tách
biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra
đời và phát triển. Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất xuất
hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu. Khi sự tách biệt về kinh tế giữa
những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội thì việc trao
đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ
có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi hàng
hóa, sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa. Xã hội loài người càng phát triển, càng làm
cho sự tách biệt về quyền sở hữu càng sâu sắc, nền sản xuất hàng hóa vì thế càng ngày càng
phát triển phong phú.
o Từ hai điều kiện trên thể thấy rằng trong khi phân công lao động xã hội làm nảy
sinh các quan hệ kinh tế giữa những chủ thể sản xuất trong xã hội, làm cho họ có liên quan
đến nhau, phải dựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau thì sự tách biệt về lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể sản xuất trong hội lại khiến cho họ tách biệt với nhau. Đây một mâu thuẫn.
Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau.
o Trên đây là hai điều kiện cần có cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một
trong hai điều kiện thì không thể có sản xuất hàng hóa.
3. Ưu thế của sản xuất hàng hóa: So với nền sản xuất tự nhiên, tự túc thì sản xuất hàng hóa có
những ưu điểm nổi bật sau:
- Một là, tạo khả năng thỏa mãn tối đa các nhu cầu luôn phát triển của con người. Xã
hội ngày càng phát triển, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng, đòi hỏi sự nâng cao cả
về lượng chất. Sự đa dạng của hàng hóa nhờ vào sản xuất sẽ làm cho họ nhiều sự lựa
chọn phù hợp với nhu cầu điều kiện của bản thân hơn. Từ đó góp phần cải thiện hội,
nâng cao đời sống đồng thời làm tăng khả năng lao động của mỗi người.
- Hai là kích thích sự năng động, sáng tạo của con người bởi sự tác động của quy luật
vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... Các quy
luật này buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, sáng tạo và nhạy bén, đánh
giá đúng thị trường, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế; cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại để hàng hóa ngày càng đa dạng,
phong phú đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.,
5
- Ba là sản xuất hàng hóa thúc đẩy các quan hệ kinh tế luôn rộng mở, từ đó góp phần
thúc đẩy văn minh cho con người.Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự
mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú
hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, sản xuất hàng hóa cũng có mặt trái và tác động
tiêu cực đối với đời sống kinh tế, xã hội như phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất; chạy
theo lợi ích cá nhân làm tổn hại đến các giá trị đạo đức truyền thống, nạn hàng giả, hàng kém chất
lượng, thậm chí hàng hóa độc hại cũng thđem ra trao đổi gây tổn hại cho hội; sản xuất
không kiểm soát được tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối, khủng hoảng kinh tế, phá hoại môi trường sinh
thái… Những tác động tiêu cực đó có thể hạn chế được, nếu có sự quản lý, điều tiết từ một chủ thể
chung của toàn bộ nền kinh tế là nhà nước.
II. Trách nhiệm hội của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng
hóa:
Đi kèm với các hoạt động sản xuất, sự tham gia vào nền kinh tế những trách nhiệm của
nhà sản xuất đối với nhà nước, xã hội, người lao động,… và đặc biệt là người tiêu dùng. Mối quan
hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng là mối quan hệ mật thiết và tất yếu đặc biệt là ở khâu tiêu
thụ sản phẩm. Trách nhiệm hội của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng trong sản xuất hàng
hóa nằm ở nhiều khía cạnh:
- Một là, các nhà sản xuất có trách nhiệm sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu
dùng cần muốn với một mức giá thể duy trì công ty đồng thời thỏa mãn túi tiền của
nhiều tầng lớp khách hàng. Hay nói cách khác người sản xuất có trách nhiệm đóng góp vào sự
phát triển bền vững, cải thiện chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng ở một mức độ nào đó
mà vẫn đảm bảo lợi ích của mình. Điều này cũng được thể hiện một phần trong ưu thế của sản
xuất hàng hóa. Đó là khả năng thỏa mãn các nhu cầu luôn phát triển của con người. Hàng hóa
cần được sản xuất đa dạng cả về mẫu mã lẫn giá cả để có thể phù hợp với mức thu nhập khác
nhau của người tiêu dùng. Người sản xuất không ngừng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật nhằm đáp
ứng nhu cầu và thị hiếu ngày càng cao của khách hàng. Ví dụ như các doanh nghiệp sản xuất
ô tô nên sản xuất ô với nhiều mức giá khác nhau, tạo điều kiện cho ngay cả những khách
hàng thu nhập không quá cao, hoặc có các chương trình hỗ trợ như trả góp, khuyến
mãi...Đồng thời thường xuyên cập nhật những mẫu mã mới, đáp ứng thị hiếu khách hàng. Khi
6
thực hiện những công việc này đồng thời nhà sản xuất cũng góp phần nâng cao lợi ích bản
thân và sự phát triển của doanh nghiệp.
- Hai là, ngoài việc cung cấp hàng hóa dịch vụ, trách nhiệm của các nhà sản xuất
còn liên quan đến các vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm. Chất lượng của hàng hóa phải
xứng đáng với giá tiền. Các quy trình sản xuất phải đảm bảo vệ sinh được giám sát chặt
chẽ; sử dụng nguyên liệu sạch, có nguồn gốc rõ ràng…. Đối với trường hợp hàng hóa là thực
phẩm, lương thực, các hoạt động vận chuyển, lưu giữ, bảo quản cần được chú trọng.
- Ba là, tuân thủ các quy định, quyết định về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Đây là trách nhiệm của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng nói riêng và nhà
nước nói chung.
