TRƯNG ĐI HC CN THƠ
TRƯNG SƯ PHM
--- ---
LÁ C THÊU SÁU CH VÀNG - NGUYN HUY TƯNG
HC PHN: VĂN HC THIU NHI (SG425)
Sinh viên thc hin:
QUÁCH KIM NGC
NGUYN TH CM VÂN
TH HƯƠNG LAN
B2307646
B2307666
B2307685
Ging viên hưng dn:
ThS. L Hùng Minh
Cn Thơ, ngày 17 tháng 03 năm 2025
0
Họ tên - MSSV
Công vic
Quách Kim Ngọc
B2307646
- Tìm nội dung soạn Word phần nội dung
tóm tắt tác phẩm mục 1, giá tr nghệ thuật
mục 1,2,3.
- Làm PPT thuyết trình phần giá trị nghệ
thuật tổng kết.
- Chỉnh sửa, kiểm tra lỗi chính tả, lỗi câu.
Nguyễn Thị Cẩm Vân
B2307666
- Tìm nội dung soạn Word phần nội dung
mục 2 3, giá trị nghệ thuật mục 4 và 5, tổng
kết.
- m PPT thuyết trình phần nội dung mục
2,3,4,5.
- Chỉnh sửa, kiểm tra lỗi chính tả, lỗi câu.
Thị Hương Lan
B2307685
- Tìm nội dung soạn Word phần tác giả- tác
phẩm, nội dung mục 4, 5.
- Làm PPT thuyết trình phần tác giả- tác
phẩm, nội dung phần tóm tắt mục 1.
- Chỉnh sửa, kiểm tra lỗi chính tả, lỗi câu.
1
MỤC LỤC
I.
TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
.......................................................................................
3
1.
Tác
gi
....................................................................................................................
3
1.1.
ợc về c giả
.................................................................................
3
1.2.
Phong ch ng tác
...........................................................................
4
a. Quan niệm sáng c:
..................................................................
4
b.
Phong cách ngh thuật
.............................................................
5
1.3.
Các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng
....................................
5
2.
Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”
.................................................
6
2.1.
Hoàn cảnh sáng tác
.............................................................................
6
2.2.
Cảm hứng sáng c
..............................................................................
7
II.
NỘI DUNG
............................................................................................................
8
Tóm tắt tác phẩm
...........................................................................................
8
1.
Lòng yêu nước của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
..............
9
2.
Lòng căm thù giặc của Hoài n hầu Trần Quốc Toản. 13
3.
Lòng hiếu thảo của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
..........
15
4.
Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản một người trọng tình
nghĩa
....................................................................................................................
16
5.
Chiến lược, i ng quân s chiến ng của Hoài
Văn hầu Trần Quốc Toản
.........................................................................
18
III.
GIÁ TR NGH THUẬT
................................................................................
20
1.
Nghệ thuật ngôn ng
..........................................................................
20
2.
Nghệ thuật miêu tả
...............................................................................
20
3.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật
......................................................
20
4. Nghệ thuật kết cấu
..............................................................................
21
5.
Lịch s đưc tiểu thuyết hoá nhuần nhuyễn
........................
21
IV.
TỔNG
KẾT
........................................................................................................
21
V.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
................................................................................
22
I.
C GIẢ - TÁC PHẨM
1.
Tác gi
1.1.
c về tác
gi
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) một n văn, nhà viết kịch
nổi tiếng ông sinh tại Làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay
Dục , huyện đông Anh, Nội). Cha mất sớm, từ nhỏ sống
với mẹ, năm 16 tuổi Nguyễn Huy ởng được gửi xuống học tập
Hải Phòng. Ông bước vào làng văn hơi muộn hơi muộn, mặc từ
năm 1930, trong nhật của mình, Nguyễn Huy tưởng đã viết:
“Phận sự của người tầm thường n tôi muốn lan tỏ lòng yêu nước
thì chỉ việc viết văn quốc ngữ” nhưng mãi đến thập kỷ 40 của thế
kỷ XX ông mới bắt đầu sáng tác. Ông ra đi tuổi 48 khi mới hoàn
thành xong tập I tiểu thuyết “Sống mãi với thủ đô” khát vọng một
đời n của ông vẫn còn dang dở, vậy khối lượng tác phẩm ông
để lại khá đồ sộ. Tháng 9/1996, Nguyễn Huy tưởng được Nhà nước
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, dành cho những tác phẩm tiêu
biểu của ông viết hai thời kỳ trước sau Cách mạng tháng tám
(1945).
Ngi việc một nhà văn, nhà soạn kịch, Nguyễn Huy ởng
n một nhà hoạt động ch mạng và yêu nước tích cực trong các
hoạt động hội chính trị:
Năm 1929 tiếp xúc với các chiến Việt Nam quốc dân
Đảng, năm 1930 tham gia phong trào học sinh Hải
Phòng . Treo cờ búa liềm chợ Sắt, rải truyền đơn cộng
sản,... Năm 1935 làm công chức sở Đoan (thuế quan).
Năm 1938 tham gia Hội Truyền quốc ngữ. Năm 1943
3
gia nhập nhóm Văn hoá cứu quốc mật được bầu làm
Tổng thư Hội Truyền Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó
ông tiếp tục hoạt động Nội, Nam Định, Phúc n.
Tháng 6 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng tham gia Ban biên
tập tạp chí Tiền phong của n a cu quốc, tham gia
Ban bn tập c báo o C giải phóng, Tn phong. Năm
1946 Ông đại biểu Quc hội khóa I,đại biểu tỉnh Bc
Ninh, ng năm vở diễn Bắc n của ông được công
diễn lần đầu tại Nhà hát Lớn, gây được s chú ý lớn của
độc giả. Tháng 7 được bầu làm Phó t ký Hội văn a cu
quốc Việt Nam. 19-2-1946 toàn quốc kháng chiến, nhận
trách nhiệm tổ chức và đưa đoàn Văn hóa kháng chiến n
Việt Bắc.
Năm 1947 làm báo Toàn dân kháng chiến của Liên Việt.
Tiếp tục hoạt động văn nghệ, ông ủy viên thường v Hội
Văn ngh Việt Nam, thư tòa soạn Tạp chí Văn nghệ, ủy
viên tiểu ban Văn ngh Trung ương Đảng.
Nguyễn Huy Tưởng người sáng lập giám đốc đầu tn
của nhà xut bản Kim Đng.
1.2.
Phong cách ng tác
a.
Quan niệm sáng c:
Bao trùm lên sáng tác của nhà n nguồn cảm hứng lớn
về lịch sử. Viết văn để tỏ lòng yêu nước, đó triết sống
là quan điểm sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng:"Phần
suốt một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước
thì chỉ việc viết văn quốc ngữ thôi."
Ông được mệnh danh “Người viết lịch sử bằng các tác
phẩm văn học.”
b.
Phong cách nghệ thuật:
Trong văn của ông luôn đầy chất thơ của cuộc sống
chất chứa những bài ca hy vọng, những bài học về tình
thương yêu những người thân, xóm giềng, cộng đồng và
đồng loại.
thiên hướng khai thác các đề tài lịch sử.
Đóng góp lớn nhất hai thể loại: tiểu thuyết, kịch.
Văn phong giản dị, trong sáng, thâm trầm, sâu sắc, gần
gũi với cuộc sống.
1.3.
Các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng
KỊCH
Vũ N (1941)
Cột đồng Viện (1944)
Bắc Sơn (1946)
Những người lại (1948)
Anh đầu quân (tập kịch ngắn) 1949
Lũy hoa (kịch bản phim) 1960
TRUYỆN
Đêm hội Long Trì (tiểu thuyết) 1942
An công chúa (tiểu thuyết) - 1944
Gốc đa (tập truyện ngắn) - 1954
Truyện anh Lục (tiểu thuyết) tập I, II năm 1955, tập III năm
1956
Bốn năm sau (truyện) 1959
5
Sống mãi với th đô (tiểu thuyết) 1961
SỰ
chiến khu (1946)
Ký s Cao Lạng (1951)
Gặp Bác (1956)
SÁCH THIẾU NHI
Thằng Quấy (1955)
An ơng ơng xây thành Ốc (1957)
Hai bàn tay chiến (1958)
Điện Bn Ph của chúng em (1960)
Tìm mẹ (1950)
cờ thêu sáu chữ vàng (1960)
K chuyện Quang Trung (1957)
Truyện viết cho thiếu nhi (1960)
Con cóc cậu ông trời.
2.
Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”
2.1.
Hoàn cảnh ng tác
c phm cờ thêu sáu chữ ng ra đời năm 1960, trong bối
cảnh đất nước ta đang gồng mình kháng chiến chống M. Đây cũng
một trong ba c phẩm cui cùng của nhà n Nguyễn Huy ng.
Ông viết tác phẩm này vào những ngày cuối đời, khi phải
chng chọi với bệnh tật. Tháng 2 m 1960, sức khỏe suy yếu,
ông vẫn kn t hoàn thành từng trang viết một cách trau chut, tỉ
mỉ. Đến tháng 3, ông ghi nhật ký: "Viết xong c tu u ch
ng". Tuy nhn, chưa hài lòng với bản thảo đầu tiên, ông quyết
định viết lại lần th hai. S khác biệt giữa hai lần ghi nhật ch
một ch "hoàn toàn", nng với một người tâm huyết như Nguyễn
Huy Tưởng, đó là c một hành trình chiến đấu với bnh tật để hoàn
thành tác phẩm một cách trọn vẹn nhất.
Chưa đầy nửa tháng sau khi hoàn thành tác phẩm, ông nhập
viện. Đáng tiếc, ông không kịp chứng kiến cuốn sách chính thức ra
mắt, nhà xuất bản đã gấp rút in ấn. Tuy vậy, niềm vui lớn nhất
của ông chính việc được xem bản in thử ngay trên giường bệnh.
Ông đã kịp sửa chữa đôi ba chữ lần cuối, trước khi vĩnh biệt cuộc đời.
2.2.
Cảm hứng sáng tác
Tác phẩm cờ thêu sáu chữ ng được sáng tác nhằm giáo
dục nhân cách, bồi dưỡng lòng yêu nước nâng cao hiểu biết của
trẻ em về lịch s dân tộc.
