lOMoARcPSD| 60860503
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
------🙠🕮 🙠------
BÀI BÁO CÁO
MÔN: LỄ HỘI VIỆT NAM
Đề tài: Khảo sát một lễ hội truyền thống hoặc lễ hội hiện đại
Giảng viên: Lê Thị Kim Loan
Nhóm thực hiện:
Lớp học phần: DL6015 (N02)
Hà Nội, năm 2024
lOMoARcPSD| 60860503
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Nội dung công việc
Người thực hiện
Điểm đánh giá của giảng viên
Xây dựng đề cương khái
quát
Cả nhóm
Xây dựng đề cương chi tiết
Cả nhóm
Xây dựng bảng hỏi, bảng
phỏng vấn
Cả nhóm
Sưu tầm tài liệu
Cả nhóm
Xử lí số liệu, tiến hành
phỏng vấn
Đào Thanh Hằng
Lê Khánh Chi
Viết phần mở đầu và phần
kết luận, tài liệu tham
khảo
Hoàng Kiều An
Viết chương 1
1.1 Tổng quan về lễ hội
truyền thống Việt Nam
1.2 Khái quát chung về lễ
hội đình Quảng Bá
Hoàng Kiều An
Lê Khánh Chi
Viết chương 2
2.1 Thời gian – địa điểm
2.2 Lịch sử đình Quảng Bá
Hoàng Kiều An
Đào Thanh Hằng
Lê Khánh Chi
lOMoARcPSD| 60860503
2.3 Quy trình lễ hội
2.4 Ý nghĩa lễ hội
Chỉnh sửa hình thức, nội
dung của văn bản
Hoàng Kiều An
Video (nếu có)
Phạm Thị Hạnh
Lồng tiếng
Đào Thanh Hằng
Hoàng Kiều An
In ấn, đóng quyển
Lê Khánh Chi
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
Mã sinh viên
Họ và tên
Đánh giá
thành viên
64DNC15001
Hoàng Kiều An
B
64DNC15013
Phạm Thị Hạnh
A
lOMoARcPSD| 60860503
64DNC15015
Đào Thanh Hằng
C
Không khảo sát tiền trạng, chỉ
đi khảo sát hai ngày.
Phần nội dung chuẩn bị còn
sài.
65DDN06011
Lê Khánh Chi
A
Đi khảo sát đủ bốn ngày diễn ra
lễ hội.
Có tiếp thu góp ý của nhóm
trưởng
Hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm chúng em xin cảm ơn cô Lê Thị Kim Loan đã hướng dẫn, giảng
dạy em các bạn học phần Lễ hội Việt Nam. Tuy chỉ được học trong khoảng thời gian
ngắn nhưng chúng em đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới bích, đồng thời trau dồi
được nhiều kỹ năng cần thiết cho bản thân. Nhờ những bài giảng, hoạt động nhóm, phát
biểu chúng em đã hiểu biết thêm môn học này, đã truyền đạt những kiến thức
cùng quý giá, thiết thực để chúng em có đủ tiền đề, cơ sở, kiến thức và vận dụng thực hiện
đề tài nghiên cứu này. Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu đề tài khảo sát, nhóm chúng
em đã nhận được sự quan tâm tận tình, tâm huyết chỉ bảo của cô. Cùng với tình cảm chân
thành nhất, chúng em bày tỏ lòng biết ơn đến cô. Tuy bản báo cáo còn thiếu sót nhưng
chúng em sẽ cố gắng làm bài tốt nhất có thể, rất mong cô nhận xét, góp ý thêm để bản báo
cáo nhóm được hoàn chỉnh hơn ạ.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2025
MỤC LỤC
1 Tính cấp thiết của đề tài
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
lOMoARcPSD| 60860503
4 - Mục đích nghiên cứu
5 Phạm vi nghiên cứu
6 Phương pháp nghiên cứu
7 Bố cục đề tài
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1 Khái niệm lễ hội truyền thống
2 Đặc điểm chung của lễ hội truyền thống Việt Nam
3 Vai trò của lễ hội truyền thống Việt Nam
2. Khái quát chung về lễ hội đình Quảng Bá
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG QUẢNG BÁ
1. Thời gian – địa điểm 14
2. Lịch sử đình Quảng Bá 15
2.1 Truyền thuyết về Bố Cái Đại Vương:
2.2 Lịch sử đình Quảng Bá
2.3 Lịch sử lễ hội đình Quảng Bá
3. Quy trình lễ hội đình Quảng Bá 17
4. Ý nghĩa lễ hội đình Quảng Bá 19
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đề tài: Tìm hiểu về lễ hội đình làng Quảng Bá.
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, nước ta giao lưu và không ngừng tiếp xúc với
các loại hình văn hóa mới từ bên ngoài được du nhập vào. Đây là một cơ hội để Việt Nam
học tập và phát triển những giá trị văn hóa vốn có, đồng thời quảng bá văn hóa của ta đến
với bạn quốc tế. Tuy nhiên cũng đặt ra vấn đề khi những giá trị văn hóa dân gian vốn
không phù hợp với nhiều bạn trẻ, có thể bị mai một và lãng quên trong xã hội hiện đại.
lOMoARcPSD| 60860503
Thông qua những hoạt động diễn ra trong lễ hội, hình ảnh về những anh hùng, những
danh nhân của đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống hội trong lịch sử được tái hiện
lại. Thông qua những câu truyện hưu truyền trong dân gian từ thế hệ này sang thế hệ khác,
từ đời này sang đời khác hoặc qua ghi chép của sử sách. Tất cả những nhân vật, sự kiện
lịch sử đó đã đi vào tâm thức của các tầng lớp nhân dân, được mọi người trân trọng, tôn
vinh, lưu giữ truyền trao cho các thế hkế tiếp. ít nhiều được khoác cho “chiếc áo
hiện thực” nhãn quan thời đại, nhưng hình tượng các nhân vật, sự kiện lịch sử về bản
vẫn được lưu giữ, bảo lưu những yếu tố nguyên gốc luôn được bổ sung bằng những sáng
tạo văn học nghệ thuật của quần chúng trong tiến trình lịch sử dài lâu. Dần dần những nhân
vật đó đã trở thành đối ợng thờ tự trong hoạt động tế lễ của các lễ hội dân gian, hay ta
còn biết đến với tên gọi lễ hội truyền thống.
Trong những năm gần đây hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt
khi cách mạng công nghiệp 4.0 lên ngôi và phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên thế
giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài sự phát triển ấy. Điều đó đặt ra câu hỏi làm thế
nào để bảo tồn và phát huy những giá trị của lễ hội truyền thống dân tộc? Là một thành tố
đặc biệt quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam, lễ hội truyền thống có vai trò
to lớn, không thể tách rời trong đời sống của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn
hiện nay, cùng với sự đổi thay nhiều mặt của đất nước, lễ hội truyền thống Việt Nam đang
sự biến đổi to lớn, toàn diện, cả về nội dung hình thức biểu hiện. Những hình thức
mới chứa đựng những nội dung mới của hoạt động lễ hội đang diễn ra, biến động và từng
bước định hình trong điều kiện mới. Đó các lễ hội du lịch, liên hoan du lịch, lễ hội thương
mại - du lịch, lễ hội văn hóa - thể thao du lịch... đang ngày càng mở rộng với nhiều qui mô,
mức độ nội dung phong phú, đa dạng, sình động không dễ dàng thẩm định kiểm
soát... Tất cả đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu, nhà quản tìm cách khai thác sử dụng
để đáp ứng các yêu cầu đặt ra. [1]
Mặc tọa lạc một trong những nơi phát triển dịch vụ du lịch lớn nhất thủ đô,
nhưng làng Quảng vẫn u giữ được những nét cổ kính tại ngôi đình làng với lịch sử
lâu đời. Một trong những do khiến làng Quảng vẫn giữ được nét truyền thống giữa
thành phố hiện đại nhờ lễ hội được tổ chức hằng năm tại đình. So với những lễ hội
truyền thống khác trên khắp cả nước, lễ hội đình Quảng chưa nhiều người nghiên
cứu. Vì vậy, nhóm chúng em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu lễ hội đình làng Quảng Bá” làm đề
tài nghiên cứu của mình với mục tiêu cung cấp những thông tin hữu ích cho các bạn sinh
viên về lễ hội truyền thống Việt Nam.