- Bốn là, luôn đạo đức khi tham gia sản xuất hàng hóa. Mặc không được quy
định trong hệ thống pháp luật nhưng đạo đức nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng uy tín của nhà sản xuất và sự tin tưởng của người tiêu dùng.Trong kinh doanh, buôn
bán, niềm tin là một yếu tố quan trọng. Với thị trường có nhiều cạnh tranh như hiện nay, quyết
định chọn hàng hóa, sản phẩm hay dịch vụ nào là quyền của người tiêu dùng. Và đương nhiên
ai cũng muốn sản phẩm mình mua xứng đáng với số tiền bản thân bỏ ra. Nhưng người tiêu
dùng gần như không cách nào để biết được hàng hóa mình mua đạt chất lượng hay
không. Yếu tố duy nhất mà họ thể dựa vào là lòng tin đối với nhà sản xuất, với thông tin
được ghi trên bao bì. Chính vì vậy, các nhà sản xuất có trách nhiệm luôn trung thực trong hoạt
động sản xuất, làm đúng theo quy trình, không có thêm bất kỳ hành động gian dối, chạy theo
lợi nhuận nào, các thông tin trên bao bì phải được ghi một cách chính xác, đầy đủ... Ngoài ra
các khả năng mà sản phẩm có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng cũng
cần được cảnh bảo. Đặc biệt trường hợp sản xuất thuốc chữa bệnh, nguồn gốc nhập các
thành phần để điều chế phải được lựa chọn kỹ càng; cần phải có giấy hướng dẫn sử dụng, cảnh
báo tác dụng phụ; ngày sản xuất, ngày hết hạn được ghi chính xác. Trong trường hợp bất
kỳ tai nạn hay sai sót trong khâu sản xuất khiến hàng hóa bị ảnh hưởng, nhà sản xuất có trách
nhiệm kịp thời ngừng sản xuất, thông báo đến các bên liên quan; thu hồi, xử lý hàng hóa không
đảm bảo chất lượng. Hiện nay có một số hành động gian dối của một số nhà sản xuất như pha
thêm hóa chất melamine vào sữa, pha thêm cồn công nghiệp vào rượu,…. Các hành vi y tuy
đã bị xử lý theo pháp luật nhưng những tổn hại mà người tiêu dùng phải chịu là vô cùng lớn
không thểđắp được. vậy sự trung thực trong sản xuất là trách nhiệm hàng đầu của
7
các nhà sản xuất. Họ là những người chịu trách nhiệm trực tiếp cho sức khỏe của người tiêu
dùng.
Ngoài ra sự quan tâm, bảo vệ môi trường cũng một phần trong trách nhiệm xã hội của nhà
sản xuất đối với người tiêu dùng. Bởi vì khi gây ra tác động xấu đối với môi trường đồng thời sẽ
ảnh hưởng đến đời sống chung của xã hội, cộng đồng, trong đó người tiêu dùng chính nhà
sản xuất. Chẳng hạn nếu doanh nghiệp sản xuất xe hơi, phải tính toán được ngay cả năng lượng mà
sở tiêu thụ và tìm cách cải thiện nó. Nếu là công ty sản xuất giấy, phải xem chất thải ra bao nhiêu
và xử lý nó.
III. Liên hệ thực tiễn:
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn Việt Nam đã nhận ra rằng trách nhiệm xã hội là một yêu
cầu không thể thiếu đối với sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp. Bởi lẽ, trong bối cảnh toàn
cầu hóa như hiện nay nếu doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm xã hội thì sẽ không thể tiếp
cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại
những hiệu quả nhất định trong kinh doanh. Bên cạnh những hiệu quả kinh tế, doanh nghiệp còn
củng cố uy tín đối với người tiêu dùng, thu hút nhiều lao động có chuyên môn cao,… nâng cao tên
tuổi cho doanh nghiệp. Trong đó Vinamilk là một doanh nghiệp điển nh trong việc thực hiện trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp.
