




Preview text:
lOMoAR cPSD| 59256994
*Làm rõ 3 bước đột phá về kinh tế trước thềm đổi mới của Đảng (1975 – 1986) Hoàn cảnh lịch sử • - Bối cảnh •
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang đóng quân ở Campuchia
sau Chiến tranh biên giới Tây Nam từ năm 1979 và quan hệ Việt
Nam - Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung Quốc tiến hành hoạt động phá hoại
biên giới trên bộ và trên biển thường xuyên.
Trong thời điểm này, cả nước đang bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN, đất nước ta có những thuận lợi cơ bản song phải trải qua nhiều thách thức nghiêm trọng, nền
kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng. Thực trạng đất nước đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ
trương, chính sách, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, định ra mục tiêu, nhiệm vụ, các biện pháp giải
quyết đúng những vấn đề quan trọng cấp bách trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta tiến lên. •
- Thời gian, địa điểm: Diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982, tại Hà Nội. • - Thuận lợi: •
+ Đất nước hòa bình, thống nhất, cả nước quá độ lên CNXH.
+ Đất nước có sức mạnh tổng hợp của tài nguyên, vị trí địa lý, con người...
+ Khối quân sự SEATO tan rã, thế giới và khu vực có xu thế chuyển từ đối đầu sang hòà hoãn, đối thoại và hợp tác. - Khó khăn:
+ Hậu quả của chiến tranh kéo dài, cả hai miền Nam - Bắc đều bị tàn phá nặng nề.
+ Xuất phát điểm về kinh tế - xã hội của đất nước thấp.
+ Về mặt nhà nước, vẫn còn hai chính phủ, hai mặt trận và những đoàn thể khác nhau ở hai miền.
+ Các thế lực thù địch tiến hành bao vây cấm vận và chống phá Việt Nam.
+ Các nước XHCN lâm vào trì trệ và khủng hoảng.
- Yêu cầu trước mắt: Ôn định và thống nhất nước nhà về mọi mặt, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi
phục và phát triển kinh tế.
Bước Thứ nhất: Hội nghị trung ương 6 khóa IV (8/1979)
Với chủ trương và quyết tâm tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ chế tập trung quan lieu bao cấp, mở đường
cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên cho quá trình đổi mới ở nước ta.
- Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xãhội chủ nghĩa;
- Điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển;
- Ổn định lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do, khuyến khích
mọingười tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hóa;
- Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình);
- Sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất;
- Sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất định lượng
đểkhuyến khích tính tích cực của người lao dộng,..
Khoản 100: (13-1-1981), Ban Bì thư ra Chỉ thị 100- CT/TW về cải tiến công tác khoản, mở rộng khoản sản phẩm
đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp lOMoAR cPSD| 59256994 - Trong lĩnh vực cn:
Quyết dịnh 25-CP (21-1-1981): vé một số chủ trương và biện pháp nhâm phát huy quyền chủ động sản xuất kính
doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xi nghiệp quốc doanh. - Về tiền lương:
Quyết dịnh 26-CP (ngày 21-1-1981) mà rộng hinh thức trả lương khoản, lương sản phẩm và vận dụng hình thức
tiền thường trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước, thúc dấy người lao động hăng hái sản xuất, tăng
năng suất lao động, tăng thu nhập. Cùng vời chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư, Quyết định 25-CP và 26-CP của
Chính phủ đã tạo điều kiện cho nông nghiệp, công nghiệp có những bước chuyển biến mới.
Thứ hai: Hội nghị trung ương 8 khóa V (6/1985)
Đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy kinh tế với chủ trương; - Dứt
khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; -
Xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp:
- Chuyển mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh sang cơ chế hoạch toàn kinh doanh xã hội chủ nghĩa;
- Chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh, điểm quan trọng là Hội nghị đã thừa nhận sản xuất hàng
hóa vànhững quy luật của sản xuất hàng hóa. - Về giá cả:
Điều chỉnh một bảng giá cả, bao gồm tỷ giá và cơ chế quản lý giá phải dựa trên những nguyên tắc sau: "Phù hợp
vòi sức mua thực tế; định giá dựa trên kế hoạch, thực hiện thanh toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, vận
dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu. - Về lương
Chính sách là “quản triệt nguyên tắc phân phối theo lao dộng", Xóa bỏ bao cấp, dẫn khắc phục chênh kịch bất hợp
lý và tính chất bình quản; phải cải thiện đời sống của công dân và các lực lượng vũ trang: khôi phục lại trật tự về lương, thường
- Về tài chính và tiền tệ
Tiền tệ cần phải được chấn chỉnh đồng thời cùng giá và lương
+ Các chủ trương là: Phần đấu hạ giá thành và phí lưu thông, huy động mạnh mẽ các nguồn thu cho ngân sách nhà nước
+ Thực hiện chế độ tự chủ tài chính, điều chỉnh mối quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương
Thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở ba cấp cùng làm chủ Thứ ba: Tháng 8/1986
Trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kĩ các vấn đề lớn,
mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế:
- Bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệpnhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc;
- Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì quá
độ lênchủ nghĩa xã hội ở nước ta;
- Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ
hàng hóa– tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chính sách giá phải vận dụng quy
luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá lOMoAR cPSD| 59256994
-> Nhìn một cách khái quát, những đổi mới kinh tế trên đây là những nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động – đó là quan tâm đến
lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,...Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang
tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền
đề cho bước phát triển nhảy vọt
*Vì sao năm 1986 Đảng quyết định thay đổi toàn bộ đất nước? - Bối cảnh lịch sử: Tình hình quốc tế:
Tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ khiến các nước từ chạy đua vũ trang tiến hành chạy đua
phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật, xu thế toàn cầu hóa đang trở thành chiến lược của nhiều quốc gia phát triển.