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài
Lễ hội truyền thống hiện nay đang nhận được sự quan tâm lớn từ nhiều góc độ khác
nhau, bao gồm văn hóa học, hội học, nhân học, và các ngành khoa học khác. Các nghiên
cứu này chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu về giá trị văn hóa, lịch sử,vai trò của lễ hội
lOMoARcPSD| 60860503
truyền thống trong đời sống cộng đồng, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển
và bảo tồn các lễ hội này. Một số bài nghiên cứu đã chứng minh được những lợi ích của lễ
hội Việt Nam nhưng đồng thời cũng những đánh giá chính xác những ảnh hưởng tiêu
cực mà hiện tượng đô thị hóa đến những giá trị truyền thống.
Có thể nói rằng công trình nghiên cứu tiêu biểu về lễ hội truyền thống Việt Nam
cuốn “Nếp Hội hè đình đám”, bộ sách gồm hai cuốn và cũng là tài liệu tham khảo cho
cuốn “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” của PGS.TS Dương Văn Sáu. Tác giả
Toan Ánh đã chỉ ra khái niệm hội hè đình đám và các nghi lễ quan trọng trong quá trình tế
lễ các lễ hội tín ngưỡng dân gian, đa số lễ hội thờ thành hoàng làng Đạo Mẫu.
Trong phần hạ của cuốn sách, tác giả cũng viết riêng về một số lễ hội lớn trên khắp đất
nước như lễ hội Đền Hùng, hội Gióng, hội Phủ Giầy, lễ hội đền Hai Bà Trưng, lễ hội chùa
Hương,... điều đó chứng minh cho thấy đây một tài liệu nghiên cứu đáng tin cậy có thể
hỗ trợ sinh viên trong quá trình nghiên cứu một số lễ hội lớn của đất nước.
Một công trình nghiên cứu quan trọng khác chính cuốn “Lhội Việt Nam trong
sự phát triển du lịch” của PGS.TS Dương Văn Sáu. Thầy đã chỉ ra rằng lễ hội truyền thống
Việt Nam hình thành trất sớm, thậm chí từ khi chưa hình thành nhà nước, chưa sự
phân chia giai cấp. Đây cũng cuốn sách được sử dụng như giáo trình chính khi học tập
và nghiên cứu về lễ hội Việt Nam của sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Ngoài ra cònnhững tài liệu nghiên cứu về lễ hội của người dân tộc thiểu số như
cuốn “Bản sắc văn a vùng Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh, một số tài liệu ớc
ngoài như công trình “Festivals and the Cultural Politics of Belonging” do David Heldt
biên soạn. Công trình của David Heldt nghiên cứu các lễ hộinhiều quốc gia khu vực
khác nhau, từ phương Tây đến các nền văn hóa Á Đông, khám phá cách lễ hội phản ánh
các yếu tố văn hóa, chính trị, và xã hội trong các cộng đồng khác nhau.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra được vai trò ý nghĩa của lễ hội
truyền thống Việt Nam, đồng thời chỉ ra sự biến đổi khả năng bị mai một của lễ hội
truyền thống trong hội hiện đại. Tuy nhiên chưa nhiều công trình tập trung nghiên
cứu về lễ hội đình làng Quảng Bá; vì vậy, đây chính là những căn cứ quan trọng để chúng
em nghiên cứu, khảo sát những vấn đề liên quan đến đề tài: “Tìm hiểu lễ hội đình làng
Quảng Bá”.
lOMoARcPSD| 60860503
3 Mục đích nghiên cứu
Mục đích:
Đề tài thực hiện nhằm khảo sát ban tổ chức và du khách để tìm hiểu về ý nghĩa của
lễ hội đình Quảng Bá để đưa ra góc nhìn tổng quan giúp sinh viên bồi đắp thêm kiến thức
năng trong quá trình nghiên cứu. Chúng em đã tiến hành khảo sát thực tế tại đình
Quảng Bá, thuộc thôn Quảng Bá, phường Quảng An, quận Tây Hồ để tìm hiểu về khoảng
thời gian ban tổ chức bỏ ra để thực hiện lễ hội. Đồng thời, chúng em mong muốn chứng
minh ý nghĩa của lễ hội truyền thống đối với người dân trong làng nói riêng du khách
thập phương nói chung.
Nhiệm vụ:
Tiến hành khảo sát thực tế, tìm hiểu ý kiến cảm nhận của ban tổ chức về việc
chuẩn bị thực hiện lhội năm nay, đồng thời tìm hiểu về cảm nhận của du khách khi
đến tham gia lễ hội.
Sau khi khảo sát và tìm hiểu xong, nhóm triển khai tổng hợp và phân tích các số liệu
đã thu được. Chúng em đã cân nhắc và lựa chọn những số liệu thông tin chính xác,ích
từ đó chỉ ra ý nghĩa của lễ hội đối với người dân và du khách thập phương. Bài nghiên cứu
mong muốn giúp sinh viên có cái nhìn tổng quan, cụ thể và đúng đắn góp phần hình thành
tư duy chủ động trong việc thích nghi với mọi tình huống trong quá trình nghiên cứu lễ hội
địa phương, đồng thời giúp sinh viên hình thành các kĩ năng mềm cần thiết không chỉ phục
vụ cho việc học hiện tại mà còn giúp ích cho cả công việc trong tương lai.
4 Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứuĐối
tượng nghiên cứu: lễ hội đình làng Quảng Bá.
Khách thể nghiên cứu: ban tổ chức lễ hội đình Quảng Bá và du khách.
5 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: đình làng Quảng Bá.
Phạm vi thời gian: từ ngày 8/3 đến ngày 11/3 năm 2025
6 Phương pháp nghiên cứu
Để góp phần phục vụ cho quá trình nghiên cứu của đề tài, cần phải tiến hành tìm
hiểu đưa ra những phương pháp nghiên cứu cho phù hợp. Thực tế, đã rất nhiều
phương pháp khoa học được tìm ra nghiên cứu đạt được hiệu quả cao. Tuy nhiên, đối
với đề tài này, nhóm chúng em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
lOMoARcPSD| 60860503
- Phương pháp phân tích tài liệu: Nghiên cứu các văn bản, sách báo, tài liệu
luận khác nhau về lễ hội truyền thống Việt Nam. Tìm hiểu những nguồn kiến thức
lí thuyết làm minh chứng xác thực phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn ban tổ chức về ng tác chuẩn bị
những khó khăn cũng như thuận lợi mà họ gặp phải khi thực hiện lễ hội.
7 Bố cục đề tài: Ngoài hai phần mđầu kết luận, bài báo cáo còn chia thành hai
chương:
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG QUẢNG BÁ
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1. Tổng quan về lễ hội truyền thống Việt Nam
1.1 Khái niệm lễ hội truyền thống
Về mặt thuật ngữ, lhội một từ ơng đối mới, chđược sử dụng một cách phổ
biến trong mấy chục năm nay, đặc biệt để chỉ lễ hội dân gian. Còn những sinh hoạt lễ
nghi tập thể của các vua quan ngày xưa chốn cung đình thì chthấy các sử gia triều
Nguyễn ghi “triệu hội” nghĩa hội họp của triều đình theo Phan Thuận An. Thông
thường ở Việt Nam những lễ hội có từ trước năm 1945 được gọi bằng các tên gọi lễ hội cổ
truyền, lễ hội dân gian, lễ hội truyền thống, lễ hội dân gian truyền thống... những lễ hội ra
đời sau năm 1945 thì được gọi là “lễ hội hiện đại”.