tập đoàn sản xuất ra những sản phẩm từ sữa Vinamilk thấy rằng việc thực hiện trách
nhiệm xã hội đối với người tiêu dùng là vô cùng quan trọng. Người tiêu dùng là yếu tố quyết định
thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy, Vinamilk đặc biệt quan tâm tới đối tượng này. Công ty cung
cấp hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng trong xã hội. Sản phẩm cung cấp đảm
bảo các yêu cầu về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm, phân phối
bán hàng, cạnh tranh. Người tiêu dùng có quyền tự do lựa chọn hàng hóa và dịch vụ phù hợp với
nhu cầu của mình với mức giá cả hợp lý. Toàn bộ các sản phẩm của công ty được sản xuất trên hệ
thống máy móc thiết bị hiện đại và được kiểm soát chặt chẽ theo hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn quốc tế ISO, HACCP do các ng ty hàng đầu thế giới chứng nhận. Đồng thời, tất cả
các sản phẩm của công ty đều đảm bảo thực hiện công bố đầy đủ theo qui định của pháp luật
luôn luôn có sự giám sát trực tiếp cũng như gián tiếp của các cơ quan chức năng. Hàng ngày, mỗi
nhà máy của Vinamilk sản xuất hàng chục triệu hộp sữa các loại với sự kiểm soát chặt chẽ từ nguyên
liệu đầu vào; vệ sinh máy móc thiết bị phân ởng sản xuất; quá trình sản xuất đến khi xuất
hàng. Để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, nguyên liệu sữa tươi được Vinamilk thu mua từ các
8
hộ nông dân trên cả nước luôn được kiểm tra nghiêm ngặt theo đúng quy trình. Việc kiểm tra chất
lượng nguyên liệu sữa tươi là biện pháp góp phần mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm
sữa chất lượng tốt, đồng thời phát triển ngành chăn nuôi sữa một cách hiệu quả, bền vững
cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Để sữa đạt chất lượng, bò của hộ nông dân cần
phải được nuôi dưỡng đúng kỹ thuật (khẩu phần đầy đủ, cho ăn đúng phương pháp, sức khỏe tốt
(không bệnh), chuồng trại sạch sẽ thoáng mát và áp dụng đúng kỹ thuật khai thác sữa (vệ sinh vắt
sữa, vắt cạn sữa). Công ty đã áp dụng hệ thống thang điểm vệ sinh chuồng trại chăn nuôi tổ chức
kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ giúp bà con nông dân nâng cao ý thức trong việc đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm trong chăn nuôi và khai thác sữa. Với sứ mệnh: Vinamilk cam kết mang đến cho
cộng đồng nguồn dinh dưỡng tốt nhất, chất lượng nhất bằng chính sự trân trọng, tình yêu và trách
nhiệm cao của mình đối với cuộc sống con người và xã hội, Vinamilk không những luôn nỗ lực
cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm
cao nhất mà còn luôn hướng đến phương châm hoạt động “Lợi ích của Người tiêu dùng là mục tiêu
phát triển của Vinamilk” bằng sự kết hợp của một dịch vụ sau bán hàng hoàn hảo với sự phục vụ
chu đáo, tận tâm luôn luôn lắng nghe ý kiến phản hồi từ khách hàng. Công ty phòng chăm
sóc khách hàng với các bác giàu kinh nghiệm sẵn sàng giải đáp tất cả các thắc mắc của khách
hàng như: cách sử dụng sữa, những loại sữa phù hợp cho từng độ tuổi, cách giảm cân, tăng cân,
những vấn đề sức khỏe khi sử dụng sữa….Bên cạnh đó Vinamilk tuân thủ Luật Bảo vệ môi trường,
cam kết mang đến cho cộng đồng một môi trường an toàn cho sức khỏe mọi người. Công ty luôn
nỗ lực trong việc đầu tư và sử dụng các trang thiết bị, máy móc cũng như sản xuất sản phẩm thân
thiện với môi trường. Tất cả chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh đều được kiểm
soát xử theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Công ty cam kết luôn chung tay xây dựng
một môi trường thân thiện, hòa bình, phát triển cho tương lai. Bảo vệ môi trường cũng có nghĩa là
công ty sẽ gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững
đất nước, bảo vệ môi trường quốc gia gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực toàn cầu. Vinamilk
luôn hướng tới người tiêu dùng để đáp ứng thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu khi tạo ra sản phẩm.
Nhu cầu của người tiêu dùng luôn thay đổi, cách tốt nhất để làm được điều đó là luôn tôn trọng ý
kiến người tiêu dùng, cũng như tạo một môi trường thoải mái, thân thiện, kịp thời để trao đổi thông
tin với người tiêu dùng. Công ty cam kết luôn đón nhận thông tin từ phía người tiêu dùng như
những đóng góp về sản phẩm, mối quan m, thắc mắc hay cả những khiếu nại với thái độ trân
trọng nhất, lịch sự nhất, kịp thời nhất cũng như cam kết sẽ điều tra và giải quyết thích đáng ngay
lập tức đối với những vấn đề liên quan đến an toàn về sản phẩm, dịch vụ.
9
Tuy nhiên, cũng không ít doanh nghiệp đã không thực hiện nghiêm túc trách nhiệm
hội của mình. Điều đó được thể hiện qua các hành vi gian lận, trong kinh doanh, báo cáo tài chính,
sản xuất kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi trường. Điển hình các vụ x
nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng
dân cư của các công ty Miwon, công ty giấy Việt Trì, bột ngọt Vedan,…; các vụ sản xuất thực phẩm
chứa chất hại cho sức khỏe của con người: bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa n the,
sữa có chứa melamine;… Để khắc phục tình trạng này, nhà nước cần có các chính sách, biện pháp
cụ thể: bổ sung và hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam; tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho các doanh nghiệp; các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc
thực hiện trách nhiệm xã hội,…Bên cạnh đó bản thân các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến tầm
quan trọng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội, có các định hướng, chiến lược cụ thể, chính xác
để hoàn thiện hơn các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội.
KẾT LUẬN: Sự ra đời của sản xuất hàng hoá chính bước ngoặt căn bản trong lịch sử
phát triển của lịch sử loài người. Cùng với khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, sản xuất hàng
hóa đang ngày càng trở nên phát triển, góp phần nâng cao đời sống chung của xã hội. Vì vậy việc
nghiên cứu sản xuất hàng hóa đánh giá về trách nhiệm hội của nhà sản xuất đối với người
tiêu dùng trong hoạt động sản xuất là một việc quan trọng và cần thiết. Mục đích chính của bất kể
nền kinh tế nào cuối cùng cũng sản xuất ra hàng hóa đáp ứng nhu cầu con người. Chính thế
sản xuất hàng hóa ngày càng được chú trọng, đầu và phát triển. Vai trò của sản xuất hàng hóa
càng lớn thì trách nhiệm của nhà sản xuất càng cao. Lĩnh vực sản xuất hàng hóa sẽ chỉ phát triển
theo hướng tích cực và vững bền khi tất cả các nhà sản xuất đều thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
mình, đặc biệt là trách nhiệm đối với người tiêu dùng.