Tác phẩm ra đời từ những chiêm nghiệm sâu sắc về triều đại nhà
Trần
một thời kỳ Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt kính trọng. Câu
chuyện lấy cảm hứng từ cuộc kháng chiến chống quân Mông
Nguyên lần thứ hai (1285), khi đất nước đứng trước hiểm họa xâm
lăng nguy mất nước cận kề.
Tác phẩm đã tái hiện hình ảnh thiếu niên anh hùng Trần Quốc
Toản (Hoài Văn Hầu), tuổi còn nhỏ nhưng đã thể hiện tinh thần
yêu nước mãnh liệt lòng m thù giặc sâu sắc. Sau này, ông trở
thành một danh tướng kiệt xuất của triều Trần, góp phần vào chiến
thắng vẻ vang của dân tộc.
II.
NỘI DUNG
Tóm tắt tác phm:
u chuyn xoay quanh Hi n hu Trần Quốc Toản, một
thiếu nn tuy nh tuổi nhưng mang trong mình ng yêu nước mãnh liệt.
Mở đầu bằng giấc mơ k lạ của Quốc Toản trong cung điện Lan Đình.
Chàng thấy chính tay mình bt sống Sài Thung, mt tên s hống
ch của nhà Nguyên, khinh nước Nam bằng nửa con mắt.
B
iết được nhà Nguyên đưa sứ giả sang gây sức ép, triều đình
mở hội nghị Bình Than để bàn kế sách. Quốc Toản bất chấp tội phạm
thượng tới gặp nhà Vua bày t nỗi lòng “xin đánh” nhưng bị từ chi
7
chưa đủ tuổi. Căm phẫn, chàng thức bóp nát quả cam vua ban,
thề quyết không chịu đứng ngoài cuộc
.
Trở về quê, Quốc Toản dốc ng luyện võ, nghiên cứu binh thư.
Không lâu sau, chàng chiêu mộ được sáu trăm tráng sĩ, lập một đội
quân riêng với ngọn cờ thêu sáu chữ vàng
“PHÁ CƯỜNG ĐỊCH
BÁO HOÀNG ÂN”
, thể hiện quyết tâm đánh bại kẻ thù.
Quân giặc kéo đến, Quốc Toản cùng nghĩa quân xông pha
chiến trận, phối hp với tráng sĩ Nguyễn Thế Lộc lập n cứ Ma
Lục, gây thanh thế lớn. Trong một trận đánh, Chiêu Thành Vương
truy đui tên phản quốc Ích Tắc nhưng rơi vào ng vây giặc. Quốc
Toản lập tức giải y, cứu được Chu Tnh Vương, từ đó ng được
trọng dụng.
Sau s kiện y, Quốc Toản được giao trng trách trong trận
chiến tại Hàm T. Dù tớc quân địch đông đo, chàng không h nao
ng, dẫn quân ng cảm ng pha. Cuối cùng, Quốc Ton anh
ng hy sinh, nhưng hình nh ngọn c
PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO
HOÀNG ÂN
vẫn tung bay, tr thành biểu ợng bất diệt của lòng
u nước ý chí kiên cường.
1.
Lòng yêu nước của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
ng u c của Hoài n hầu Trần Quốc Toản được nhà n
Nguyễn Huy Tưởng gửi gắm qua nhiều khía cạnh: từ tinh thần qut khi,
ý chí chiến đấu đến hành động thực tiễn,
ng yêu c của Trần Quốc Toản kng ch mt ngọn lửa
âm mà bùng cháy dữ dội, thể hiện qua hai khía cạnh nổi bật: ng
m thù giặc sâu sắc tinh thần quyết tử cao đ. Ngay từ những
trang đầu ca câu chuyện, ta đã thấy một Trn Quốc Toản sục sôi
phẫn n trước sự ngạo mạn, hống hách của s giả nhà Ngun.
Chàng không thể chấp nhận được việc triều đình Đi Việt b s nhc,
đất c b xem thường. Cơn giận d y lớn đến mức ám ảnh c giấc
của chàng, i chàng tt hết căm hn n đầu i Thung
“Mày
còn dám đánh người chúng tao na không? Đng có khinh nước
Nam tao nhỏ!”
.
Sự căm t ấy không chỉ cảm xúc nhất thời, bộc phát
còn biểu hiện của lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ, không cho phép
bất kỳ ai xúc phạm đến danh dự của đất nước. Khi hay tin quê hương
Ninh bị giặc tàn phá, lòng chàng "nóng như lửa cháy", thôi thúc
chàng lập tức ra trận, xả thân nước. Chứng kiến cảnh đồng đội
khắc chữ "Sát Thát" lên cánh tay, chàng cũng không ngần ngại làm
điều tương tự, biến mối thù giặc thành một phần không thể tách rời
của bản thân. Hành động ấy không chỉ thể hiện lòng căm thù giặc
sâu sắc còn tinh thần quyết tử, sẵn sàng hy sinh thân mình
cho T quốc. Việc khắc chữ
"Sát Thát"
lên da thịt, chịu đựng nỗi đau
thể xác, minh chứng cho ý chí kiên cường, bất khuất của một
người con yêu nước, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản không ch thể hiện qua lời
nói còn được chứng minh bằng hành động thực tiễn ý chí
quyết tâm chống giặc mạnh mẽ. tuổi còn nhỏ, chàng đã khẳng
khái bày tỏ lòng quyết tâm đánh giặc, không ngại xông pha trận mạc
:
“Cháu còn ít tuổi thật. Nhưng bằng quân Nguyên sang cướp
nước ta, t cháu cũng xin theo các chú, các bác đi đánh giặc.
.
Khi
bị xem thường, chàng uất ức bóp nát quả cam, thể hiện lòng tự
trọng quyết tâm hành động. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt
quan trọng, khi lòng yêu nước của chàng biến thành hành động cụ
th.
Không cam chịu đứng ngoài cuộc chiến, Trần Quốc Toản tự
mình chiêu binh i mã, lập nên đội quân sáu trăm người trẻ tuổi
nhưng đầy nhiệt huyết. Chàng không chỉ lòng yêu nước còn
biết cách truyền lửa cho người khác, quy t những người cùng chí
hướng. Dưới cờ
PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN
, đội quân
của chàng ngày đêm luyện tập nghệ, thề đồng sinh cộng tử, th
hiện tinh thần đoàn kết quyết tâm chiến thắng.
9
10
Trần Quốc Toản không chỉ nhiệt huyết còn nghiêm túc rèn
luyện bản thân đ thể xông pha chiến trận. Chàng không ngừng
tập nghệ, học binh thư, luyện bắn cung thử thách bản thân với
những bài tập gian khổ. Chàng hiểu rằng
"quân quý giỏi, không quý
nhiều", nên càng khắt khe hơn trong việc rèn luyện. Để rèn luyện
sức chịu đựng, chàng mặc áo phong phanh giữa gió lạnh với suy
nghĩ “Phải tập khổ cho quen đi”
Không ch rèn luyện bản tn, chàng còn luyện tập cho đội
quân ngày đêm, quyết chí lập công. Để kch lệ tinh thần qn sĩ,
chàng cho thêu lên cờ sáu chữ ng:
PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO
HOÀNG ÂN
. Lá cờ y vừa th hiện ý chí đánh giặc mạnh m, vừa
y tỏ lòng trung thành với vua, th hiện tinh thần yêu nước u sắc
của chàng.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản được th hiện sâu sắc qua
lòng trung nghĩa với Vua dân, cũng như sự hy sinh sẵn sàng
chiến đấu. cờ thêu sáu chữ vàng
PHÁ ỜNG ĐỊCH BÁO
HOÀNG ÂN
không chỉ biểu tượng cho tinh thần chiến đấu
còn minh chứng cho lòng trung nghĩa của chàng. Quốc Toản
không chiến đấu danh lợi nhân vua, nước, xem đó là lời
thề sống chết với giặc, lòng trung thành tuyệt đối. Khi nghe tin
Quốc công Tiết chế sắp mở cuộc phản công, chàng
"mừng rỡ khôn
xiết" tin rằng thời đánh giặc đã đến. Mặc nóng lòng muốn
chiến đấu ngay lập tức, nhưng khi được khuyên phải đợi thời cơ,
chàng nén lại và tiếp tục rèn luyện, thể hiện sự kiên nhẫn trung
thành với chiến lược chung của đất nước. Sự trung nghĩa này biểu
hiện cao đẹp của lòng yêu nước, không chỉ biết căm thù giặc còn
hiểu rằng chiến đấu phải tổ chức, kỷ luật, biết đặt lợi ích chung
lên trên cảm xúc nhân.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản còn thể hiện qua sự hy sinh
sẵn sàng chiến đấu. Chàng không chỉ dừng lại việc rèn luyện
còn chủ động tìm đến chiến trường để lập công. Khi nghe tin
quân Nguyên đã tiến vào cửa ải, đội quân của Hoài Văn hừng hực k
thế:
Sáu trăm người hoa chân múa tay, xin Hoài Văn gấp gấp lên
đường.
.
Trước khi lên đường, chàng sáu trăm nghĩa cùng đọc
lời thề:
Chúng tôi, sáu trăm nghĩa sĩ, tình như ruột thịt, nghĩa tựa
keo sơn, thề đồng tử đồng sinh, đuổi giặc cứu dân. Ai bất nghĩa, bất
trung, xin trời tru đất diệt!
. Hành động này thể hiện tinh thần hy
sinh đất nước, sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, quyết
tâm bảo vệ Tổ quốc nhân dân.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản không phải chỉ những lời
nói suông một tình cảm mãnh liệt, được thể hiện qua cả
tưởng nh động. Từ lòng căm thù giặc, ý chí chiến đấu đến hành
động thực tiễn, chàng đã chứng minh rằng nhỏ tuổi nhưng vẫn
mang trong mình một trái tim yêu nước đại. Nhân vật Trần Quốc
Toản chính hình mẫu tiêu biểu của tinh thần quật cường, bất
khuất của dân tộc Việt Nam trước giặc ngoại xâm.
2.