Theo Chu Quang Trứ, lễ hội “là hiện tượng lịch sử, luôn phát triển theo thời gian
có tính thời đại”; thế, lễ hội không tính bất biến mà biến đổi tùy thuộc các điều kiện
khách quan (thời gian và không gian tổ chức lễ hội) và các điều kiện chủ quan (chủ thể tổ
chức lễ hội) và c điều kiện chủ quan (chủ thể tổ chức lễ hội, ý thức hệ chủ đạo của thời
đại, sở vật chất, nhân lực nguồn tài chính).” Lễ hội một tổ hợp của những hoạt
động văn hóa cộng đồng xoay xung quanh một trục ý nghĩa nào đó diễn đạt bởi hệ thống
nghi thức, nghi lễ và nó giữ vai trò là trung tâm.
Như vậy, lễ hội một hoạt động văn hóa do con người sáng tạo ra nhằm thỏa
mãn các nhu cầu vềm linh, tín ngưỡng, vui chơi, giải trí, được hình thành qua một quá
trình lâu dài do tác động của văn hóa, chính trị và lịch sử.”
1.2 Đặc điểm chung của lễ hội truyền thống Việt Nam
Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của
người dân trong xã hội ở từng giai đoạn lịch sử. Lễ hội được cụ thể hóa bởi mối quan hệ
khăng khít của ba quá trình: lịch sử hóa nhân vật và sự kiện, sân khấu hóa đời sống xã hội
và xã hội hóa các hoạt động mang tính cộng đồng.
lOMoARcPSD| 60860503
Hầu hết các lễ hội Việt Nam đều chung các đặc điểm như tính thời gian, nh
không gian và tính hình thức đối ứng đối ngẫu trong lễ hội.
1.2.1 Tính thời gian: tuân theo quy luật và bất quy luật.
a. Theo quy tắc:
Bất cứ một lễ hội nào cũng phải tồn tại trong thời gian và không gian của nó, không
lễ hội phi thời gian, không gian. Những lễ hội cổ truyền Việt Nam thông thường lễ
hội thường niên, diễn ra đều đặn hàng năm: xuân - thu nhị kỳ, theo mùa vụ nông nghiệp,
ngư nghiệp, lâm nghiệp. Nghi thức thờ cúng tổ tiên, thần thánh cũng theo những chu trình
thời gian nhất định, thường một m vào ngày giỗ tổ nghề - tổ sư, ngày sinh ngày hoá
của các nhân vật đã được thời gian nhân dân thần hóa. Khi tổ chức một lễ hội, thường
lễ hội truyền thống, cần phải lựa chọn một khoảng thời gian thích hợp, phải liên
quan đến vị thần được thờ để chọn làm ngày tổ chức lễ hội.
Nhiều lễ hội thường diễn ra vào dịp mùa xuân, hoặc tồn tại trong tâm thức người
dân dần dần trở thành lịch trình sinh hoạt của họ. Tuy vậy, hội không chỉ diễn ra trong
tháng Ba mà còn diễn ra nhiều nhất trong suốt cả ba tháng mùa xuân. Ngoài ra, lễ hội cũng
diễn ra nhiều trong các tháng mùa thu. Đó là thời gian người dân rỗi rãi, vào mùa xuân ấm
áp, mùa thu mát mẻ. Mùa xuân bắt đầu cho một năm, mùa thu đánh dấu cho một vụ mùa
thu hoạch bội thu.
Dân quê quanh năm làm lụng vất vả, đầu tắt, mặt tối, hàng năm họ chỉ hai dịp
rảnh rỗi sau vụ cấy a chiêm vào tháng chạp lúa mùa vào tháng bảy. Tháng Giêng,
tháng Hai tháng Tám là lúc dân quê được nghỉ ngơi, lúa những lúc này đã cấy xong và
những hoa màu phụ cũng đã trồng, mùa gặt chưa tới, và hoa mầu phụ cũng chưa dỡ. Nhân
dịp này các làng xã tổ chức hội hè cho dân chúng mua vui.
Xuân, Thu là hai mùa của hội hè, nhưng hội hè mùa Xuân nhiều hơn hẳn.
Thời điểm đầu năm mới chính lúc làng vào đám. Làng vào đám còn gọi trà
nhập tịch, chúng ra hãy nghe Phan Kế Bính giải thích ý nghĩa trà nhập tịch trong
ViệtNam phong tục, in trong Đông Dương tạp chí vào hai năm 1913-1914.
« Lễ nhập tịch này cũng đồng một ý nghĩa với cách ăn Tết đầu năm, nghĩa dân
mình khó nhọc vất vả quanh năm, thì phải có dịp ăn uống vui chơi cho giải trí »
[6]
.
Làng vào đám hàng năm dịp để cúng lễ thần linh nhân dịp này cũng để dân
làng hội họp mua vui tìm hiểu nhau, thu nạp năng lượng cho mùa vụ tiếp theo. Lễ hội
truyền thống Việt Nam thường cái mốc mở đầu - kết thúc tái sinh của một chu trình
sản xuất, đặc biệt sản xuất nông nghiệp, do vậy người ta n gọi đó “hội mùa”, “hội
mùa của làng ở làng” nó thể hiện trên nhiều mặt. Lễ hội thường diễn ra vào hai dịp: khi mở
đầu mùa vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp các hình thức canh tác, lao động sản xuất
khác và c kết thúc mùa màng, người ta cũng tổ chức lễ hội để tạ ơn thần thánh, cầu cho
lOMoARcPSD| 60860503
mùa sau được n mùa trước. Cứ như thế, cuộc sống không ngừng biến đổi và phát triển,
mức sống về mọi mặt của các tầng lớp nhân dân được nâng cao không ngừng, lễ hội được
duy trì và phát triển trên nền tảng tinh thần - vật chất đã đạt được của toàn xã hội.
Trong lễ hội, người n dùng những lễ vật sản phẩm của mùa màng trên cánh
đồng, ruộng vườn của họ, hoặc những sản phẩm do nghề nghiệp của htạo ra để dâng cúng
Thánh - Thần. Người ta gọi đó là “cây nhà lá ờn”, thể hiện tình cảm chân thật, mộc mạc
của người dân cầu thần thánh giúp sức cho họ được ăn nên làm ra ngày càng phát
triển thịnh vượng hơn.
b. Bất quy tắc:
Trong đời sống văn hóa cộng đồng, đôi khi có một số lễ hội diễn ra không theo qui
luật nào cả. Đó các lhội được tổ chức gần với đời sống chính trị hội của đất nước.
dụ như trong hội phong kiến, ngoài những lễ hội dân gian lễ hội thường được tổ chức
nhân dịp các sự kiện đặc biệt: lễ khánh hạ của vua chúa và triều đình phong kiến, như các:
lễ Vạn thọ, lễ kỷ niệm Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần đại khánh của các vua chúa...
Mỗi khi một sự kiện quân sự, chính trị trọng đại, nhà nước phong kiến thường
tiến hành các lễ hội mừng chiến thắng kinh đô các địa phương. dụ như khi chiến
đấu với quân Nguyên – Mông lần thứ hai, nhiều chiến sĩ Đại Việt đã thích hai chữ Sát Thát
vào tay thể hiện quyết tâm chiến đấu của mình.
1.2.2. Tính địa phương/địa điểm của các lễ hội (tính không gian):
Lễ hội bao giờ cũng gần với một địa điểm, một địa phương nhất định, do người n
ở khu vực đó tổ chức và trước hết dành cho nhân dân địa phương thắm nhận và hưởng thụ
những giá trị và lợi ích do lễ hội đem lại, sau đó mới dành cho du khách gần xa. Điều này
thấy rất rõ qua các lễ hội nổi tiếng của đất nước như Lễ hội chùa Hương, lễ hội Côn Sơn -
Kiếp Bạc, lễ hội Yên Tử, lễ hội Bà chúa Xứ... và rất nhiều lễ hội khác.