ĐỀ 2. Quy luật giá trị: yêu cầu và các tác động của quy luật giá trị. Hãy thử đặt mình
vị trí nhà sản xuất, chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm để cho
doanh nghiệp của mình sản xuất kinh doanh lãi trong điều kiện kinh tế thị
trường.
MỞ ĐẦU:
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất của sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Đúng như Mác đã nói “Ở đâu có trao đổi, sản xuất hàng hóa thì ở đấy có sự hoạt
động của quy luật giá trị”.
10
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị, nên không
khai thác triệt để được các nguồn lực, dẫn đến nền kinh tế kém phát triển, rơi vào khủng hoảng.
Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta phát triển sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị hoạt động, tạo
nên sự cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế,...
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa ý nghĩa lý luận và thực
tiện hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các
nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình
đẳng trong xã hội.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực một cách tự phát
khách quan. Thấy được điều đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà nước
và các doanh nghiệp cần những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
NỘI DUNG:
I. Yêu cầu của quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuấttrao đổi hàng hóa phải dựa
trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
1. Đối với sản xuất:
- Theo yêu cầu của quy luật giá trị, người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị
trường, muốn được xã hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải
phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết.
- Trong sản xuất, người sản xuất phải mức hao phí lao động biệt của mình nhỏ
hơn hoặc bằng với mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì mới đạt được lợi thế cạnh tranh.
Vì vậy họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống mức chi phí mà xã
hội chấp nhận được để bù đắp được chi phí sản xuất và có lợi nhuận.
2. Đối với lưu thông:
- Trong trao đổi, cần thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không
dựa trên giá trị cá biệt. Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao
động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện khi giá cả bằng giá trị.
| 1/60

Preview text:

MỤC LỤC KTCT
ĐỀ 1. Lý luận chung về sản xuất hàng hóa. Thử đặt mình vào vị trí nhà sản xuất để làm rõ
trách nhiệm xã hội của mình đối với người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hóa...................2

ĐỀ 2. Quy luật giá trị: yêu cầu và các tác động của quy luật giá trị. Hãy thử đặt mình ở vị trí
nhà sản xuất, chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm để cho doanh nghiệp
của mình sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường.................................9

ĐỀ 3. Lý luận chung về lợi nhuận, lợi nhuận ngân hàng và địa tô. Giả sử mình là chủ doanh
nghiệp sản xuất, nhưng phải vay vốn của ngân hàng để kinh doanh, lại phải thuê mặt bằng
để làm nhà xưởng, vậy người chủ doanh nghiệp sản xuất phải có trách nhiệm gì với người lao
động của mình? Với ngân hàng và với người cho thuê mặt bằng để làm nhà xưởng?..............15

ĐỀ 4. Lý luận chung về cạnh tranh và độc quyền. Vì sao phải bảo vệ cạnh tranh lành mạnh
và hạn chế độc quyền? Thử đề xuất biện pháp bảo vệ cạnh tranh lành mạnh và hạn chế độc
quyền..............................................................................................................................................23

ĐỀ 5. Lý luận chung về lợi ích kinh tế. Với tư cách là công dân, hãy đề xuất các phương thức
để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các hoạt động kinh tế xã hội?......................29

ĐỀ 6. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Hãy chỉ ra những cơ hội và thách thức
đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Để nâng cao hiệu quả trong hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phải làm gì?.........................................................................36

ĐỀ 7. Phân tích lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng
hóa?................................................................................................................................................43

ĐỀ 8. Phân tích mối quan hệ giữa nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu? Ở Việt
nam hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước tồn tại dựa trên chế độ sở hữu tư liệu sản xuất
nào? Muốn cho thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ta phải làm gì?....................47

ĐỀ 9. Trình bày thị trường và cơ chế thị trường? Phân tích các chức năng cơ bản của thị
trường. Liên hệ cách xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam................................................................................................................................................49

ĐỀ 10. Lý luận về địa tô của C.Mác? Vận dụng lý luận địa tô trong việc quản lý đất đai ở Việt
Nam hiện nay?...............................................................................................................................51

ĐỀ 11. Nêu các khái niệm và chỉ ra mối liên hệ giữa lợi nhuận và lợi tức. Một chủ doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, nhưng phải vay vốn để sản xuất. Vậy người chủ
doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm gì đối với người lao động của mình? Với người cho vay
vốn?................................................................................................................................................54

ĐỀ 12. Phân biệt sức lao động và lao động. Hãy chứng minh sức lao động là hàng hoá đặc
biệt..................................................................................................................................................57
1
ĐỀ 1. Lý luận chung về sản xuất hàng hóa. Thử đặt mình vào vị trí nhà sản xuất để
làm rõ trách nhiệm xã hội của mình đối với người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hóa.