Lòng căm t giặc của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
Hoài Văn mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc đến mức ngay cả trong
giấc mơ, chàng ng thấy mình bắt được tướng giặc trừng trị chúng một cách đích
đáng. Tâm trí chàng lúc nào cũng chất chứa sự căm hận, đến nỗi ngay cả khi ngủ, suy
nghĩ ấy vẫn không rời xa. Trong giấc mơ, chàng thấy nh bắt sống được Sài Thung,
tên sứ hống hách của nhà Nguyên, kẻ khinh nước Nam bằng nửa con mắt. Hoài Văn
bắt được không ai biết, trói lại, đập roi ngựa lên đầu quát lớn: “Mày
còn dám đánh người chúng tao nữa không? Đừng khinh nước Nam tao nhỏ!”.
Giấc này không chỉ phản ánh nỗi oán hận giặc ngoại xâm, mà còn thể hiện khát
khao cháy bỏng của chàng muốn đánh bại quân xâm lược, để chúng biết rằng nước
Nam ta không dễ dàng bị khuất phục trước quân thù.
Lòng căm hận giặc của Hoài Văn còn lớn đến mức mong ước những điều phi
thường như “chàng muốn xương đồng da sắt. Chàng muốn xông vào giữa muôn
trùng giáo mác, chém tướng giật cờ dễ như trở bàn tay.”. Những mong ước đã thể
hiện lòng căm t giặc, ý chí kiên cường tinh thần yêu nước mãnh liệt của Hoài
n.
11
12
Khi hay tin quân giặc ngày càng lộng hành, làm loạn trên đất nước mình, Hoài
Văn căm tức đến mức chỉ muốn ngay lập tức đánh tan bọn chúng.“Chàng muốn thét
to: “Xin quan gia cho đánh”, nhưng lại e phạm thượng! Mấy tháng kinh, thấy sứ
Nguyên hạch sách đủ điều, Hoài Văn chỉ một ý nghĩ đánh, đánh để giữ lấy quốc
thể”. Biết bọn giặc ngày càng to gan, ngang ngược đòi mượn đường, chàng càng phẫn
nộ, không thể đợi được nữa quyết liều chết xông vào gặp vua để nói n nỗi lòng
biết th sẽ chết chàng cũng không sợ “Hoài Văn mấy người lính Thánh Dực ngã
chúi, xăm xăm xuống bến. Một viên tướng hốt hoảng chạy tới, níu áo Hoài Văn lại.
Quốc Toản tuốt gươm, mắt trừng lên một cách điên dại:
Không buông ra, ta chém!” , “Quốc Toản chạy xồng xộc xuống bến, quỳ xuống
tâu vua, tiếng nói như thét:
Xin quan gia cho đánh! Cho giặc mượn đường mất nước.”
Qua đây thể thấy lòng câm thù giặc trong Hoài Văn cùng lớn đến mức
chẳng màng tính mạng, chỉ cần được ra trận, đánh đuổi được giặc, bảo vệ đất nước
chàng mãng nguyện.
Lòng quyết tâm đánh tan giặc của Hoài Văn còn thể hiện cờ thêu sáu ch
vàng PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN, sáu ch đối nhau chan chát,
lời đanh thép, ý hùng hồn. Sáu chữ này thể hiện lòng yêu nước, trung thành với vua,
căm thù quyết tiêu diệt quân xâm ợc, bảo vệ đất nước của Hoài Văn.
Khi các chiến thích 2 chữ “Sát Thát” lên tay thì Hoài n cũng không do dự
làm theo. “Chàng không thấy đau, chỉ thấy say a rạo rực như đang hăng máu
trên chiến trường”. Hành động thích chữ cùng chiến thể hiện sự gần gũi, giản dị
của Hoài Văn khi không phân biệt địa vị, gia thế hơn nữa còn cho thấy tinh thần đồng
lòng, đoàn kết đánh đuổi quân thù, khí thế oanh liệt của đội quân nhà Trần.
Bên cạnh đó, Hoài Văn còn một người anh hùng ng cảm, gan dạ, luôn
muốn thể hiện bản lĩnh của mình, ý chí kiên cường, quyết tâm đánh đuổi quân thù
“Xin Tiết chế cho cháu đi đánh trận này. Trận nào cháu cũng xin đi, huống chi là trận
đầu” , “Cháu sẽ cùng tướng quân Nguyễn Khoái đánh cho Toa Đô mảnh giáp không
còn. Cháu cũng xin làm một t giấy cam đoan. Không đánh được Toa Đô, cháu xin
nộp đầu dưới trướng”. Chính những lời nói cứng rắn, đầy quyết m ấy đã cho thấy ý
chí chiến đấu mãnh liệt lòng căm thù giặc sâu sắc, tựa như một ngọn lửa rực cháy
mãi không bao giờ dập tắt được trong Hoài Văn.
3.
Lòng hiếu thảo của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
Trước tình cảnh đất nước m nguy, Hoài Văn không thể khoanh tay đứng nhìn,
nhưng chàng cũng không khỏi trăn tr giữa việc lựa chọn nước nhà hay người m thân
yêu của mình, chàng đã đấu tranh với chính bản thân rất nhiều nhưng bảo vệ đất
nước chàng đành phải chia xa mẹ nh. Dù day dứt chưa trọn đạo hiếu, Hoài Văn
vẫn không còn cách nào khác đành ngậm ngùi lên đường bảo vệ T quốc, để lại mẹ
già nơi quê nhà. Con để mẹ phải lo nghĩ, con thật mang tội bất hiếu. Nhưng giặc sắp
kéo sang, con muốn yên cũng không được”, “Xin mẹ nhà gi ngọc gìn vàng để
cho con được yên lòng xông pha trận mạc”, “Lòng Hoài Văn bỗng thấy nao nao
thương mẹ. Trước khi lên đường đi đánh giặc, cảnh tượng Hoài Văn quỳ lạy trước
người m khiến ta không khỏi xúc động: Con đi phen này thề sống chết với giặc, bao
giờ Đất Nước, Bờ cõi Đại Việt yên bình con sẽ trở về phụng dưỡng mẹ già suốt cuộc
đời”. Qua lời nói của Hoài Văn thể thấy được chàng là một người con hiếu thảo
cùng yêu thương mẹ mình. Tình cảm mẫu tử thiêng liêng này càng được nhấn
mạnh khi chàng nghe tin làng Ninh bị giặc tàn phá, lòng chàng như lửa đốt, lo lắng
cho m cùng. Những chi tiết này thể hiện tấm lòng hiếu thảo sâu sắc tình mẫu t
bất diệt giữa Hoài Văn mẹ.
4.
Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản một người trọng
tình nghĩa
Hoài Văn là một con người trọng tình nghĩa, luôn tôn trọng, sẻ
chia hết lòng giúp đỡ anh em, chú của mình cũng như người
tướng già. Chàng sống trọn vẹn với tình cảm chân thành, không
phân biệt sang hèn, luôn đồng cam cộng khổ với những người
cùng chí hướng:
“Hoài Văn mỗi ngày đều cùng các binh say luyện
tập học cách bày binh bố trận. Ngoài động, các
tráng áo chàm tấp nập đặt thêm những bẫy đá. Họ reo
lăn thử những tảng đá cực to lớn xuống chân núi. Đá
13
14
lăn ầm ầm như sấm động gió gào. Thế Lộc chỉ những cây
cối gãy ngổn ngang nói:
- Giặc kho bằng my cây kia không?
Hoài Văn ngắm nghía từng cái bẫy, luôn miệng khen ngợi
người tráng của nơi rừng xanh núi đỏ. Họ coi nhau như
anh em một nhà, không phân biệt sang hèn định nghĩa
ngày càng thấm thiết.”
Không chỉ hòa mình với binh sĩ, Hoài Văn còn cùng họ trải qua
cuộc sống gian khổ, cùng ăn chung mâm, cùng nằm chung chiếu.
Chàng không ngại khó khăn, xem mọi người n ruột thịt vì tất cả
đều mang trong tim một ởng lớn
lòng yêu nước bất tận. Hình
ảnh ấy được khắc họa nét khi Quốc Toản
đi khắp các cơ, các đội,
ăn với họ một mâm, nằm với họ một chiếu, ngày t cùng nhau tập
luyện, đêm thì cùng học binh thư.
Tấm lòng trọng nghĩa của Hoài Văn còn được thể hiện trong
khoảnh khắc chia tay hai anh em người Mán. Chàng lưu luyến, bịn
rịn chẳng muốn rời xa những người anh em đã cùng mình sát cánh.
Khi phải chia tay Thế Lộc, lòng Hoài n chất chứa bao nỗi buồn
bã, bịn rịn:
“Hoài Văn bặm môi lại, vẻ ngây thơ hiện trên khuôn
mặt đã nhuộm màu sương gió. Hoài Văn nói: Bao giờ gặp lại Thế
Lộc nhỉ?”. Chỉ một câu hỏi đơn giản, nhưng lại gói trọn biết bao
cảm xúc chân thành. Khi chia s nỗi lòng với Thế Lộc, chàng ngỡ
ngàng, tiếc nuối: “Anh Thế Lộc ơi, Toản cũng không muốn về
đâu!”
. Khi xa nhau, lòng Hoài Văn thổn thức, nhịp nhàng theo vó
ngựa đuổi trên đường núi. Cuộc chia ly ấy bình thường nhưng
lại để lại trong lòng chàng một nỗi xót xa khôn nguôi, bởi với
chàng, tình nghĩa huynh đ điều đáng trân quý nhất.
Không chỉ đối xử tốt với anh em chiến sĩ, Hoài Văn còn
cùng kính trọng người tướng già
vị thầy đã dìu dắt chàng trên
con đường học. Khi người ớng già đỡ cho mình một nhát kiếm,
lòng chàng quặn thắt, đau đớn tột cùng:
“Hoài Văn ôm lấy
người tướng già, lòng đau như cắt.”
. trong hoàn cảnh nào,
chàng cũng quyết không bỏ lại người thầy đáng kính: “Ta nhờ ông
dạy dỗ nên mới ngày hôm nay, lại chính nhờ ông hôm
nay ta thoát chết. Ta bỏ ông đây sao được!”. Chỉ một câu nói
nhưng chứa đựng cả tấm lòng biết ơn tình cảm sâu nặng. Chỉ
một trái tim giàu yêu thương mới thể đau t đến vậy khi chứng
kiến người thầy của nh chịu đớn đau mình.