1.2.3. Tính hình thức đối ứng của lễ hội:
một hoạt động ra đời từ trong cuộc sống sinh hoạt của người dân, lễ hội trở thành
một hoạt động văn hóa tổng hợp mang tính khái quát cao của con người. Lễ hội một hoạt
động văn hóa mang tính tập thể, thể hiện mối quan hệ giữa các nhân với nhân,
nhân với cộng đồng, cộng đồng này với cộng đồng khác. Nhưng trước hết, hoạt động lễ hội
thể hiện mối quan hệ ứng xử giữa con người với các thế lực siêu nhiên, đó các thần
thánh. Đây là các đối tượng thờ ng phổ biến ở tất cả các địa phương, khu vực. Lễ hội còn
sự thể hiện mối quan hệ ứng xử của con người với i trường tự nhiên môi trường
xã hội ở nơi họ sinh sống. Mối quan hệ ứng xử này thể hiện bằng các hình thức khác nhau,
hình thức mang nặng yếu tố thiêng liêng, hình thức mang nặng yếu tố đời thường,
thường nhật.
lOMoARcPSD| 60860503
1.3 Vai trò của lễ hội truyền thống Việt Nam
1.3.1. Lhội dịp tưởng nhớ, tạ ơn “đòi hỏi” của đông đảo quần chúng nhân
dân đối với đối tượng họ thờ cúng:
Trước hết lễ hội dịp tưởng nhớ, tạ ơn cầu nguyện của đông đảo quần chúng
nhân dân đối với đối tượng mà họ tôn vinh và thờ cúng. Hoạt động của lễ hội là hình thức
thể hiện nhằm giúp con người ta tưởng nhớtạ ơn thần thánh. Bởi trong cuộc sống, con
người Việt Nam luôn có những quan niệm: “vạn vật hữu linh”, “có thờ có thiêng - có kiêng
có lành”, “chẳng thiêng ai gọi là Thần”... Chính vì vậy trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng
của mình, người Việt Nam thờ phụng rất nhiều loại thần khác nhau
[2]
. Thần thành hoàng
gắn với từng địa phương, thế các yếu tố về địa sinh thái (khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng...),
về lịch sử, văn hóa, hội (quá trình lập làng, phong tục tập quán, qtrình sáp nhập địa
giới, mở rộng lãnh thổ...) đã khiến cho thành hoàng mang đặc trưng vùng miền. Ngoài thờ
các hiện tượng tự nhiên như thờ sấm, sét, mây, mưa, Mặt Trời, Mặt Trăng, Thần Nông... ở
khắp các vùng sông nước, ven biển người dân thờ thủy thần: Linh Lang Đại Vương, Tam
Giang Đại Vương, Điểm Tước Đại Vương, Nam Hải Đại Vương, Long Vương, Hà Bá...
các vùng núi cao gò đồi thì lại phổ biến các sơn thần: Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương, Sơn
Đào Đại Vương... Các nhân thần gắn với chiến công vùng đất cụ thể, như: Lý Thường
Kiệt được thờ nhiều ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang liên quan tới chiến thắng trên sông N
Nguyệt; Ngô Quyền được thờ nhiều vùng Đường Lâm; Phạm Tử Nghi, Chân được
thờ phổ biến ở Hải Phòng... Các nhân thần là người truyền nghề được thờ là thành hoàng,
như: Hứa Vĩnh Kiều (tổ nghề gốm Bát Tràng, Phù Lãng), Nguyễn Công Truyền (tổ nghề
đúc đồng), AĐê Nương (tổ nghề dệt Vạn Phúc)... Có khi, vị thành hoàng làng được thờ
lại chính là Thổ Thần (Kỳ Vĩ, Cựu Đôi, Thủy Tú, Trịnh Xá Hải Phòng); thần trẻ em
cả chết vào giờ thiêng (Đại Lộc, Kiến Thụy); thờ thần ăn mày (Tiên Lãng, Kiến Thụy)...
[1]
Trước đây, nhìn chung thần thánh được các nhà Nho và các triều đại phong kiến tập
quyền chia ra thành hai loại: chính thần thần. Trong tiến trình phát triển của lịch sử,
mỗi triều đại phong kiến Việt Nam có cách ứng xử riêng đối với các loại thần này. Nếu như
dưới thời Trần, nhiều điện miếu thờ dâm thần bị triều đình trung ương xóa bỏ thì dưới thời
Mạc, những vị thần dân gian như vậy lại có xu hướng được phục hồi. Nhìn chung giữa dân
gian và cung đình luôn tồn tại đối lập trong sự thống nhất tương đối trong quan hệ đối ứng
Người - Thần. Sự ứng đối với thần của con người trong suốt tiến trình phát triển của lịch
sử phần nào phản ánh chất lượng và diện mạo cuộc sống của các tầng lớp dân cư, phản ánh
trình độ và điều kiện phát triển của các địa phương trên khắp các miền đất nước.
Người Việt còn luôn tưởng nhớ, biết ơn và thờ cúng những người con ưu tú của dân
tộc, đất nước; những danh nhân trên mọi lĩnh vực, những người có ng với dân với nước:
Thánh Trần Hưng Đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh, những anh hùng liệt đã hy sinh sự
nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc... Điều đó thể hiện đạo truyền thống: “uống nước
nhớ nguồn - ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc. Ngoài vui chơi giải trí, những người
lOMoARcPSD| 60860503
đi dự hội đều hồ cảm thấy tin rằng nh thu nhân được những điều may mắn, tốt
lành từ các đấng siêu nhiên vô hình mà họ tôn vinh, thờ cúng. Thứ “quyền lợi tinh thần đó”
trở thành niềm tin, động lực trợ giúp họ trong quá trình hoạt động kế tiếp, vậy điều đó
cũng trở thành yếu tố để con người ta dù ở đâu, vị trí nào cũng không quên lễ hội, đến với
lễ hội ngày một đông hơn.
1.3.2. Lễ hội giúp con người trở về với cội nguồn và đánh thức cội nguồn.
đâu, trong lễ hội nào, những hoạt động diễn ra trong lễ hội đều nhằm ôn lại
quá khứ của một địa phương, một cộng đồng dân. Những hoạt động đó nhằm nhắc lại
vai trò, công lao của thánh thần, của các bậc tiền nhân. Đó cũng là cội nguồn của tự nhiên,
đất nước, m làng cội nguồn của cả hệ thống tôn giáo tín ngưỡng truyền thống. Hoạt
động lễ hội hoạt động văn hóa mang tính tưởng niệm hưởng về những sự kiện nhân
vật lịch sử được dân chúng địa phương thời cũng Trong lễ hội truyền thống, đạo lý. “uống
nước nhớ nguồn - ăn quả nhớ người trồng cây” được dịp thế hiện. trở thành nền tảng
sở để giáo dục chân, thiện, nay cho quảng đại quần chúng nhân dân, nhắc nhở các thể
hệ con cháu ôn lại truyền thống của cha ông, nhờ cơm các bậc tiền nhân đã công với
dân với nước, với địa phương, quê hương mình.
1.3.3. Lễ hội góp phần giữ gìn, bảo lưu phát triển những truyền thống tốt đẹp
của quê hương, dân tộc:
Lễ hội chính là một hình thức “diễn xướng dân gian mà ở đó bảo lưu các phong tục
tập quán, lối sống, nhiếp sống. c nghi thức, trình tự, nội dung những hình thức diễn
xưởng trong các lễ hội mang đặc trưng văn hóa dân tộc vừa hàm chứa các nét đặc sắc của
yếu tố bản địa, mang sắc thái địa phương, vùng miền. Phong tục tập quán của mỗi địa
phương thể hiện nhịp điệu của cuộc sống xã hội, lễ hội truyền thống chính là một phần của
nhịp điệu ấy.
Muốn nghiên cứu về lễ hội truyền thống với cách một thành tố đặc sắc của văn
hóa dân gian, phải đặt trong môi trường này sinh ra nó. Môi trường đã sản sinh, nuôi
dưỡng và sử dụng nó trong suốt chiều dài lịch sử. Môi trường của lễ hội truyền thống Việt
Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở
đó các yếu tố văn a truyền thống được bảo tồn phát triển. Những yếu tố văn hóa truyền
thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch
sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó là hệ quả của cả quá trình lịch
sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây chính tỉnh hoa được đúc rút, kiểm chứng
và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào.