Bên cạnh đó các nước XHCN đang lâm vào thời kì khủng hoảng buộc họ tiến hành cải cách và đổi mới. Tình hình trong nước:
Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt
Nam đứng trước rất nhiều thách thức chưa từng có. Thời gian này ở nước ta, tư tưởng nôn nóng muốn tiến nhanh lên
CNXH, dẫn đến việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho kinh tế - xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân
dân gặp rất nhiều khó khăn. Nguồn lực viện trợ, giúp đỡ của các nước XHCN cạn đi, gần như không còn nữa. Nước
ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, hậu quả rất nặng nề, càng làm cho kinh tế, đời sống người dân ngày càng tụt hậu.
Chính vì thế thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã có những nhận định rõ tình hình đất nước.
Đại hội đánh giá tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và
đầu tư thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn… Nhìn chung, chúng
ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn
định đời sống nhân dân. Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong những năm qua việc nhìn
nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều
sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản
lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc
hậu về nhận thức lý luận.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư lý luận
trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng đã đề ra
những đường lối đổi mới cho đất nước.
Nguyên nhân đổi mới đất nước năm 1986 a. Chủ quan:
– Sau 10 năm thực hiện kế hoạch 5 năm ( 1976-1985), cách mạng XHCN ở nước ta đạt nhiều thành tựu và ưuđiểm
đáng kể, song cũng gặp không ít khó khăn, khiến đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết về kinh tế- xã hội.
– Nguyên nhân cơ bản: do ta mắc phải “Sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách, sai lầm về
chỉđạo chiến lược sách lược và tổ chức thực hiện”. lOMoAR cPSD| 59256994
– Để khắc phục sai lầm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, Đảng và nhà nước ta phải tiến hành đổi mới. b. Khách quan:
– Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng KHKT.
– Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng của Liên Xô và các nước XHCN khác.
→ Đòi hỏi Đảng và nhà nước phải đổi mới.
Nội dung đường lối đổi mới:
+ Đề ra lần đầu tiên tại đại hội lần thứ VI ( 12.1986), được điều chỉnh, bổ sung và phát triển tại đại hội VII (1991), VIII ( 1996), IX (2001).
+ Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu của CNXH, mà làm cho những mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả
bằng những quan điểm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
+ Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hóa. Đổi mới kinh tế và
chính trị gắn bó mật thiết, nhưng trọng tâm là đổi mới kinh tế. Về kinh tế:
– Xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường.
– Xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, trình độ công nghệ.
– Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoạiVề chính trị -Tiến tới XHCN
-Vận dụn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Leenin
-Đổi mới tổ chức và phương thức của hệ thống chính trị
-Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN của nhân dân ta.
-Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
*Vì sao năm 1991 Đảng kiên quyết mục tiêu xây dựng CNXH Năm 1991: Bối cảnh lịch sử - Tình hình quốc tế
+ Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ. Đối thoại, hợp tác cùng
phát triển trở thành xu thế chung trong quan hệ quốc tế.
+ Đánh dấu sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu.
+ Do đó là sự sụp đổ của mô hình xây dựng CNXH không phù hợp với thực tế, không phải là sự sụp đổ của học
thuyết Mác-Lênin, không phải là sự sụp đổ của CNXH. -Tình hình trong nước:
+ Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, chính trị - xã hội cơ bản ổn định,
kinh tế phát triển ngày càng vững chắc, quan hệ đối ngoại đang chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác.
+ Nhưng đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng, tiếp tục bị bao vây, cấm vận và chống phá về nhiều mặt.
+ Quan hệ kinh tế với các nước bạn bè truyền thống bị thu hẹp.
+ Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khủng hoảng trầm trọng, nhiều Đảng Cộng sản mất vị thế lãnh đạo. =>
Tuyên truyền, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã “lỗi thời” và đã diễn ra “sự kết thúc lịch sử” của CNXH.
=> Học thuyết Mác-Lênin là ở châu Âu, không phù hợp với Việt Nam, Việt Nam không thể đi tới CNXH. lOMoAR cPSD| 59256994
=> Tác động đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, định hướng XHCN ở Việt Nam.
+ CNXH là quy luật, không ai có thể làm trái, “không ai ngăn cản được”, nó vẫn cứ diễn ra nhanh hay chậm.
V.I.Lênin khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi”
+ 1975-1985: mô hình xây dựng CNXH xơ cứng => Khủng hoảng Kinh tế, xã hội trầm trọng
+ Đại hội VI (tháng 12-1986) kiên quyết CNXH gắn liền với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: "Đi
lên CNXH là con đường tất yếu, xây dựng nước Việt Nam XHCN là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân
Việt Nam, là sự lựa chọn sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH:
+ Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm.
+ Quá độ lên CNXH ở nước ta.
“ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại diễn ra mạnh mẽ. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang
quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc => Vừa tạo thời cơ phát
triển nhanh, vừa là những thách thức gay gắt, nhất là những nước lạc hậu về kinh tế”
+ Những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng–an ninh, đối ngoại.
+ Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Tương quan giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản (CNTB),
" CNTB có tiềm năng phát triển kinh tế, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý,
thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội => CNTB vẫn là một chế độ
áp bức, bóc lột và bất công, lực lượng sản xuất >< chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
=> CNXH đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài
người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”