Bên ngoài, Hoài Văn một vị anh hùng kiêu hãnh, gan dạ.
Nhưng bên trong, chàng lại một con người giàu lòng nhân ái,
trọng nghĩa tình. Chàng luôn dang rộng vòng tay với những người
xung quanh, không phân biệt sang hèn, chỉ biết sống trọn vẹn với
tưởng những tình cảm chân thành nhất.
5.
Chiến lược, tài năng quân s chiến ng của Hoài
Văn hầu Trần Quốc Toản
Trần Quốc Toản không chỉ một vị tướng tr tuổi qu cảm
còn một nhà chiến lược tài ba, linh hoạt trong việc áp dụng
các chiến thuật quân sự. Ông đã biết tận dụng sáng kiến của Thế
Lộc
chiến thuật “làm người cỏ” để biến thành một kế sách
đánh giặc đầy ng tạo:
“Mày làm tướng mà không biết cả.
Quân tao ít thì tao phải làm người cỏ cho nhiều chứ!”
. Từ đó,
ông nảy ra một chiến thuật độc đáo, lấy cảm hứng từ câu chuyện
Ông Trọng
vị thần tướng khổng lồ của nước Nam. Ngày trước,
khi quân Hung khiếp sợ tượng của Ông Trọng, vua nhà Tần
đã lợi dụng điều đó để khiến giặc bỏ chạy. Nay, Trần Quốc Toản
vận dụng cách y, đề xuất bện hình nhân khổng lồ như đức
Thánh Chèm để làm quân Nguyên khiếp vía:
“Giặc Nguyên trông
thấy tất phải vỡ mật!”. Đây chính trận đánh đầu tiên của Hoài
Văn tại Ma Lục, nhưng với tài thao lược xuất sắc, chàng đã chỉ huy
đội quân nh của mình giành chiến thắng vang dội.
15
16
Không chỉ sáng tạo trong chiến thuật, Trần Quốc Toản còn
thể hiện khả năng lãnh đạo kiệt xuất trong việc tổ chức chỉ huy
quân đội. Ông bàn kế hoạch tác chiến cùng người ớng già Thế
Lộc, sau đó dẫn quân tiến về Ma Lục. ới sự chỉ huy của ông, đội
quân dũng mãnh xông pha chiến trận: Người tướng chưa nói hết
câu, thì toán quân trên ngọn đồi trước mặt đã lao xuống đường ào
ào như thác đổ, đánh thẳng vào sau lưng đám giặc đang vây ngọn
đồi của Chiêu Thành Vương, xẻ quân giặc ra làm đôi, như đánh rắn
khúc giữa. Giặc lên những tiếng kêu man rợ. Chúng vỡ từng
mảng như những bức tường đổ xuống.”.
quân số ít, nhưng dưới
sự rèn luyện tổ chức kỷ luật chặt chẽ của Trần Quốc Toản, đội
quân này đã trở thành một lực lượng tinh nhuệ, chiến đấu đầy kỷ
cương, đưa quân t đến bại trận thảm hại.
Không chỉ Ma Lục, tại trận chiến trên sông Hàm Tử, Trần
Quốc Toản một lần nữa thể hiện khả năng dự đoán tình thế
phản ứng nhanh nhạy trong những tình huống chiến lược phức tạp.
Ông nhận ra điểm mạnh yếu của kẻ thù, tìm ra mấu chốt để triệt
hạ sức mạnh của chúng: “Phải triệt ngọn chùy của nó. lợi hại
ngọn chùy!”
. Chính sự tinh tường trong việc phân tích tình hình
chiến trận đã giúp Trần Quốc Toản những quyết định sáng suốt,
góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang.
Với tài mưu c xut chúng, kh ng nh đạo kiên ờng
tinh thần chiến đấu bất khuất, Trần Quốc Ton không ch một
chiến binh ng mãnh mà còn một v ng lỗi lạc, góp phần
quan trọng o những chiến thắng hiển hách của quân n nhà Trần.
III.
GIÁ TRỊ NGH THUẬT
1.
Nghệ thuật ngôn ng
Sử dụng ngôn ngữ trang trọng, giàu tính sử thi, phù hợp với không khí o
hùng của thời đại.
Câu n ngắn gọn, c tích nhưng giàu cảm xúc, nhấn mạnh được khí thế
hào hùng tinh thần yêu nước.
Lời thoại nhân vật mang tính khẳng định mạnh mẽ, thể hiện s quyết tâm
(ví dụ: Trần Quốc Toản thề chiến đấu, không chấp nhận bị xem nhỏ tuổi).
2.
Nghệ thuật miêu tả
Miêu t m tinh tế: thể hiện sự phẫn uất, lòng quyết tâm của Trần
Quốc Toản qua hành động bóp nát quả cam.
Hình ảnh biểu tượng mạnh mẽ: cờ thêu sáu chữ vàng tượng trưng cho
lòng u nước, ý chí quyết tâm đánh giặc.
Cảnh chiến trận được miêu tả ngắn gọn nhưng hùng tráng, th hiện khí thế
của đội quân Trần Quốc Toản.
3.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Khắc họa nhân vật Trần Quốc Toản qua hành động (bóp cam, thêu cờ, xông
pha trận mạc) thay chỉ miêu tả bằng lời.
Xây dựng nh tượng anh hùng tuổi trẻ, ng cảm, trung thành, mang
tưởng lớn lao.
Nhân vật phụ như vua Trần Nhân Tông, các tướng lĩnh chỉ xuất hiện thoáng
qua nhưng góp phần làm nổi bật phẩm chất của Trần Quốc Toản.
4.
Nghệ thuật kết cấu
Truyện kết cấu đơn giản, dễ hiểu. Các sự kiện diễn ra theo trình tự thời
gian và gắn liền với quá trình trưởng thành của nhân vật chính.
không có những tình tiết li hay dồn dập, câu chuyện vẫn cuốn hút nhờ
việc dẫn dắt người đọc dõi theo số phận của nhân vật chính qua từng sự
việc.
Giữa các sự kiện, tác giả còn khéo léo đan xen những đoạn tả cảnh tình
rất hay, tạo nên những khoảnh khắc đầy xúc động sâu lắng.
5.
Lịch sử được tiểu thuyết h nhuần nhuyễn
Viết tiểu thuyết lịch sử không chỉ đòi hỏi sự n trọng tính chân thực của lịch
sử, n phải thổi hồn o những sự kiện a cũ, làm cho lịch s trở nên sống
động, hồn qua trí tưởng ợng sự sáng tạo của mình. Nguyễn Huy Tưởng đã
xuất sắc thực hiện điều này. Ông khéo léo dựa o nền tảng lịch sử hào hùng của dân
17
18
tộc, rồi bằng tài năng của mình, biến thành một tiểu thuyết lịch sử vừa hấp dẫn vừa
cung cấp cho người đọc hiểu sâu n về những sự kiện đã xảy ra.
IV.
TỔNG KẾT
Với trí tưởng ợng phong phú tài năng sáng tạo, Nguyễn Huy Tưởng đã
xây dựng một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn, với những sự kiện chi tiết lịch s đặc
sắc. Các sự kiện lịch sử, con người, n tộc được thể hiện một cách chân thật. Đặc
biệt, tư liệu lịch sử về Trần Quốc Toản không nhiều, nhà văn vẫn khắc họa nét
người anh hùng một cách sinh động chân thật, tính, tâm hồn.
kết cấu truyện đơn giản, dễ hiểu, không ly kỳ dồn dập nhưng hấp dẫn người
đọc, cùng với nghệ thuật kể chuyện tài tình, nhà văn giúp sống lại những trang sử hào
hùng vẻ vang của dân tộc hình ảnh một nhân vật lịch sử lừng danh, in u trong
tâm trí bao thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam.
Bằng trí tưởng ợng phong phú, từ ngữ giàu tính biểu cảm, lập luận chặt chẽ,
tác phẩm đã giúp người đọc biết ơn, ghi công người anh hùng dân tộc với tinh thần
yêu nước nh liệt, ý chí chiến đấu quật ờng. Đặc biệt, “Lá cờ thêu sáu ch ng”
chắc chắn sẽ một tác phẩm không bao gi cũ dành cho thế hệ mầm non của đất
nước, tấm gương sáng cho các em noi theo.
Chúng ta thấy Trần Quốc Toản hay còn gọi Hoài Văn được tả một anh
hùng trẻ tuổi tràn đầy ng yêu nước, sẵn sàng hy sinh Tổ quốc. Người anh hùng
không ch lòng căm thù giặc u sắc, ý c kiên cường dũng cảm, còn người
trọng nh nghĩa, hiếu thảo với mẹ.Tất cả những phẩm chất ấy đã tạo nên hình ảnh một
anh hùng toàn diện, đáng khâm phục.
V.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huy Tưởng, 1960, cờ thêu sáu chữ vàng, SachHayOnline.com. (n.d.).
https://www.sachhayonline.com/tua-sach/la-co-theu-sau-chu-vang
2. Nguyễn Huy Tưởng ,2018, c thêu sáu chữ vàng, NXB Kim Đồng.
3. Nguyễn Huy Thắng (Biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng (Tác giả), (9/2006), Nhật
Nguyễn Huy Tưởng, NXB Thanh Niên.
4. Bùi Mạnh Hùng (Tổng Chủ biên) - Nguyễn Thị Ngân Hoa - Đặng Lưu (Đồng Chủ
biên) - Dương Tuấn Anh - Trà My - Nguyễn Thị Nương - Nguyễn Thị Hải
Phương, Ngữ Văn 8 - Tập 1 - Bộ Kết Nối Tri Thức, NXB Giáo Dục Việt Nam.
5. Nguyễn Huy Tưởng về tác giả tác phẩm (2007), ch thu, Tôn thảo Miên,
Nguyễn, Huy Tưởng (tác giả), NXB Giáo dục Tại Nội.
19

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ TRƯỜNG SƯ PHẠM --- ---
LÁ CỜ THÊU SÁU CHỮ VÀNG - NGUYỄN HUY TƯỞNG
HỌC PHẦN: VĂN HỌC THIẾU NHI (SG425)
Sinh viên thực hiện: QUÁCH KIM NGỌC B2307646
NGUYỄN THỊ CẨM VÂN B2307666 THỊ HƯƠNG LAN B2307685
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Lữ Hùng Minh
Cần Thơ, ngày 17 tháng 03 năm 2025 0 Họ và tên - MSSV Công việc Quách Kim Ngọc
- Tìm nội dung và soạn Word phần nội dung B2307646
tóm tắt tác phẩm và mục 1, giá trị nghệ thuật mục 1,2,3.