1.3.4. Lễ hội góp phần cố kết và nâng cao các mối quan hệ trong xã hội.
Văn hóa Việt Nam có nết chủ đạo là văn hóa cộng đóng, yếu tố cộng đồng thể hiện
và biểu hiện trong mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó, hoạt động lễ hội thể hiện rõ nét
nhất mối quan hệ giữa các cá nhân với cá nhiên, cá nhân với cộng đồng, cộng đồng này với
lOMoARcPSD| 60860503
công đồng khác... Những mối quan hệ này được xác lập, cùng cố, nrộng hoàn thiện
trong suốt quá trình phát triển. Dưới chế độ cũ, lễ giáo phong kiến luôn ràng buộc com
người với những lề luật chặt chẽ, khắt khe, đặc biệt trong mối quan hệ giới tính “nam nữ
thụ thụ bất thân”, lễ hội chính là dịp giao hiếu, giao hảo giữa các địa phương với nhau. Họ
đã sát cánh, chung sức bên nhau khi khó khăn, hoạn nạn và giờ đây họ cũng bên nhau khi
vui chơi, hội hè. Điều đó thể hiện quan hệ: “Đồng cam, cộng khổ - Chia ngọt, xẻ bùi” trong
đạo lý và văn hóa Việt. Lễ hội đã làm cho quá trình giao lưu văn hóa giữa các địa phương,
vùng miền tồn tại và phát triển, đặc biệt sự giao lưu kinh tế cũng được khai thông, mở rộng
và phát triển ở nhiều lễ hội trong giai đoạn hiện nay.
1.3.5. Lễ hội còn là dịp vui chơi giải trí, thu nạp năng lượng cho cuộc sống mới
Lễ hội là những thời điểm đánh dấu mốc thời gian của quá trình kết thúc và tái sinh:
kết thúc một chu trình sản xuất sinh hoạt, bắt đầu một chu trình sản xuất sinh hoạt
mới. Đây là dịp để cho mọi người vui chơi giải trí, thu nạp năng lượng, bù đắp những thiếu
hụt trong quá trình vận động và phát triển, bắt đầu tái tạo cuộc sống mới với chất và lượng
mới. Trong lễ hội nhiều trò chơi dành cho mọi tầng lớp dân vui chơi giải trí, lễ hội
chính thời điểm đó đông đảo các tầng lớp nhân dân nh thời gian nhàn rỗi, tiền
bạc của mình cho quá trình vui chơi, giao thoa với môi trường tự nhiên môi trường
hội, giải tỏa những ức chế tâm nảy sinh trong công việc, trong cuộc sống thường nhật.
Mỗi kỳ lễ hội dịp nghỉ ngơi sau những tháng ngày a vụ bận rộn, vất vả. Đây dịp
gặp gỡ, đón tiếp giao lưu với những người con, họ hàng, giữa những người hàng xóm
láng giềng nhưng quanh năm lam lũ: “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Đây cũng là dịp
những người dân lao động được giao thoa với nhng người anh em, bạn hữu trong rừng
vùng, từng khu vực, họ được “chơi” với nhau trong những ngày hội. Lễ hội còn là dịp cho
những người con xa quê về gặp gỡ bà con, anh em, họ
hàng... sau những tháng ngày bươn chải kiếm sống nơi “đất khách, quê người”
[2, tr37-52]
.
2. Khái quát chung về lễ hội đình Quảng Bá
Lễ hội đình Quảng diễn ra tại đình Quảng thuộc làng Quảng Bá, quận y
Hồ, Hà Nội) vào ngày 9/2 đến hết ngày 12/2 Âm lịch, chính hội là ngày 11/2.
Đình Quảng thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Cuối thế kỷ VIII, anh hùng
dân tộc Phùng Hưng khởi nghĩa từ Đường Lâm, đem quân về vây hãm Tống Bình. Ngài
từng đóng quân tại làng Quảng Bá, nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố
Nội. Sau khi mất, dân làng tôn Ngài làm thành hoàng làng, tổ chức hội để tưởng nhớ
công ơn to lớn của Ngài.
Hiện nay trên đất nước nhiều đền thờ ngài được xây dựng lên nhiều nơi,
trong đó đình Quảng Bá. Đình Quảng niên đại khởi dựng khá sớm, tồn tại đến
nay đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Lần trùng tu lớn nhất vào năm Bảo Đại thứ 11,
tức năm 1936.
lOMoARcPSD| 60860503
Tiểu kết:
Từ xưa đến nay lễ hội truyền thống đã là dịp vui chơi giải trí của người dân văn hóa
nông nghiệp, thường diễn ra vào thời điểm mùa xuân, góp phần cố kết và nâng cao các mối
quan hệ trong hội. Không chỉ vậy, với truyền thống thờ thành hoàng làng những vị
anh hùng dân tộc có ng với đất nước, lễ hội dịp tưởng nhớ, tạ ơn cầu nguyện của
đông đảo quần chúng nhân dân đối với đối tượng họ thờ cúng. Nếu như phải làm việc
quanh năm, không có thời gian đi lễ đền chùa, thì dịp làng có hội chính lúc họ tạm thời
gác công việc lại và vui chơi giải trí.
Trở về thời kỳ Bắc thuộc đen tối do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Đường,
người Việt đã nhiều lần nổi dậy chống lại ách đô hộ của phương Bắc. Tiêu biểu nhất là các
cuộc nổi dậy của Tự Tiên Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng ng (776-
791) và Dương Thanh (819-820), song đều thất bại. Người dân mến phục Bố Cái
Đại Vương đã dựng nhiều đền thờ trên đất nước để tưởng nhớ ng ơn ngài, cho đến nay
đình Quảng vẫn nơi thờ tự nổi tiếng trên thủ đô Nội với các lễ hội diễn ra hằng
năm.
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG QUẢNG BÁ
1. Thời gian – địa điểm
Thực tế theo chương trình lễ hội tháng hai năm Ất Tỵ, tức tháng 3 - 2025 theo
Dương lịch, lễ hội đình Quảngbắt đầu diễn ra từ ngày 9/2 đến 12/2 Âm lịch. Tuy nhiên
bởi vì ngày 9/2 chủ yếu là thời gian lắp kiệu chuẩn bị không gian lễ hội, và làm lễ o yết
mở cửa đình nên chưa có nhiều du khách đến dự hội.
Lễ hội chủ yếu diễn ra tại không gian đình Quảng Bá, thôn Quảng Bá, phường Quảng
An, quận Tây Hồ thành phố Nội. Trong thời gian diễn ra lễ hội, đặc biệt ngày 11/2,
đình sẽ tiến hành rước nước từ đình ra chùa Hoằng Ân từ chùa trở về đình. Trải qua
nhiều thời gian, lễ hội đình Quảng tuy đã lược bỏ nhiều chi tiết nhưng vẫn thực hiện
vào đúng ngày, là lễ hội truyền thống quan trọng thể hiện lòng biết ơn của con dân đối với
thành hoàng làng và là dịp vui chơi giải trí của người dân và du khách.
2. Lịch sử đình Quảng Bá 2.1 Truyền thuyết về Bố Cái Đại Vương:
Phùng Hưng (chữ Hán: 馮興; ? 791) thủ lĩnh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ An
Nam của nhà Đường Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ ba (602-905), đuổi được người
phương Bắc và cầm quyền cai trị một thời gian. Họ “Phùng” một họ không quá xa lcủa
người Việt, nhưng cũng thể hiểu ngựa đi nhanh, cái tên Hưng” nghĩa là dấy lên,
tên của Ngài có thể hiểu là cưỡi ngựa khởi nghĩa chống lại quân thù.