MỞ ĐẦU: Nền sản xuất xã hội Việt Nam đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là
sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Trước những năm 1986, nền kinh tế tự cung tự cấp
được Việt Nam áp dụng. Tuy nhiên, sau đó nền kinh tế này không còn phù hợp với tình hình định
hướng chung của Việt Nam và thể hiện ra những mặt yếu kém, kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế. Nhận thấy những khuyết điểm đó, Đảng và Nhà nước đã quyết định đổi mới nền kinh tế sang
nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nhờ đó, sản xuất hàng hóa đã trở thành động lực thúc đẩy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; góp phần giúp đất nước ta hội nhập và phát triển như ngày hôm nay. Có
thể nói sự ra đời của sản xuất hàng hoá chính là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của lịch
sử loài người, xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao
hiệu quả kinh tế của xã hội. Nhắc đến sản xuất hàng hóa thì không thể không kể đến mối quan hệ,
tác động giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Đó là mối quan hệ mật thiết và tất yếu đặc biệt là ở
khâu tiêu thụ sản phẩm. Nếu như trước đây, trong thời kỳ bao cấp, mối quan hệ này không quan
trọng bởi vì hàng hóa sản xuất ra chắc chắn sẽ có nơi tiêu thụ thì ngày nay luôn tồn tại cạnh tranh
trong thị trường và nếu doanh nghiệp hay các nhà sản xuất không có sự quan tâm và đánh giá đúng
đắn thì hàng hóa của họ sẽ không thể bán được. Vì vây, việc nghiên cứu và lý luận chung về sản
xuất hàng hóa, vận dụng lý thuyết để thử đặt mình là nhà sản xuất và đánh giá trách nhiệm xã hội
của nhà sản xuất đối với người tiêu thụ trong việc sản xuất hàng hóa là một việc quan trọng có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn đối với quá trình sản xuất hàng hóa và phát triển nền kinh tế quốc gia. NỘI DUNG:
I. Lý luận chung về sản xuất hàng hóa:
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa:
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người sản xuất ra
sản phẩm không nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính mình mà để trao đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử. Không phải ngay từ khi sinh ra con người đã sản
xuất hàng hóa để trao đổi, buôn bán mà ban đầu họ lao động để đáp ứng một cách trực tiếp nhu cầu
của bản thân. Đây chính là nền sản xuất tự cấp tự túc. Chính vì con người tự lao động cho bản thân 2
mà không mở rộng quan hệ hay liên quan đến các đơn vị khác nên nó bị giới hạn ở nhu cầu hạn
hẹp của mỗi cá nhân. Loại hình tổ chức kinh tế này chỉ phù hợp khi lực lượng sản xuất còn chưa
phát triển và lao động thủ công chiếm đa phần như thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến,..
Dần dần khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động cao thì xuất hiện sản xuất hàng hóa.
Phương thức sản xuất thủ công lạc hậu, quy mô nhỏ đã được thay thế bằng phương thức sản xuất
hiện đại với quy mô lớn.
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa: Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự
xuất hiện của xã hội loài người. Để nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển, theo C.Mác
cần hội đủ hai điều kiện gồm:
- Điều kiện thứ nhất: phân công lao động xã hội. o
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành,
các lĩnh vực sản xuất khác nhau, dựa vào ưu thế, lợi thế tự nhiên; khả năng kỹ thuật; sở
trường năng khiếu của từng người, từng đơn vị… tạo nên sự chuyên môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người chỉ sản xuất một
hoặc một số sản phẩm nhất định. Trong khi nhu cầu của nhà sản xuất lại đòi hỏi nhiều loại
sản phẩm. Điều này dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Vì vậy, để thỏa mãn nhu cầu của
mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau, lúc này sản phẩm đó
được gọi là hàng hóa Ví dụ như để sản xuất một chiếc ô tô, các chi tiết như ghế ngồi, lốp xe,
ắc quy, đèn, kính,...mỗi chi tiết phải qua từng công ty chuyên sản xuất chi tiết đó cung cấp,
sau đó mới lắp ráp thành chiếc ô tô.. Như vậy, do sự phân công lao động xã hội nên việc trao
đổi sản phẩm trở thành tất yếu. o
Theo C. Mác “Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản xuất
hàng hóa, mặc dù ngược lại, sản xuất hàng hóa không phải là điều kiện tồn tại của sự phân
công lao động xã hội.” Phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất đồng thời làm
cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
- Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất. o
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người sản
xuất độc lập với nhau, khác nhau về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng
sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm, tức là phải trao đổi
dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập 3
và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.Vì vậy, sự tách
biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra
đời và phát triển. Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất xuất
hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu. Khi sự tách biệt về kinh tế giữa
những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội thì việc trao
đổi sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ
có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi hàng
hóa, sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa. Xã hội loài người càng phát triển, càng làm
cho sự tách biệt về quyền sở hữu càng sâu sắc, nền sản xuất hàng hóa vì thế càng ngày càng phát triển phong phú. o
Từ hai điều kiện trên có thể thấy rằng trong khi phân công lao động xã hội làm nảy
sinh các quan hệ kinh tế giữa những chủ thể sản xuất trong xã hội, làm cho họ có liên quan
đến nhau, phải dựa vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau thì sự tách biệt về lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể sản xuất trong xã hội lại khiến cho họ tách biệt với nhau. Đây là một mâu thuẫn.
Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. o
Trên đây là hai điều kiện cần có cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một
trong hai điều kiện thì không thể có sản xuất hàng hóa.