- Làm PPT và thuyết trình phần giá trị nghệ thuật và tổng kết.
- Chỉnh sửa, kiểm tra lỗi chính tả, lỗi câu. Nguyễn Thị Cẩm Vân
- Tìm nội dung và soạn Word phần nội dung B2307666
mục 2 và 3, giá trị nghệ thuật mục 4 và 5, tổng kết.
- Làm PPT và thuyết trình phần nội dung mục 2,3,4,5.
- Chỉnh sửa, kiểm tra lỗi chính tả, lỗi câu. Thị Hương Lan
- Tìm nội dung và soạn Word phần tác giả- tác B2307685 phẩm, nội dung mục 4, 5.
- Làm PPT và thuyết trình phần tác giả- tác
phẩm, nội dung phần tóm tắt và mục 1.
- Chỉnh sửa, kiểm tra lỗi chính tả, lỗi câu. 1 MỤC LỤC
I. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .3
1. Tác giả. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
1.1. Sơ lược về tác giả. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
1.2. Phong cách sáng tác. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .4
a. Quan niệm sáng tác:. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
b. Phong cách nghệ thuật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .5
1.3. Các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng. . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
2. Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .6
2.1. Hoàn cảnh sáng tác. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .6
2.2. Cảm hứng sáng tác. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
II. NỘI DUNG. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
Tóm tắt tác phẩm. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .8
1. Lòng yêu nước của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. . . . . . . 9
2. Lòng căm thù giặc của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. 13
3. Lòng hiếu thảo của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản. . . . . 15
4. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản là một người trọng tình
nghĩa
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 16
5. Chiến lược, tài năng quân sự và chiến công của Hoài
Văn hầu Trần Quốc Toản
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .18
III. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
1. Nghệ thuật ngôn ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
2. Nghệ thuật miêu tả. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .20
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 20
4. Nghệ thuật kết cấu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 21
5. Lịch sử được tiểu thuyết hoá nhuần nhuyễn. . . . . . . . . . . . 21
IV. TỔNG KẾT. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 21
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22
I. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM 1. Tác giả
1.1. Sơ lược về tác giả
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là một nhà văn, nhà viết kịch
nổi tiếng ông sinh tại Làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay
là xã Dục Tú, huyện đông Anh, Hà Nội). Cha mất sớm, từ nhỏ sống
với mẹ, năm 16 tuổi Nguyễn Huy tưởng được gửi xuống học tập ở
Hải Phòng. Ông bước vào làng văn hơi muộn hơi muộn, mặc dù từ
năm 1930, trong nhật ký của mình, Nguyễn Huy tưởng đã viết:
“Phận sự của người tầm thường như tôi muốn lan tỏ lòng yêu nước
thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ” nhưng mãi đến thập kỷ 40 của thế
kỷ XX ông mới bắt đầu sáng tác. Ông ra đi ở tuổi 48 khi mới hoàn
thành xong tập I tiểu thuyết “Sống mãi với thủ đô” khát vọng một
đời văn của ông vẫn còn dang dở, dù vậy khối lượng tác phẩm ông
để lại khá đồ sộ. Tháng 9/1996, Nguyễn Huy tưởng được Nhà nước
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, dành cho những tác phẩm tiêu
biểu của ông viết ở hai thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng tám (1945).
Ngoài việc là một nhà văn, nhà soạn kịch, Nguyễn Huy Tưởng
còn là một nhà hoạt động cách mạng và yêu nước tích cực trong các
hoạt động xã hội và chính trị:
– Năm 1929 tiếp xúc với các chiến sĩ Việt Nam quốc dân
Đảng, năm 1930 tham gia phong trào học sinh ở Hải
Phòng . Treo cờ búa liềm ở chợ Sắt, rải truyền đơn cộng
sản,... Năm 1935 làm công chức sở Đoan (thuế quan).
Năm 1938 tham gia Hội Truyền bá quốc ngữ. Năm 1943 3
gia nhập nhóm Văn hoá cứu quốc bí mật được bầu làm
Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó
ông tiếp tục hoạt động ở Hà Nội, Nam Định, Phúc Yên.
– Tháng 6 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng tham gia Ban biên
tập tạp chí Tiền phong của Văn hóa cứu quốc, tham gia
Ban biên tập các báo cáo Cờ giải phóng, Tiên phong. Năm
1946 Ông là đại biểu Quốc hội khóa I,đại biểu tỉnh Bắc
Ninh, cũng là năm vở diễn Bắc Sơn của ông được công
diễn lần đầu tại Nhà hát Lớn, gây được sự chú ý lớn của
độc giả. Tháng 7 được bầu làm Phó thư ký Hội văn hóa cứu
quốc Việt Nam. 19-2-1946 toàn quốc kháng chiến, nhận
trách nhiệm tổ chức và đưa đoàn Văn hóa kháng chiến lên Việt Bắc.
– Năm 1947 làm báo Toàn dân kháng chiến của Liên Việt.
Tiếp tục hoạt động văn nghệ, ông là ủy viên thường vụ Hội
Văn nghệ Việt Nam, thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ, ủy
viên tiểu ban Văn nghệ Trung ương Đảng.
Nguyễn Huy Tưởng là người sáng lập và là giám đốc đầu tiên
của nhà xuất bản Kim Đồng.
1.2. Phong cách sáng tác
a. Quan niệm sáng tác:
Bao trùm lên sáng tác của nhà văn là nguồn cảm hứng lớn
về lịch sử. Viết văn để tỏ lòng yêu nước, đó là triết lí sống
và là quan điểm sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng:"Phần
suốt một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước
thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi."
– Ông được mệnh danh “Người viết lịch sử bằng các tác phẩm văn học.”
b. Phong cách nghệ thuật:
– Trong văn của ông luôn đầy chất thơ của cuộc sống và
chất chứa những bài ca hy vọng, những bài học về tình
thương yêu những người thân, xóm giềng, cộng đồng và đồng loại.
– Có thiên hướng khai thác các đề tài lịch sử.
– Đóng góp lớn nhất ở hai thể loại: tiểu thuyết, kịch.
– Văn phong giản dị, trong sáng, thâm trầm, sâu sắc, gần gũi với cuộc sống.
1.3. Các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng KỊCH ● Vũ Như Tô (1941)
● Cột đồng Mã Viện (1944) ● Bắc Sơn (1946)
● Những người ở lại (1948)
● Anh Sơ đầu quân (tập kịch ngắn) 1949
● Lũy hoa (kịch bản phim) 1960 TRUYỆN
● Đêm hội Long Trì (tiểu thuyết) 1942
● An Tư công chúa (tiểu thuyết) - 1944
● Gốc đa (tập truyện ngắn) - 1954
● Truyện anh Lục (tiểu thuyết) tập I, II năm 1955, tập III năm 1956
● Bốn năm sau (truyện) 1959 5
● Sống mãi với thủ đô (tiểu thuyết) 1961 KÝ SỰ ● Ở chiến khu (1946) ● Ký sự Cao Lạng (1951) ● Gặp Bác (1956) SÁCH THIẾU NHI ● Thằng Quấy (1955)
● An Dương Vương xây thành Ốc (1957)
● Hai bàn tay chiến sĩ (1958)
● Điện Biên Phủ của chúng em (1960) ● Tìm mẹ (1950)
● Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960)
● Kể chuyện Quang Trung (1957)
● Truyện viết cho thiếu nhi (1960)
● Con cóc là cậu ông trời.
2. Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”
2.1. Hoàn cảnh sáng tác

Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng ra đời năm 1960, trong bối
cảnh đất nước ta đang gồng mình kháng chiến chống Mỹ. Đây cũng
là một trong ba tác phẩm cuối cùng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng.
Ông viết tác phẩm này vào những ngày cuối đời, khi phải
chống chọi với bệnh tật. Tháng 2 năm 1960, dù sức khỏe suy yếu,
ông vẫn kiên trì hoàn thành từng trang viết một cách trau chuốt, tỉ
mỉ. Đến tháng 3, ông ghi nhật ký: "Viết xong Lá cờ thêu sáu chữ
vàng". Tuy nhiên, chưa hài lòng với bản thảo đầu tiên, ông quyết
định viết lại lần thứ hai. Sự khác biệt giữa hai lần ghi nhật ký chỉ là
một chữ "hoàn toàn", nhưng với một người tâm huyết như Nguyễn
Huy Tưởng, đó là cả một hành trình chiến đấu với bệnh tật để hoàn
thành tác phẩm một cách trọn vẹn nhất.
Chưa đầy nửa tháng sau khi hoàn thành tác phẩm, ông nhập
viện. Đáng tiếc, ông không kịp chứng kiến cuốn sách chính thức ra
mắt, dù nhà xuất bản đã gấp rút in ấn. Tuy vậy, niềm vui lớn nhất
của ông chính là việc được xem bản in thử ngay trên giường bệnh.
Ông đã kịp sửa chữa đôi ba chữ lần cuối, trước khi vĩnh biệt cuộc đời.
2.2.Cảm hứng sáng tác
Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng được sáng tác nhằm giáo
dục nhân cách, bồi dưỡng lòng yêu nước và nâng cao hiểu biết của
trẻ em về lịch sử dân tộc.
Tác phẩm ra đời từ những chiêm nghiệm sâu sắc về triều đại nhà
Trần – một thời kỳ mà Nguyễn Huy Tưởng đặc biệt kính trọng. Câu
chuyện lấy cảm hứng từ cuộc kháng chiến chống quân Mông –
Nguyên lần thứ hai (1285), khi đất nước đứng trước hiểm họa xâm
lăng và nguy cơ mất nước cận kề.