Về sau, nhân dân suy tôn gọi Ngài là “Bố Cái Phu Hựu Chương Tín ng Nghĩa Đại
Vương” mà ngày nay thường được gọi tắt“Bố Cái Đại Vương”. Tôn hiệu phổ biến của
lOMoARcPSD| 60860503
Phùng Hưng, Bố i Đại Vương (布盖大), được coi một trong những trường hợp sử
dụng chữ Nôm bản địa cổ nhất còn lưu truyền. Hiện tại vẫn còn nhiều tranh cãi trong nước
và ngoài nước về ý nghĩa thật sự của hai chữ “Bố Cái”, nhưng hầu hết nhà nghiên cứu Việt
Nam đều cho rằng hai chữ này nghĩa “bố mẹ” dân sử dụng để nói bóng về thành
hoàng làng của mình.
Năm Đại Lịch thứ hai đời Đường Đại Tông giặc Côn Lôn Chà vào quấy
nhiễu. Quan kinh lược sử nhà Đường Trương Nghi chỉ còn biết giữ thành chờ cứu
viện. Vua Đường sai Cao Chính Bình đem quân sang đánh tan giặc ở Cửu Chân, sau đó y
được giữ chức Đô hộ An Nam. Cao Chính Bình thế ra sức tàn sát,ớp bóc, vơ vét của
cải của dân ta, khiến người người đều căm giận. Nhân hội đó khoảng những năm 766
779, Phùng ng cùng hai em Phùng Hải Phùng Dĩnh hiệu triệu dân Việt nổi lên
chống nhà Đường.
Theo cuốn “Các triều đại Việt Nam” do Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng biên soạn,
Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi Cự tộc, Hào trưởng Đường Lâm, nay thuộc thành phố
Nội. được dân sẵn lòng mến phục nên khi Phùng Hưng trương cờ dấy nghĩa mưu
việc lớn, nhân dân theo về rất đông. Chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân lên tới vài
vạn người. Quân giặc không đương nổi những cuộc công phá sấm sét phải tháo chạy. Phùng
Hưng xưng Đô Tổng chia quân đi trấn giữ những vùng hiểm yếu. Cao Chính Bình đem
quân đàn áp nhưng chưa thắng bại. Khi tiến công, khi thế thủ, cuộc chiến diễn ra hơn chc
năm. Sau một thời gian dài xây dựng lực lượng, Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải,
Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần chia làm năm đạo bất ngờ vây đánh thành Tống
Bình. Cao Chính Bình đem bốn vạn quân ra nghênh chiến. Sau bảy ngày đêm xung sát,
quân giặc núng thế phải rút vào thành cố thủ. Nghĩa quân thừa thắng hò reo bủa vây khắp
bốn mặt thành. Thấy quân mình chết nhiều, Cao Chính Bình lo sợ phát ốm rồi chết. Phùng
Hưng chiếm lĩnh thành trì, vào phủ đô hộ điều khiển việc nước được bảy năm thì mất. Con
trai ngài là Phùng An lên nối ngôi, thể theo lòng ái mộ của nhân dân tôn cha là Bố Cái Đại
Vương. Phùng An nối nghiệp được hai năm thì bị vua Đường cử
Triệu Xương đem quân sang đánh phải đầu hàng.
[3, tr57-58]
Phùng Hưng mất nhân dân không nguôi nhớ tiếc Ngài. Truyền thuyết dân gian kể
lại rằng: Phùng Hưng rất hay hiển linh. Ông thường hiện hình giúp dân lúc hoạn nạn. Dân
làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Sau này, Phùng Hưng cũng hiển
linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Vì vậy, Ngô Quyền cho lập đền
thờ Ngài. Cho đến bây giờ trên đất nước có nhiều đền thờ được xây dựng lên ở nhiều nơi,
mà trong đó có đình Quảng Bá (Hà Nội), Triều Khúc (Hà Nội), Đại Ứng, Phương Trung,
Hoạch An (Thanh Oai, Hà Nội)...
2.2 Lịch sử đình Quảng Bá
lOMoARcPSD| 60860503
Để ghi nhớ công lao của Phùng Hưng, nhân dân một số làng nằm trên tuyến đường
tiến quân vào bao vây trại giặc của nghĩa quân Đường Lâm đã lập đền thờ Bố Cái Đại
Vương tôn ông làm thành hoàng làng, trong đó làng Quảng đại bản doanh của
Phùng Hưng khi tiến đánh thành Tống Bình để tiêu diệt quân nhà Đường.
Xưa kia Quảng Bá có tên chữ là “Quảng Bố” nhưng vì kiêng húy thành hoàng làng
nên đọc chệch Quảng Bá. Tớc đây đình Quảng không nằm bên cạnh đường
Ngọc Vân, nằm bán đảo Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Nhưng do thế
đất không thuận, trong làng thường xảy ra chuyện dữ, trai đinh thường hung hãn, nên dân
làng nhờ thầy địa xem thế đất dựng lại ngôi đình trên địa điểm hiện nay. Tương truyền
Phùng Hưng rất hay hiện hình giúp đỡ người dân, thậm chí cònngười kể lại rằng Ngài
từng hiển linh giúp Ngô Quyền đánh giặc. Người dân cho linh thiêng, lập rất nhiều đình
đền thờ phụng Ngài, cho đến nay trên thành phố Nội tất cả 16 điểm thờ Bố Cái
Đại Vương Phùng Hưng, trong đó có đình làng Quảng Bá.
Hiện nay tại Đình Quảng Bá còn lưu giữ bộ sưu tập di vật có giá trị về lịch sử nghệ
thuật như: một bản thần phả chữ Hán, 16 đạo sắc phong thần, trong đó sắcniên đại sớm
nhất năm Cảnh Trị thứ sáu (1670), sắc niên đại muộn nhất m Khải Định thứ chín
(1924).
Theo ban tổ chức, trong năm nay nhà nước sẽ cung cấp một khoản tiền để hỗ trợ tu
sửa lại đình. Mỗi dịp Tết đến xuân về đình cũng nhận được từ du khách ghé thăm một
lượng tiền công đức, nhờ đó thể tu bổ cơ sở thờ tự vững chắc để người dân thực hiện
các hoạt động tín ngưỡng.
2.3 Lịch sử lễ hội đình Quảng Bá
Theo ông Ngô Văn Thi, người dân làng Quảng Bá, lễ hội đình Quảng được tổ
chức mỗi năm hai lần, cho đến nay vẫn giữ được truyền thống không thay đổi nhiều.
Hội chính bắt đầu diễn ra từ ngày 9/2 đến 11/2 Âm lịch, ba năm mới rước một lần.
Lễ hội đình Quảng Bá là một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất tại quận y
Hồ, không chỉ có dân làng đến dự mà còn có cả du khách đến từ khắp nơi trên đất nước tới
tham dự nên được tổ chức rất long trọng. Mỗi khi tổ chức lễ hội các điểm thờ tự này
người nơi thtự khác cũng đến hỗ trợ thực hiện nghi lễ. Tuy nhiên so với những năm
trước, lễ hội đình Quảng năm nay đã được tối giản, thể lược bỏ một chút phần hội
nếu thời tiết không tốt để đảm bảo phần tế lễ.
3. Quy trình lễ hội đình Quảng Bá
Ngày 9/2 Ất Tỵ (8/3/2025)
Trước ngày mồng 8 tháng 3, ban tổ chức đã chuẩn bị xong nhân lực, đội ngũ nhân
sự thực hiện việc tế lphân công công việc. Đây cũng ngày diễn ra nhiều nghi thức
tế lễ truyền thống nhất trong suốt thời gian diễn ra lễ hội.
lOMoARcPSD| 60860503
Từ 8 giờ sáng, sau khi công tác chuẩn bị đã xong người chủ tế tiến hành lễ cáo yết
xin phép thần linh cho dân làng tiến hành mở lhội theo thông lệ hàng năm. Nếu như trước
đây phải dán thông báo viết tay đầu làng, đình làng các di tích liên quan thì bây giờ
đình làng Quảng Bá đã sử dụng giấy in to rõ và đẹp trên đường vào di tích. Ban tế lễ gồm
các bô lão trong làng thực hiện nghi thức dâng hương. Lễ vật dâng bao gồm gà, xôi, rượu,
hoa quả, trầu cau, hương nến,... đồ tế lễ đơn giản trang trọng. Lục cúng gồm đầy đủ
hương, hoa, đăng, trà, quả, thực. Thành phần tham dự lễ cáo yết gồm những người trong
ban tổ chức, ban khánh tiết của lễ hội.