3. Ưu thế của sản xuất hàng hóa: So với nền sản xuất tự nhiên, tự túc thì sản xuất hàng hóa có
những ưu điểm nổi bật sau: -
Một là, tạo khả năng thỏa mãn tối đa các nhu cầu luôn phát triển của con người. Xã
hội ngày càng phát triển, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng tăng, đòi hỏi sự nâng cao cả
về lượng và chất. Sự đa dạng của hàng hóa nhờ vào sản xuất sẽ làm cho họ có nhiều sự lựa
chọn phù hợp với nhu cầu và điều kiện của bản thân hơn. Từ đó góp phần cải thiện xã hội,
nâng cao đời sống đồng thời làm tăng khả năng lao động của mỗi người. -
Hai là kích thích sự năng động, sáng tạo của con người bởi sự tác động của quy luật
vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... Các quy
luật này buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, sáng tạo và nhạy bén, đánh
giá đúng thị trường, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế; cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại để hàng hóa ngày càng đa dạng,
phong phú đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn., 4 -
Ba là sản xuất hàng hóa thúc đẩy các quan hệ kinh tế luôn rộng mở, từ đó góp phần
thúc đẩy văn minh cho con người.Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự
mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, sản xuất hàng hóa cũng có mặt trái và tác động
tiêu cực đối với đời sống kinh tế, xã hội như phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất; chạy
theo lợi ích cá nhân làm tổn hại đến các giá trị đạo đức truyền thống, nạn hàng giả, hàng kém chất
lượng, thậm chí hàng hóa độc hại cũng có thể đem ra trao đổi gây tổn hại cho xã hội; sản xuất
không kiểm soát được tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối, khủng hoảng kinh tế, phá hoại môi trường sinh
thái… Những tác động tiêu cực đó có thể hạn chế được, nếu có sự quản lý, điều tiết từ một chủ thể
chung của toàn bộ nền kinh tế là nhà nước.
II. Trách nhiệm xã hội của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hóa:
Đi kèm với các hoạt động sản xuất, sự tham gia vào nền kinh tế là những trách nhiệm của
nhà sản xuất đối với nhà nước, xã hội, người lao động,… và đặc biệt là người tiêu dùng. Mối quan
hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng là mối quan hệ mật thiết và tất yếu đặc biệt là ở khâu tiêu
thụ sản phẩm. Trách nhiệm xã hội của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng trong sản xuất hàng
hóa nằm ở nhiều khía cạnh: -
Một là, các nhà sản xuất có trách nhiệm sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu
dùng cần và muốn với một mức giá có thể duy trì công ty đồng thời thỏa mãn túi tiền của
nhiều tầng lớp khách hàng. Hay nói cách khác người sản xuất có trách nhiệm đóng góp vào sự
phát triển bền vững, cải thiện chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng ở một mức độ nào đó
mà vẫn đảm bảo lợi ích của mình. Điều này cũng được thể hiện một phần trong ưu thế của sản
xuất hàng hóa. Đó là khả năng thỏa mãn các nhu cầu luôn phát triển của con người. Hàng hóa
cần được sản xuất đa dạng cả về mẫu mã lẫn giá cả để có thể phù hợp với mức thu nhập khác
nhau của người tiêu dùng. Người sản xuất không ngừng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật nhằm đáp
ứng nhu cầu và thị hiếu ngày càng cao của khách hàng. Ví dụ như các doanh nghiệp sản xuất
ô tô nên sản xuất ô tô với nhiều mức giá khác nhau, tạo điều kiện cho ngay cả những khách
hàng có thu nhập không quá cao, hoặc có các chương trình hỗ trợ như trả góp, khuyến
mãi...Đồng thời thường xuyên cập nhật những mẫu mã mới, đáp ứng thị hiếu khách hàng. Khi 5
thực hiện những công việc này đồng thời nhà sản xuất cũng góp phần nâng cao lợi ích bản
thân và sự phát triển của doanh nghiệp. -
Hai là, ngoài việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ, trách nhiệm của các nhà sản xuất
còn liên quan đến các vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm. Chất lượng của hàng hóa phải
xứng đáng với giá tiền. Các quy trình sản xuất phải đảm bảo vệ sinh và được giám sát chặt
chẽ; sử dụng nguyên liệu sạch, có nguồn gốc rõ ràng…. Đối với trường hợp hàng hóa là thực
phẩm, lương thực, các hoạt động vận chuyển, lưu giữ, bảo quản cần được chú trọng. -
Ba là, tuân thủ các quy định, quyết định về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Đây là trách nhiệm của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng nói riêng và nhà nước nói chung. -
Bốn là, luôn có đạo đức khi tham gia sản xuất hàng hóa. Mặc dù không được quy
định trong hệ thống pháp luật nhưng đạo đức nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng uy tín của nhà sản xuất và sự tin tưởng của người tiêu dùng.Trong kinh doanh, buôn
bán, niềm tin là một yếu tố quan trọng. Với thị trường có nhiều cạnh tranh như hiện nay, quyết
định chọn hàng hóa, sản phẩm hay dịch vụ nào là quyền của người tiêu dùng. Và đương nhiên
ai cũng muốn sản phẩm mình mua xứng đáng với số tiền bản thân bỏ ra. Nhưng người tiêu
dùng gần như không có cách nào để biết được hàng hóa mình mua có đạt chất lượng hay
không. Yếu tố duy nhất mà họ có thể dựa vào là lòng tin đối với nhà sản xuất, với thông tin
được ghi trên bao bì. Chính vì vậy, các nhà sản xuất có trách nhiệm luôn trung thực trong hoạt
động sản xuất, làm đúng theo quy trình, không có thêm bất kỳ hành động gian dối, chạy theo
lợi nhuận nào, các thông tin trên bao bì phải được ghi một cách chính xác, đầy đủ... Ngoài ra
các khả năng mà sản phẩm có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng cũng
cần được cảnh bảo. Đặc biệt là trường hợp sản xuất thuốc chữa bệnh, nguồn gốc nhập các
thành phần để điều chế phải được lựa chọn kỹ càng; cần phải có giấy hướng dẫn sử dụng, cảnh
báo tác dụng phụ; ngày sản xuất, ngày hết hạn được ghi chính xác. Trong trường hợp có bất
kỳ tai nạn hay sai sót trong khâu sản xuất khiến hàng hóa bị ảnh hưởng, nhà sản xuất có trách
nhiệm kịp thời ngừng sản xuất, thông báo đến các bên liên quan; thu hồi, xử lý hàng hóa không
đảm bảo chất lượng. Hiện nay có một số hành động gian dối của một số nhà sản xuất như pha
thêm hóa chất melamine vào sữa, pha thêm cồn công nghiệp vào rượu,…. Các hành vi này tuy
đã bị xử lý theo pháp luật nhưng những tổn hại mà người tiêu dùng phải chịu là vô cùng lớn
và không thể bù đắp được. Vì vậy sự trung thực trong sản xuất là trách nhiệm hàng đầu của 6
các nhà sản xuất. Họ là những người chịu trách nhiệm trực tiếp cho sức khỏe của người tiêu dùng.