Tác phẩm đã tái hiện hình ảnh thiếu niên anh hùng Trần Quốc
Toản (Hoài Văn Hầu), dù tuổi còn nhỏ nhưng đã thể hiện tinh thần
yêu nước mãnh liệt và lòng căm thù giặc sâu sắc. Sau này, ông trở
thành một danh tướng kiệt xuất của triều Trần, góp phần vào chiến
thắng vẻ vang của dân tộc. II. NỘI DUNG Tóm tắt tác phẩm:
Câu chuyện xoay quanh Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, một
thiếu niên tuy nhỏ tuổi nhưng mang trong mình lòng yêu nước mãnh liệt.
Mở đầu bằng giấc mơ kỳ lạ của Quốc Toản trong cung điện Lan Đình.
Chàng mơ thấy chính tay mình bắt sống Sài Thung, một tên sứ hống
hách của nhà Nguyên, khinh nước Nam bằng nửa con mắt.
Biết được nhà Nguyên đưa sứ giả sang gây sức ép, triều đình
mở hội nghị Bình Than để bàn kế sách. Quốc Toản bất chấp tội phạm
thượng tới gặp nhà Vua bày tỏ nỗi lòng “xin đánh” nhưng bị từ chối 7
vì chưa đủ tuổi. Căm phẫn, chàng vô thức bóp nát quả cam vua ban,
thề quyết không chịu đứng ngoài cuộc.
Trở về quê, Quốc Toản dốc lòng luyện võ, nghiên cứu binh thư.
Không lâu sau, chàng chiêu mộ được sáu trăm tráng sĩ, lập một đội
quân riêng với ngọn cờ thêu sáu chữ vàng “PHÁ CƯỜNG ĐỊCH
BÁO HOÀNG ÂN”
, thể hiện quyết tâm đánh bại kẻ thù.
Quân giặc kéo đến, Quốc Toản cùng nghĩa quân xông pha
chiến trận, phối hợp với tráng sĩ Nguyễn Thế Lộc lập căn cứ ở Ma
Lục, gây thanh thế lớn. Trong một trận đánh, Chiêu Thành Vương
truy đuổi tên phản quốc Ích Tắc nhưng rơi vào vòng vây giặc. Quốc
Toản lập tức giải vây, cứu được Chiêu Thành Vương, từ đó càng được trọng dụng.
Sau sự kiện ấy, Quốc Toản được giao trọng trách trong trận
chiến tại Hàm Tử. Dù trước quân địch đông đảo, chàng không hề nao
núng, dẫn quân dũng cảm xông pha. Cuối cùng, Quốc Toản anh
dũng hy sinh, nhưng hình ảnh ngọn cờ “PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO
HOÀNG ÂN”
vẫn tung bay, trở thành biểu tượng bất diệt của lòng
yêu nước và ý chí kiên cường.
1. Lòng yêu nước của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
Lòng yêu nước của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản được nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng gửi gắm qua nhiều khía cạnh: từ tinh thần quật khởi,
ý chí chiến đấu đến hành động thực tiễn,…
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản không chỉ là một ngọn lửa
âm ỉ mà bùng cháy dữ dội, thể hiện qua hai khía cạnh nổi bật: lòng
căm thù giặc sâu sắc và tinh thần quyết tử cao độ. Ngay từ những
trang đầu của câu chuyện, ta đã thấy một Trần Quốc Toản sục sôi
phẫn nộ trước sự ngạo mạn, hống hách của sứ giả nhà Nguyên.
Chàng không thể chấp nhận được việc triều đình Đại Việt bị sỉ nhục,
đất nước bị xem thường. Cơn giận dữ ấy lớn đến mức ám ảnh cả giấc
mơ của chàng, nơi chàng trút hết căm hờn lên đầu Sài Thung “Mày
có còn dám đánh người chúng tao nữa không? Đừng có khinh nước Nam tao bé nhỏ!”.
Sự căm thù ấy không chỉ là cảm xúc nhất thời, bộc phát mà
còn là biểu hiện của lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ, không cho phép
bất kỳ ai xúc phạm đến danh dự của đất nước. Khi hay tin quê hương
Võ Ninh bị giặc tàn phá, lòng chàng "nóng như lửa cháy", thôi thúc
chàng lập tức ra trận, xả thân vì nước. Chứng kiến cảnh đồng đội
khắc chữ "Sát Thát" lên cánh tay, chàng cũng không ngần ngại làm
điều tương tự, biến mối thù giặc thành một phần không thể tách rời
của bản thân. Hành động ấy không chỉ thể hiện lòng căm thù giặc
sâu sắc mà còn là tinh thần quyết tử, sẵn sàng hy sinh thân mình
cho Tổ quốc. Việc khắc chữ "Sát Thát" lên da thịt, chịu đựng nỗi đau
thể xác, là minh chứng cho ý chí kiên cường, bất khuất của một
người con yêu nước, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản không chỉ thể hiện qua lời
nói mà còn được chứng minh bằng hành động thực tiễn và ý chí
quyết tâm chống giặc mạnh mẽ. Dù tuổi còn nhỏ, chàng đã khẳng
khái bày tỏ lòng quyết tâm đánh giặc, không ngại xông pha trận mạc:
“Cháu còn ít tuổi thật. Nhưng ví bằng quân Nguyên sang cướp
nước ta, thì cháu cũng xin theo các chú, các bác đi đánh giặc.”
. Khi
bị xem thường, chàng uất ức bóp nát quả cam, thể hiện lòng tự
trọng và quyết tâm hành động. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt
quan trọng, khi lòng yêu nước của chàng biến thành hành động cụ thể.
Không cam chịu đứng ngoài cuộc chiến, Trần Quốc Toản tự
mình chiêu binh mãi mã, lập nên đội quân sáu trăm người trẻ tuổi
nhưng đầy nhiệt huyết. Chàng không chỉ có lòng yêu nước mà còn
biết cách truyền lửa cho người khác, quy tụ những người cùng chí
hướng. Dưới lá cờ “PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN”, đội quân
của chàng ngày đêm luyện tập võ nghệ, thề đồng sinh cộng tử, thể
hiện tinh thần đoàn kết và quyết tâm chiến thắng. 9
Trần Quốc Toản không chỉ nhiệt huyết mà còn nghiêm túc rèn
luyện bản thân để có thể xông pha chiến trận. Chàng không ngừng
tập võ nghệ, học binh thư, luyện bắn cung và thử thách bản thân với
những bài tập gian khổ. Chàng hiểu rằng "quân quý giỏi, không quý
nhiều"
, nên càng khắt khe hơn trong việc rèn luyện. Để rèn luyện
sức chịu đựng, chàng mặc áo phong phanh giữa gió lạnh với suy
nghĩ “Phải tập khổ cho quen đi”
Không chỉ rèn luyện bản thân, chàng còn luyện tập cho đội
quân ngày đêm, quyết chí lập công. Để khích lệ tinh thần quân sĩ,
chàng cho thêu lên lá cờ sáu chữ vàng: “PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO
HOÀNG ÂN”
. Lá cờ này vừa thể hiện ý chí đánh giặc mạnh mẽ, vừa
bày tỏ lòng trung thành với vua, thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc của chàng.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản được thể hiện sâu sắc qua
lòng trung nghĩa với Vua và dân, cũng như sự hy sinh và sẵn sàng
chiến đấu. Lá cờ thêu sáu chữ vàng “PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO
HOÀNG ÂN”
không chỉ là biểu tượng cho tinh thần chiến đấu mà
còn là minh chứng cho lòng trung nghĩa của chàng. Quốc Toản
không chiến đấu vì danh lợi cá nhân mà vì vua, vì nước, xem đó là lời
thề sống chết với giặc, là lòng trung thành tuyệt đối. Khi nghe tin
Quốc công Tiết chế sắp mở cuộc phản công, chàng "mừng rỡ khôn
xiết"
vì tin rằng thời cơ đánh giặc đã đến. Mặc dù nóng lòng muốn
chiến đấu ngay lập tức, nhưng khi được khuyên phải đợi thời cơ,
chàng nén lại và tiếp tục rèn luyện, thể hiện sự kiên nhẫn và trung
thành với chiến lược chung của đất nước. Sự trung nghĩa này là biểu
hiện cao đẹp của lòng yêu nước, không chỉ biết căm thù giặc mà còn
hiểu rằng chiến đấu phải có tổ chức, có kỷ luật, biết đặt lợi ích chung
lên trên cảm xúc cá nhân.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản còn thể hiện qua sự hy sinh
và sẵn sàng chiến đấu. Chàng không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện
mà còn chủ động tìm đến chiến trường để lập công. Khi nghe tin 10
quân Nguyên đã tiến vào cửa ải, đội quân của Hoài Văn hừng hực khí
thế: “Sáu trăm người hoa chân múa tay, xin Hoài Văn gấp gấp lên
đường.”.
Trước khi lên đường, chàng và sáu trăm nghĩa sĩ cùng đọc
lời thề: “Chúng tôi, sáu trăm nghĩa sĩ, tình như ruột thịt, nghĩa tựa
keo sơn, thề đồng tử đồng sinh, đuổi giặc cứu dân. Ai bất nghĩa, bất
trung, xin trời tru đất diệt!”
. Hành động này thể hiện tinh thần hy
sinh vì đất nước, sẵn sàng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, quyết
tâm bảo vệ Tổ quốc và nhân dân.
Lòng yêu nước của Trần Quốc Toản không phải chỉ là những lời
nói suông mà là một tình cảm mãnh liệt, được thể hiện qua cả tư
tưởng và hành động. Từ lòng căm thù giặc, ý chí chiến đấu đến hành
động thực tiễn, chàng đã chứng minh rằng dù nhỏ tuổi nhưng vẫn
mang trong mình một trái tim yêu nước vĩ đại. Nhân vật Trần Quốc
Toản chính là hình mẫu tiêu biểu của tinh thần quật cường, bất
khuất của dân tộc Việt Nam trước giặc ngoại xâm.
2. Lòng căm thù giặc của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
Hoài Văn mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc đến mức ngay cả trong
giấc mơ, chàng cũng thấy mình bắt được tướng giặc và trừng trị chúng một cách đích
đáng. Tâm trí chàng lúc nào cũng chất chứa sự căm hận, đến nỗi ngay cả khi ngủ, suy
nghĩ ấy vẫn không rời xa. Trong giấc mơ, chàng thấy mình bắt sống được Sài Thung,
tên sứ hống hách của nhà Nguyên, kẻ khinh nước Nam bằng nửa con mắt. Hoài Văn
bắt được nó mà không ai biết, trói lại, đập roi ngựa lên đầu nó và quát lớn: “Mày có
còn dám đánh người chúng tao nữa không? Đừng có khinh nước Nam tao bé nhỏ!”