Sau lễ cáo yết, người trong ban tổ chức tiến hành bao sái trong ngoài cung, tháo cửa
đình, bày kiệu sắc, kiệu ớc phật đình, chấp kính, tán tầu ra sân đình. Họ bàn ghế hai
văn chỉ, lau bụi bẩn m trên đó trước khi m lễ. Cuối cùng m lễ yên vị, nchùa
cùng các phật tử tụng kinh cầu an tại đình.
Buổi tối ngày mùng 9 tháng 2 Âm lịch tổ bảo vệ sẽ túc trực ở đình. Trong ngày này
di tích sẽ thắp đèn và mở cửa di tích suốt cho đến ngày tổ chức lễ hội.
Ngày 10/2 Ất Tỵ (9/3/2025)
Sau khi làm lễ mộc dục, chủ tế và các bô lão trong làng mặc trang phục truyền thống
thực hiện lễ dâng hương bia Bác Hồ đài liệt phường. Cùng lúc đó nhân dân sẽ dâng
hương. Giống như các lễ hội truyền thống khác, người được chọn để tắm cho thần phải
sạch sẽ, chay tịnh, bịt miệng bằng khăn điều; nơi tắm ợng phải n đáo nằm trong hậu
cung, thần điện, là nơi ngự của Thần mà người ngoài không được xâm phạm vào thời khắc
này.
Sau khi thụ lộc xong, lần lượt ban tế nữ, họ Trần các dòng họ khác dâng hương.
Trong lễ hội các hoạt động trò chơi đã được đưa vào phần hội, khoảng 15 giờ chiều
người dân có thể tham gia giao lưu đá cầu, cầu lông.
Các dòng họ thể ng hương đến 19 giờ tối để ngày mai thtiếp tục chương
trình lễ hội.
Ngày 11/2 Ất Tỵ (10/3/2025)
Khoảng 7 giờ sáng thời gian đón tiếp đại biểu, trống hội vang lên dồn dập. Sau
khi giới thiệu đại biểu là lúc đọc diễn văn khai mạc lễ hội. Đây được coi là ngày hội chính
quan trọng nhất tập trung rất nhiều người dân cũng như du khách nước ngoài đến tham dự.
Lễ rước nước trong lễ hội truyền thống một hành động thị phạm của nghi thức
cầu mưa, cầu nước cho sản xuất và sinh hoạt của cư dân trên khắp mọi miền đất nước
Theo truyền thống sẽ rước nước từ đình ra chùa và từ chùa về đình. Đoàn rước rất
đông đảo, rước sắc vua ban, ba chiếc ngai thờ không rước để yên vị tại hậu cung. Sắc
tế trong long đình có hai lọng tám tán đi quanh rất tôn nghiêm. Mở đầu là đội múa sư tử
lOMoARcPSD| 60860503
múa rồng, tử đi tính dẹp đường còn rồng thì lượn quanh long đình. Tôn sự uy
nghiêm còn có đoàn mang một bộ chấp kích, một trường kiếm, ba đoản kiếm đi hộ vệ. Tất
cả đoàn đều chít khăn đỏ, áo nẹp, quần trắng, thắt ng xanh chỉnh tế đẹp mắt. Còn ba
đội thiếu nữ múa sênh tiền quần áo lóng lánh kim tuyến một đội đi sau kiệu rước sắc.
Theo lời ban tổ chức lễ hội, trong đoàn người chỉ có các cô giáo mầm non chưa lấy chồng,
mới được tham gia đoàn rước nước. Các già vãi áo nâu dân dã, các ông bao gồm 16
người mặc áo phụng xanh. Riêng vị chủ tế bồi tế thì áo đỏ, các cụ bà khoảng 30 người
trong đội tế áo vàng khăn vàng. Ngoài ra còn có người dân đi theo đoàn ớc tạo nên không
khí náo nhiệt.
Mặc chrước tượng trưng cho lễ phát du, song đoàn rước vẫn thực hiện nghiêm
túc quy trình rước kiệu đến chùa. Đoàn người đi theo hướng từ đình ra đường Tô Ngọc
Vân, rẽ o đường Xuân Diệu rồi đi đường Đặng Thai Mai vào chùa Hoằng Ân. Khi đến
chùa Hoằng Ân, các sư chùa và đội tế lễ thực hiện nghi lễ bên trong, còn người dân và ban
tế nữ cùng nhảy múa vui chơi ngoài sân.
So với đường đi thì đường về đơn giản hơn nhiều, đoàn người chỉ cần ra phố Quảng
Bá về đình. Về đến đình, đại biểu sẽ cùng dân làng cùng thụ lộc.
Theo lịch trình, vào khoảng 14 giờ chiều, phần hội sẽ bắt đầu bằng việc giao lưu
bóng chuyền hơi. Tuy nhiên do thời tiết không tốt nên năm nay đã bị hủy bỏ, chỉ thực hiện
phần lễ.
Ngày 12/2 Ất Tỵ (11/3/2025):
Bắt đầu ngày 12 tháng 2 Âm lịch là lễ tế giã. Lễ tế giã có ý nghĩa tạ ơn thần linh đã
phù hộ báo cáo kết thúc lễ hội với sự tham gia của của lão và người dân trong làng,
chủ lễ sẽ dâng hương và đọc văn tế.
Sau khi bế mạc lễ hội, người trong ban tổ chức sẽ tiến hành thu cất kiệu và lắp cửa
đình.
Ngày cuối cùng của lễ hội nhân dân đến dâng hương kết thúc bằng các tiết mục
văn nghệ đặc sắc.
4. Ý nghĩa lễ hội đình làng Quảng Bá
Tổng chi là dân ta tin rằng: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, cảnh thổ nào phải có
Thần Hoàng ấy, vậy phải thờ phụng để thầnng hộ cho dân, thế mỗi ngày sự thần một
thịnh. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến
Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi.
Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn, đại xuyên, triều đình
lập miếu thờ thần sơn xuyên ấy để làm chủ tể cho việc ấm tỉ một phương thôi. Kế sau
triều đình tỉnh biểu những bậc trung thần nghĩa những người công lao với nước,
lOMoARcPSD| 60860503
thì cũng lập đến cho dân xã ở gần dâu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ
nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình. Làng nào sẵn người anh hùng
hào kiệt mất đi rồi thì thờ ngay người ấy, làng nào không có thì đi cầu lấy một vị thần linh
khác rước về nhà thờ. Hoặc nơi tnhân việc mộng mị, việc bói khoa, việc khẩu, tin
một sự linh dị thờ. Hoặc nơi thì một sự ngẫu nhiên, cho thiêng liêng xin duệ
hiệu để thờ. Té ra làng nào cũng đền, o cũng miếu. Đến cnhững mới lập,
trước hết cũng nghĩ ngay đến việc thờ thần.
Trong cuốn Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính có viết: Mỗi làng phụng sự một
vị Thần Hoàng, làng thờ hai ba vị, làng thờ năm, bảy vị tục gọi Phúc thần. Cũng
theo Phan Kế Bính, Thượng Đẳng Thần cũng thể những vị anh hùng dân tộc “khi
sanh tiền đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công
trạng lập đền thờ hoặc bởi lòng n nhớ công đức thờ. Các bực ấy đều s ch
công trạng hiển hách họ tên ràng, lịch triều mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng
thần”. Như vậy, Bố Cái Đại Vương - Phùng Hưng chính là vị Thượng Đẳng Thần mà làng
Quảng thờ phụng, là tín ngưỡng của dân làng trong suốt bao năm qua. Ngài vị thủ
lĩnh đã đứng lên chống lại ách đô hộ của nhà Đường, tuy nhiên không may vào phủ đô hộ
điều khiển việc nước được một thời gian ngắn thì mất.