Ngoài ra sự quan tâm, bảo vệ môi trường cũng là một phần trong trách nhiệm xã hội của nhà
sản xuất đối với người tiêu dùng. Bởi vì khi gây ra tác động xấu đối với môi trường đồng thời sẽ
ảnh hưởng đến đời sống chung của xã hội, cộng đồng, trong đó có người tiêu dùng và chính nhà
sản xuất. Chẳng hạn nếu doanh nghiệp sản xuất xe hơi, phải tính toán được ngay cả năng lượng mà
cơ sở tiêu thụ và tìm cách cải thiện nó. Nếu là công ty sản xuất giấy, phải xem chất thải ra bao nhiêu và xử lý nó.
III. Liên hệ thực tiễn:
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận ra rằng trách nhiệm xã hội là một yêu
cầu không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi lẽ, trong bối cảnh toàn
cầu hóa như hiện nay nếu doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm xã hội thì sẽ không thể tiếp
cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại
những hiệu quả nhất định trong kinh doanh. Bên cạnh những hiệu quả kinh tế, doanh nghiệp còn
củng cố uy tín đối với người tiêu dùng, thu hút nhiều lao động có chuyên môn cao,… nâng cao tên
tuổi cho doanh nghiệp. Trong đó Vinamilk là một doanh nghiệp điển hình trong việc thực hiện trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp.
Là tập đoàn sản xuất ra những sản phẩm từ sữa Vinamilk thấy rằng việc thực hiện trách
nhiệm xã hội đối với người tiêu dùng là vô cùng quan trọng. Người tiêu dùng là yếu tố quyết định
thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy, Vinamilk đặc biệt quan tâm tới đối tượng này. Công ty cung
cấp hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng trong xã hội. Sản phẩm cung cấp đảm
bảo các yêu cầu về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm, phân phối và
bán hàng, cạnh tranh. Người tiêu dùng có quyền tự do lựa chọn hàng hóa và dịch vụ phù hợp với
nhu cầu của mình với mức giá cả hợp lý. Toàn bộ các sản phẩm của công ty được sản xuất trên hệ
thống máy móc thiết bị hiện đại và được kiểm soát chặt chẽ theo hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn quốc tế ISO, HACCP do các công ty hàng đầu thế giới chứng nhận. Đồng thời, tất cả
các sản phẩm của công ty đều đảm bảo thực hiện công bố đầy đủ theo qui định của pháp luật và
luôn luôn có sự giám sát trực tiếp cũng như gián tiếp của các cơ quan chức năng. Hàng ngày, mỗi
nhà máy của Vinamilk sản xuất hàng chục triệu hộp sữa các loại với sự kiểm soát chặt chẽ từ nguyên
liệu đầu vào; vệ sinh máy móc thiết bị và phân xưởng sản xuất; quá trình sản xuất đến khi xuất
hàng. Để đảm bảo sức khỏe người tiêu dùng, nguyên liệu sữa tươi được Vinamilk thu mua từ các 7
hộ nông dân trên cả nước luôn được kiểm tra nghiêm ngặt theo đúng quy trình. Việc kiểm tra chất
lượng nguyên liệu sữa tươi là biện pháp góp phần mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm
sữa chất lượng tốt, đồng thời phát triển ngành chăn nuôi bò sữa một cách hiệu quả, bền vững và
cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Để sữa đạt chất lượng, bò của hộ nông dân cần
phải được nuôi dưỡng đúng kỹ thuật (khẩu phần đầy đủ, cho ăn đúng phương pháp, sức khỏe tốt
(không bệnh), chuồng trại sạch sẽ thoáng mát và áp dụng đúng kỹ thuật khai thác sữa (vệ sinh vắt
sữa, vắt cạn sữa). Công ty đã áp dụng hệ thống thang điểm vệ sinh chuồng trại chăn nuôi và tổ chức
kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ giúp bà con nông dân nâng cao ý thức trong việc đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm trong chăn nuôi và khai thác sữa. Với sứ mệnh: Vinamilk cam kết mang đến cho
cộng đồng nguồn dinh dưỡng tốt nhất, chất lượng nhất bằng chính sự trân trọng, tình yêu và trách
nhiệm cao của mình đối với cuộc sống con người và xã hội, Vinamilk không những luôn nỗ lực
cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm
cao nhất mà còn luôn hướng đến phương châm hoạt động “Lợi ích của Người tiêu dùng là mục tiêu
phát triển của Vinamilk” bằng sự kết hợp của một dịch vụ sau bán hàng hoàn hảo với sự phục vụ
chu đáo, tận tâm và luôn luôn lắng nghe ý kiến phản hồi từ khách hàng. Công ty có phòng chăm
sóc khách hàng với các bác sĩ giàu kinh nghiệm sẵn sàng giải đáp tất cả các thắc mắc của khách
hàng như: cách sử dụng sữa, những loại sữa phù hợp cho từng độ tuổi, cách giảm cân, tăng cân,
những vấn đề sức khỏe khi sử dụng sữa….Bên cạnh đó Vinamilk tuân thủ Luật Bảo vệ môi trường,
cam kết mang đến cho cộng đồng một môi trường an toàn cho sức khỏe mọi người. Công ty luôn
nỗ lực trong việc đầu tư và sử dụng các trang thiết bị, máy móc cũng như sản xuất sản phẩm thân
thiện với môi trường. Tất cả chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh đều được kiểm
soát và xử lý theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Công ty cam kết luôn chung tay xây dựng
một môi trường thân thiện, hòa bình, phát triển cho tương lai. Bảo vệ môi trường cũng có nghĩa là
công ty sẽ gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững
đất nước, bảo vệ môi trường quốc gia gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu. Vinamilk
luôn hướng tới người tiêu dùng để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu khi tạo ra sản phẩm.