.
Giấc mơ này không chỉ phản ánh nỗi oán hận giặc ngoại xâm, mà còn thể hiện khát
khao cháy bỏng của chàng muốn đánh bại quân xâm lược, để chúng biết rằng nước
Nam ta không dễ dàng bị khuất phục trước quân thù.
Lòng căm hận giặc của Hoài Văn còn lớn đến mức mong ước những điều phi
thường như “chàng muốn có xương đồng da sắt. Chàng muốn xông vào giữa muôn
trùng giáo mác, chém tướng giật cờ dễ như trở bàn tay.”
. Những mong ước đã thể
hiện lòng căm thù giặc, ý chí kiên cường và tinh thần yêu nước mãnh liệt của Hoài Văn. 11
Khi hay tin quân giặc ngày càng lộng hành, làm loạn trên đất nước mình, Hoài
Văn căm tức đến mức chỉ muốn ngay lập tức đánh tan bọn chúng.“Chàng muốn thét
to: “Xin quan gia cho đánh”
, nhưng lại e phạm thượng! Mấy tháng ở kinh, thấy sứ
Nguyên hạch sách đủ điều, Hoài Văn chỉ có một ý nghĩ là đánh, đánh để giữ lấy quốc
thể”
. Biết bọn giặc ngày càng to gan, ngang ngược đòi mượn đường, chàng càng phẫn
nộ, không thể đợi được nữa quyết liều chết xông vào gặp vua để nói lên nỗi lòng dù
biết có thể sẽ chết chàng cũng không sợ “Hoài Văn xô mấy người lính Thánh Dực ngã
chúi, xăm xăm xuống bến. Một viên tướng hốt hoảng chạy tới, níu áo Hoài Văn lại.
Quốc Toản tuốt gươm, mắt trừng lên một cách điên dại: –

Không buông ra, ta chém!” , “Quốc Toản chạy xồng xộc xuống bến, quỳ xuống
tâu vua, tiếng nói như thét:
– Xin quan gia cho đánh! Cho giặc mượn đường là mất nước.”
Qua đây có thể thấy lòng câm thù giặc trong Hoài Văn vô cùng lớn đến mức
chẳng màng tính mạng, chỉ cần được ra trận, đánh đuổi được giặc, bảo vệ đất nước là chàng mãng nguyện.
Lòng quyết tâm đánh tan giặc của Hoài Văn còn thể hiện ở lá cờ thêu sáu chữ
vàng “PHÁ CƯỜNG ĐỊCH BÁO HOÀNG ÂN”, sáu chữ đối nhau chan chát,
lời đanh thép, ý hùng hồn. Sáu chữ này thể hiện rõ lòng yêu nước, trung thành với vua,
căm thù quyết tiêu diệt quân xâm lược, bảo vệ đất nước của Hoài Văn.
Khi các chiến sĩ thích 2 chữ “Sát Thát” lên tay thì Hoài Văn cũng không do dự
mà làm theo. “Chàng không thấy đau, chỉ thấy say sưa rạo rực như đang hăng máu
trên chiến trường”
. Hành động thích chữ cùng chiến sĩ thể hiện sự gần gũi, giản dị
của Hoài Văn khi không phân biệt địa vị, gia thế hơn nữa còn cho thấy tinh thần đồng
lòng, đoàn kết đánh đuổi quân thù, khí thế oanh liệt của đội quân nhà Trần.
Bên cạnh đó, Hoài Văn còn là một người anh hùng dũng cảm, gan dạ, luôn
muốn thể hiện bản lĩnh của mình, có ý chí kiên cường, quyết tâm đánh đuổi quân thù
“Xin Tiết chế cho cháu đi đánh trận này. Trận nào cháu cũng xin đi, huống chi là trận
đầu” , “Cháu sẽ cùng tướng quân Nguyễn Khoái đánh cho Toa Đô mảnh giáp không
còn. Cháu cũng xin làm một tờ giấy cam đoan. Không đánh được Toa Đô, cháu xin
nộp đầu dưới trướng”
. Chính những lời nói cứng rắn, đầy quyết tâm ấy đã cho thấy ý 12
chí chiến đấu mãnh liệt và lòng căm thù giặc sâu sắc, tựa như một ngọn lửa rực cháy
mãi không bao giờ dập tắt được trong Hoài Văn.
3. Lòng hiếu thảo của Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản
Trước tình cảnh đất nước lâm nguy, Hoài Văn không thể khoanh tay đứng nhìn,
nhưng chàng cũng không khỏi trăn trở giữa việc lựa chọn nước nhà hay người mẹ thân
yêu của mình, chàng đã đấu tranh với chính bản thân rất nhiều nhưng vì bảo vệ đất
nước chàng đành phải chia xa mẹ mình. Dù day dứt vì chưa trọn đạo hiếu, Hoài Văn
vẫn không còn cách nào khác đành ngậm ngùi lên đường bảo vệ Tổ quốc, để lại mẹ
già nơi quê nhà. “Con để mẹ phải lo nghĩ, con thật mang tội bất hiếu. Nhưng giặc sắp
kéo sang, con muốn ở yên cũng không được”, “Xin mẹ ở nhà giữ ngọc gìn vàng để
cho con được yên lòng xông pha trận mạc”, “Lòng Hoài Văn bỗng thấy nao nao
thương mẹ”
. Trước khi lên đường đi đánh giặc, cảnh tượng Hoài Văn quỳ lạy trước
người mẹ khiến ta không khỏi xúc động: “Con đi phen này thề sống chết với giặc, bao
giờ Đất Nước, Bờ cõi Đại Việt yên bình con sẽ trở về phụng dưỡng mẹ già suốt cuộc
đời”
. Qua lời nói của Hoài Văn có thể thấy được chàng là một người con hiếu thảo và
vô cùng yêu thương mẹ mình. Tình cảm mẫu tử thiêng liêng này càng được nhấn
mạnh khi chàng nghe tin làng Võ Ninh bị giặc tàn phá, lòng chàng như lửa đốt, lo lắng
cho mẹ vô cùng. Những chi tiết này thể hiện tấm lòng hiếu thảo sâu sắc và tình mẫu tử
bất diệt giữa Hoài Văn và mẹ.
4. Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản là một người trọng tình nghĩa
Hoài Văn là một con người trọng tình nghĩa, luôn tôn trọng, sẻ
chia và hết lòng giúp đỡ anh em, chú của mình cũng như người
tướng già. Chàng sống trọn vẹn với tình cảm chân thành, không
phân biệt sang hèn, luôn đồng cam cộng khổ với những người cùng chí hướng:
“Hoài Văn mỗi ngày đều cùng các binh sĩ say mê luyện
tập võ và học cách bày binh bố trận. Ngoài động, các
tráng sĩ áo chàm tấp nập đặt thêm những bẫy đá. Họ reo
hò lăn thử những tảng đá cực kì to lớn xuống chân núi. Đá
13
lăn ầm ầm như sấm động gió gào. Thế Lộc chỉ những cây
cối gãy ngổn ngang và nói:

- Giặc có khoẻ bằng mấy cây kia không?
Hoài Văn ngắm nghía từng cái bẫy, luôn miệng khen ngợi
người tráng sĩ của nơi rừng xanh núi đỏ. Họ coi nhau như
anh em một nhà, không phân biệt sang hèn định nghĩa
ngày càng thấm thiết.”

Không chỉ hòa mình với binh sĩ, Hoài Văn còn cùng họ trải qua
cuộc sống gian khổ, cùng ăn chung mâm, cùng nằm chung chiếu.
Chàng không ngại khó khăn, xem mọi người như ruột thịt vì tất cả
đều mang trong tim một lý tưởng lớn – lòng yêu nước bất tận. Hình
ảnh ấy được khắc họa rõ nét khi Quốc Toản “đi khắp các cơ, các đội,
ăn với họ một mâm, nằm với họ một chiếu, ngày thì cùng nhau tập
luyện, đêm thì cùng học binh thư.

Tấm lòng trọng nghĩa của Hoài Văn còn được thể hiện rõ trong
khoảnh khắc chia tay hai anh em người Mán. Chàng lưu luyến, bịn
rịn chẳng muốn rời xa những người anh em đã cùng mình sát cánh.
Khi phải chia tay Thế Lộc, lòng Hoài Văn chất chứa bao nỗi buồn
bã, bịn rịn: “Hoài Văn bặm môi lại, vẻ ngây thơ hiện rõ trên khuôn
mặt đã nhuộm màu sương gió. Hoài Văn nói: Bao giờ gặp lại Thế
Lộc nhỉ?”
. Chỉ một câu hỏi đơn giản, nhưng lại gói trọn biết bao
cảm xúc chân thành. Khi chia sẻ nỗi lòng với Thế Lộc, chàng ngỡ
ngàng, tiếc nuối: “Anh Thế Lộc ơi, Toản cũng không muốn về
đâu!”
. Khi xa nhau, lòng Hoài Văn thổn thức, nhịp nhàng theo vó
ngựa đuổi trên đường núi. Cuộc chia ly ấy dù bình thường nhưng
lại để lại trong lòng chàng một nỗi xót xa khôn nguôi, bởi với
chàng, tình nghĩa huynh đệ là điều đáng trân quý nhất.
Không chỉ đối xử tốt với anh em chiến sĩ, Hoài Văn còn vô
cùng kính trọng người tướng già – vị thầy đã dìu dắt chàng trên
con đường võ học. Khi người tướng già đỡ cho mình một nhát kiếm,
lòng chàng quặn thắt, đau đớn tột cùng: “Hoài Văn ôm lấy 14
người tướng già, lòng đau như cắt.”. Dù trong hoàn cảnh nào,
chàng cũng quyết không bỏ lại người thầy đáng kính: “Ta nhờ ông
dạy dỗ nên mới có ngày hôm nay, lại chính nhờ có ông mà hôm
nay ta thoát chết. Ta bỏ ông đây sao được!”