Nhu cầu của người tiêu dùng luôn thay đổi, cách tốt nhất để làm được điều đó là luôn tôn trọng ý
kiến người tiêu dùng, cũng như tạo một môi trường thoải mái, thân thiện, kịp thời để trao đổi thông
tin với người tiêu dùng. Công ty cam kết luôn đón nhận thông tin từ phía người tiêu dùng như
những đóng góp về sản phẩm, mối quan tâm, thắc mắc hay cả những khiếu nại với thái độ trân
trọng nhất, lịch sự nhất, kịp thời nhất cũng như cam kết sẽ điều tra và giải quyết thích đáng ngay
lập tức đối với những vấn đề liên quan đến an toàn về sản phẩm, dịch vụ. 8
Tuy nhiên, cũng có không ít doanh nghiệp đã không thực hiện nghiêm túc trách nhiệm xã
hội của mình. Điều đó được thể hiện qua các hành vi gian lận, trong kinh doanh, báo cáo tài chính,
sản xuất kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi trường. Điển hình là các vụ xả
nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng
dân cư của các công ty Miwon, công ty giấy Việt Trì, bột ngọt Vedan,…; các vụ sản xuất thực phẩm
chứa chất có hại cho sức khỏe của con người: bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the,
sữa có chứa melamine;… Để khắc phục tình trạng này, nhà nước cần có các chính sách, biện pháp
cụ thể: bổ sung và hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam; tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho các doanh nghiệp; có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc
thực hiện trách nhiệm xã hội,…Bên cạnh đó bản thân các doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến tầm
quan trọng của việc thực hiện trách nhiệm xã hội, có các định hướng, chiến lược cụ thể, chính xác
để hoàn thiện hơn các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội.
KẾT LUẬN: Sự ra đời của sản xuất hàng hoá chính là bước ngoặt căn bản trong lịch sử
phát triển của lịch sử loài người. Cùng với khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, sản xuất hàng
hóa đang ngày càng trở nên phát triển, góp phần nâng cao đời sống chung của xã hội. Vì vậy việc
nghiên cứu sản xuất hàng hóa và đánh giá về trách nhiệm xã hội của nhà sản xuất đối với người
tiêu dùng trong hoạt động sản xuất là một việc quan trọng và cần thiết. Mục đích chính của bất kể
nền kinh tế nào cuối cùng cũng là sản xuất ra hàng hóa đáp ứng nhu cầu con người. Chính vì thế
sản xuất hàng hóa ngày càng được chú trọng, đầu tư và phát triển. Vai trò của sản xuất hàng hóa
càng lớn thì trách nhiệm của nhà sản xuất càng cao. Lĩnh vực sản xuất hàng hóa sẽ chỉ phát triển
theo hướng tích cực và vững bền khi tất cả các nhà sản xuất đều thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
mình, đặc biệt là trách nhiệm đối với người tiêu dùng.
ĐỀ 2. Quy luật giá trị: yêu cầu và các tác động của quy luật giá trị. Hãy thử đặt mình
ở vị trí nhà sản xuất, chỉ ra những công việc chủ doanh nghiệp cần phải làm để cho
doanh nghiệp của mình sản xuất và kinh doanh có lãi trong điều kiện kinh tế thị trường. MỞ ĐẦU:
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất của sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Đúng như Mác đã nói “Ở đâu có trao đổi, sản xuất hàng hóa thì ở đấy có sự hoạt
động của quy luật giá trị”. 9
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị, nên không
khai thác triệt để được các nguồn lực, dẫn đến nền kinh tế kém phát triển, rơi vào khủng hoảng.
Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta phát triển sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị hoạt động, tạo
nên sự cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế,...
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực
tiện hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các
nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực một cách tự phát
khách quan. Thấy được điều đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà nước
và các doanh nghiệp cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
nó, đặc biệt là trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. NỘI DUNG:
I. Yêu cầu của quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa
trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
1. Đối với sản xuất: -
Theo yêu cầu của quy luật giá trị, người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị
trường, muốn được xã hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải
phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. -
Trong sản xuất, người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt của mình nhỏ
hơn hoặc bằng với mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì mới đạt được lợi thế cạnh tranh.
Vì vậy họ phải luôn luôn tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống mức chi phí mà xã
hội chấp nhận được để bù đắp được chi phí sản xuất và có lợi nhuận. 2. Đối với lưu thông:
- Trong trao đổi, cần thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không
dựa trên giá trị cá biệt. Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao
động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải thực hiện khi giá cả bằng giá trị. 10