. Chỉ một câu nói
nhưng chứa đựng cả tấm lòng biết ơn và tình cảm sâu nặng. Chỉ có
một trái tim giàu yêu thương mới có thể đau xót đến vậy khi chứng
kiến người thầy của mình chịu đớn đau vì mình.
Bên ngoài, Hoài Văn là một vị anh hùng kiêu hãnh, gan dạ.
Nhưng bên trong, chàng lại là một con người giàu lòng nhân ái,
trọng nghĩa tình. Chàng luôn dang rộng vòng tay với những người
xung quanh, không phân biệt sang hèn, chỉ biết sống trọn vẹn với
lý tưởng và những tình cảm chân thành nhất.
5. Chiến lược, tài năng quân sự và chiến công của Hoài
Văn hầu Trần Quốc Toản

Trần Quốc Toản không chỉ là một vị tướng trẻ tuổi quả cảm
mà còn là một nhà chiến lược tài ba, linh hoạt trong việc áp dụng
các chiến thuật quân sự. Ông đã biết tận dụng sáng kiến của Thế
Lộc – chiến thuật “làm người cỏ” để biến nó thành một kế sách
đánh giặc đầy sáng tạo: “Mày làm tướng mà không biết gì cả.
Quân tao ít thì tao phải làm người cỏ cho nó nhiều chứ!”
. Từ đó,
ông nảy ra một chiến thuật độc đáo, lấy cảm hứng từ câu chuyện
Lý Ông Trọng – vị thần tướng khổng lồ của nước Nam. Ngày trước,
khi quân Hung Nô khiếp sợ tượng của Lý Ông Trọng, vua nhà Tần
đã lợi dụng điều đó để khiến giặc bỏ chạy. Nay, Trần Quốc Toản
vận dụng cách này, đề xuất bện hình nhân khổng lồ như đức
Thánh Chèm để làm quân Nguyên khiếp vía: “Giặc Nguyên trông
thấy tất phải vỡ mật!”
. Đây chính là trận đánh đầu tiên của Hoài
Văn tại Ma Lục, nhưng với tài thao lược xuất sắc, chàng đã chỉ huy
đội quân nhỏ bé của mình giành chiến thắng vang dội. 15
Không chỉ sáng tạo trong chiến thuật, Trần Quốc Toản còn
thể hiện khả năng lãnh đạo kiệt xuất trong việc tổ chức và chỉ huy
quân đội. Ông bàn kế hoạch tác chiến cùng người tướng già và Thế
Lộc, sau đó dẫn quân tiến về Ma Lục. Dưới sự chỉ huy của ông, đội
quân dũng mãnh xông pha chiến trận: “Người tướng chưa nói hết
câu, thì toán quân trên ngọn đồi trước mặt đã lao xuống đường ào
ào như thác đổ, đánh thẳng vào sau lưng đám giặc đang vây ngọn
đồi của Chiêu Thành Vương, xẻ quân giặc ra làm đôi, như đánh rắn
khúc giữa. Giặc rú lên những tiếng kêu man rợ. Chúng vỡ từng
mảng như những bức tường đổ xuống.”.
Dù quân số ít, nhưng dưới
sự rèn luyện và tổ chức kỷ luật chặt chẽ của Trần Quốc Toản, đội
quân này đã trở thành một lực lượng tinh nhuệ, chiến đấu đầy kỷ
cương, đưa quân thù đến bại trận thảm hại.
Không chỉ ở Ma Lục, tại trận chiến trên sông Hàm Tử, Trần
Quốc Toản một lần nữa thể hiện khả năng dự đoán tình thế và
phản ứng nhanh nhạy trong những tình huống chiến lược phức tạp.
Ông nhận ra điểm mạnh yếu của kẻ thù, tìm ra mấu chốt để triệt
hạ sức mạnh của chúng: “Phải triệt ngọn chùy của nó. Nó lợi hại là
ở ngọn chùy!”
. Chính sự tinh tường trong việc phân tích tình hình
chiến trận đã giúp Trần Quốc Toản có những quyết định sáng suốt,
góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang.
Với tài mưu lược xuất chúng, khả năng lãnh đạo kiên cường
và tinh thần chiến đấu bất khuất, Trần Quốc Toản không chỉ là một
chiến binh dũng mãnh mà còn là một vị tướng lỗi lạc, góp phần
quan trọng vào những chiến thắng hiển hách của quân dân nhà Trần.
III.GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
1. Nghệ thuật ngôn ngữ
– Sử dụng ngôn ngữ trang trọng, giàu tính sử thi, phù hợp với không khí hào hùng của thời đại. 16
– Câu văn ngắn gọn, súc tích nhưng giàu cảm xúc, nhấn mạnh được khí thế
hào hùng và tinh thần yêu nước.
– Lời thoại nhân vật mang tính khẳng định mạnh mẽ, thể hiện sự quyết tâm
(ví dụ: Trần Quốc Toản thề chiến đấu, không chấp nhận bị xem là nhỏ tuổi).
2. Nghệ thuật miêu tả
– Miêu tả tâm lý tinh tế: thể hiện rõ sự phẫn uất, lòng quyết tâm của Trần
Quốc Toản qua hành động bóp nát quả cam.
– Hình ảnh biểu tượng mạnh mẽ: lá cờ thêu sáu chữ vàng tượng trưng cho
lòng yêu nước, ý chí quyết tâm đánh giặc.
– Cảnh chiến trận được miêu tả ngắn gọn nhưng hùng tráng, thể hiện khí thế
của đội quân Trần Quốc Toản.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
– Khắc họa nhân vật Trần Quốc Toản qua hành động (bóp cam, thêu cờ, xông
pha trận mạc) thay vì chỉ miêu tả bằng lời.
– Xây dựng hình tượng anh hùng tuổi trẻ, dũng cảm, trung thành, mang lý tưởng lớn lao.
– Nhân vật phụ như vua Trần Nhân Tông, các tướng lĩnh chỉ xuất hiện thoáng
qua nhưng góp phần làm nổi bật phẩm chất của Trần Quốc Toản.
4. Nghệ thuật kết cấu
– Truyện có kết cấu đơn giản, dễ hiểu. Các sự kiện diễn ra theo trình tự thời
gian và gắn liền với quá trình trưởng thành của nhân vật chính.
– Dù không có những tình tiết li kì hay dồn dập, câu chuyện vẫn cuốn hút nhờ
việc dẫn dắt người đọc dõi theo số phận của nhân vật chính qua từng sự việc.
– Giữa các sự kiện, tác giả còn khéo léo đan xen những đoạn tả cảnh và tình
rất hay, tạo nên những khoảnh khắc đầy xúc động và sâu lắng.
5. Lịch sử được tiểu thuyết hoá nhuần nhuyễn
Viết tiểu thuyết lịch sử không chỉ đòi hỏi sự tôn trọng tính chân thực của lịch
sử, mà còn phải thổi hồn vào những sự kiện xưa cũ, làm cho lịch sử trở nên sống
động, có hồn qua trí tưởng tượng và sự sáng tạo của mình. Và Nguyễn Huy Tưởng đã
xuất sắc thực hiện điều này. Ông khéo léo dựa vào nền tảng lịch sử hào hùng của dân 17
tộc, rồi bằng tài năng của mình, biến nó thành một tiểu thuyết lịch sử vừa hấp dẫn vừa
cung cấp cho người đọc hiểu sâu hơn về những sự kiện đã xảy ra. IV. TỔNG KẾT
Với trí tưởng tượng phong phú và tài năng sáng tạo, Nguyễn Huy Tưởng đã
xây dựng một cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn, với những sự kiện và chi tiết lịch sử đặc
sắc. Các sự kiện lịch sử, con người, dân tộc được thể hiện một cách chân thật. Đặc
biệt, dù tư liệu lịch sử về Trần Quốc Toản không nhiều, nhà văn vẫn khắc họa rõ nét
người anh hùng một cách sinh động chân thật, có cá tính, có tâm hồn.
Dù kết cấu truyện đơn giản, dễ hiểu, không ly kỳ dồn dập nhưng hấp dẫn người
đọc, cùng với nghệ thuật kể chuyện tài tình, nhà văn giúp sống lại những trang sử hào
hùng vẻ vang của dân tộc và hình ảnh một nhân vật lịch sử lừng danh, in sâu trong
tâm trí bao thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam.
Bằng trí tưởng tượng phong phú, từ ngữ giàu tính biểu cảm, lập luận chặt chẽ,
tác phẩm đã giúp người đọc biết ơn, ghi công người anh hùng dân tộc với tinh thần
yêu nước mãnh liệt, ý chí chiến đấu quật cường. Đặc biệt, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”
chắc chắn sẽ là một tác phẩm không bao giờ cũ dành cho thế hệ mầm non của đất
nước, là tấm gương sáng cho các em noi theo.
Chúng ta thấy Trần Quốc Toản hay còn gọi là Hoài Văn được mô tả là một anh
hùng trẻ tuổi tràn đầy lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Người anh hùng
không chỉ có lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí kiên cường dũng cảm, mà còn là người
trọng tình nghĩa, hiếu thảo với mẹ.Tất cả những phẩm chất ấy đã tạo nên hình ảnh một
anh hùng toàn diện, đáng khâm phục.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Huy Tưởng, 1960, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, SachHayOnline.com. (n.d.).
https://www.sachhayonline.com/tua-sach/la-co-theu-sau-chu-vang
2. Nguyễn Huy Tưởng ,2018, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, NXB Kim Đồng.
3. Nguyễn Huy Thắng (Biên soạn), Nguyễn Huy Tưởng (Tác giả), (9/2006), Nhật Ký

Nguyễn Huy Tưởng, NXB Thanh Niên. 18
4. Bùi Mạnh Hùng (Tổng Chủ biên) - Nguyễn Thị Ngân Hoa - Đặng Lưu (Đồng Chủ
biên) - Dương Tuấn Anh - Lê Trà My - Nguyễn Thị Nương - Nguyễn Thị Hải
Phương, Ngữ Văn 8 - Tập 1 - Bộ Kết Nối Tri Thức, NXB Giáo Dục Việt Nam.

5. Nguyễn Huy Tưởng về tác giả tác phẩm (2007), Bích thu, Tôn thảo Miên,
Nguyễn, Huy Tưởng (tác giả), NXB Giáo dục Tại Hà Nội. 19