Thiết tưởng chỉ những miếu trung thần nghĩa miếu những bậc đại anh hùng
hào kiệt, thì mới đáng nên thờ. Mà thờ thì để tỏ cái lòng kỷ niệm, chớ không phải th
cầu phúc
[3, tr80]
. Cho nên lễ hội truyền thống còn dịp để người dân vui chơi giải trí,
có lễ thì phải hội, thời điểm đó đông đảo các tầng lớp nhân dân dành thời gian
nhàn rỗi, tiền bạc của mình cho quá trình vui chơi, giao thoa với môi trường tự nhiên
môi trường xã hội, giải tỏa những ức chế tâm lý nảy sinh trong công việc, trong cuộc sống
thường nhật. Đây cũng dịp những người dân lao động được giao thoa với những người
anh em, bạn hữu trong rừng vùng, từng khu vực, họ được “chơi” với nhau trong những
ngày hội.
Tiểu kết: Mặc dù nằm giữa quận Tây Hồ tấp nập với những dịch vụ vui chơi hiện đại, đình
Quảng Bá vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống. Hằng năm cứ đến tháng Hai Âm
lịch, ban quản di tích tổ chức lại bận rộn với việc tổ chức lễ hội. Đây dịp để con
dân thờ phụng Bố i Đại ơng Phùng Hưng và du khách thập phương về đình cùng thụ
lộc và tham gia lễ hội.
KẾT LUẬN
Cho đến trước Cách mạng tháng Tám, dưới cái áo khoác tín ngưỡng đời này qua đời
khác hội đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, đã ăn nhập vào ức thâm
sâu của dân tộc. Song hiện nay trong điều kiện xã hội mới số phận của ngày hội lại phần
bấp bênh, những ngày hội hiện nay ta tổ chức ra phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu của
quần chúng
[5, tr58]
Mặc không nhiều lễ hội truyền thống như ng văn hóa xứ Kinh
Bắc, nhưng ở thủ đô Hà Nội vẫn có thể bắt gặp những lễ hội đầy màu sắc vào các dịp trong

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60860503
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
------🙠🕮 🙠------ BÀI BÁO CÁO
MÔN: LỄ HỘI VIỆT NAM
Đề tài: Khảo sát một lễ hội truyền thống hoặc lễ hội hiện đại
Giảng viên: Lê Thị Kim Loan Nhóm thực hiện:
Lớp học phần: DL6015 (N02) Hà Nội, năm 2024 lOMoAR cPSD| 60860503
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Nội dung công việc Người thực hiện
Điểm đánh giá của giảng viên
Xây dựng đề cương khái Cả nhóm quát
Xây dựng đề cương chi tiết Cả nhóm
Xây dựng bảng hỏi, bảng Cả nhóm phỏng vấn Cả nhóm Sưu tầm tài liệu
Xử lí số liệu, tiến hành Đào Thanh Hằng phỏng vấn Lê Khánh Chi
Viết phần mở đầu và phần Hoàng Kiều An
kết luận, tài liệu tham khảo Viết chương 1
1.1 Tổng quan về lễ hội Hoàng Kiều An
truyền thống Việt Nam Lê Khánh Chi
1.2 Khái quát chung về lễ hội đình Quảng Bá Hoàng Kiều An Viết chương 2 Đào Thanh Hằng Lê Khánh Chi
2.1 Thời gian – địa điểm
2.2 Lịch sử đình Quảng Bá lOMoAR cPSD| 60860503
2.3 Quy trình lễ hội
2.4 Ý nghĩa lễ hội
Chỉnh sửa hình thức, nội Hoàng Kiều An dung của văn bản Video (nếu có) Phạm Thị Hạnh Lồng tiếng Đào Thanh Hằng Hoàng Kiều An
In ấn, đóng quyển Lê Khánh Chi
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM Mã sinh viên Họ và tên Nhận xét Đánh giá thành viên 64DNC15001 Hoàng Kiều An B ₋
Có khảo sát tiền trạng, đi khảo
sát đủ bốn ngày diễn ra lễ hội.
₋ Có góp ý nhưng chưa quản lý được các thành viên
₋ Hoàn thành tốt nhiệm vụ
64DNC15013 Phạm Thị Hạnh A ₋
Có khảo sát tiền trạng, đi khảo sát đủ bốn ngày.
₋ Hoàn thành tốt nhiệm vụ. lOMoAR cPSD| 60860503
64DNC15015 Đào Thanh Hằng C ₋
Không khảo sát tiền trạng, chỉ đi khảo sát hai ngày.
₋ Phần nội dung chuẩn bị còn sơ sài. 65DDN06011 Lê Khánh Chi A ₋
Đi khảo sát đủ bốn ngày diễn ra lễ hội.
₋ Có tiếp thu góp ý của nhóm trưởng
₋ Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, nhóm chúng em xin cảm ơn cô Lê Thị Kim Loan đã hướng dẫn, giảng
dạy em và các bạn học phần Lễ hội Việt Nam. Tuy chỉ được học trong khoảng thời gian
ngắn nhưng chúng em đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới và bổ ích, đồng thời trau dồi
được nhiều kỹ năng cần thiết cho bản thân. Nhờ những bài giảng, hoạt động nhóm, phát
biểu mà chúng em đã hiểu biết thêm môn học này, cô đã truyền đạt những kiến thức vô
cùng quý giá, thiết thực để chúng em có đủ tiền đề, cơ sở, kiến thức và vận dụng thực hiện
đề tài nghiên cứu này. Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu đề tài khảo sát, nhóm chúng
em đã nhận được sự quan tâm tận tình, tâm huyết chỉ bảo của cô. Cùng với tình cảm chân
thành nhất, chúng em bày tỏ lòng biết ơn đến cô. Tuy bản báo cáo còn thiếu sót nhưng
chúng em sẽ cố gắng làm bài tốt nhất có thể, rất mong cô nhận xét, góp ý thêm để bản báo
cáo nhóm được hoàn chỉnh hơn ạ.
Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 3 năm 2025 MỤC LỤC
1 Tính cấp thiết của đề tài₋
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài₋ lOMoAR cPSD| 60860503
4 - Mục đích nghiên cứu
5 Phạm vi nghiên cứu₋
6 Phương pháp nghiên cứu₋
7 Bố cục đề tài₋
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1 Khái niệm lễ hội truyền thống
2 Đặc điểm chung của lễ hội truyền thống Việt Nam
3 Vai trò của lễ hội truyền thống Việt Nam 2.
Khái quát chung về lễ hội đình Quảng Bá
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG QUẢNG BÁ 1.
Thời gian – địa điểm 14 2.
Lịch sử đình Quảng Bá 15
2.1 Truyền thuyết về Bố Cái Đại Vương:
2.2 Lịch sử đình Quảng Bá
2.3 Lịch sử lễ hội đình Quảng Bá 3.
Quy trình lễ hội đình Quảng Bá 17 4.
Ý nghĩa lễ hội đình Quảng Bá 19 KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đề tài: Tìm hiểu về lễ hội đình làng Quảng Bá. MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài₋
Trong thời kỳ hội nhập và phát triển, nước ta giao lưu và không ngừng tiếp xúc với
các loại hình văn hóa mới từ bên ngoài được du nhập vào. Đây là một cơ hội để Việt Nam
học tập và phát triển những giá trị văn hóa vốn có, đồng thời quảng bá văn hóa của ta đến
với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên cũng đặt ra vấn đề khi những giá trị văn hóa dân gian vốn
không phù hợp với nhiều bạn trẻ, có thể bị mai một và lãng quên trong xã hội hiện đại. lOMoAR cPSD| 60860503
Thông qua những hoạt động diễn ra trong lễ hội, hình ảnh về những anh hùng, những
danh nhân của đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong lịch sử được tái hiện
lại. Thông qua những câu truyện hưu truyền trong dân gian từ thế hệ này sang thế hệ khác,
từ đời này sang đời khác hoặc qua ghi chép của sử sách. Tất cả những nhân vật, sự kiện
lịch sử đó đã đi vào tâm thức của các tầng lớp nhân dân, được mọi người trân trọng, tôn
vinh, lưu giữ và truyền trao cho các thế hệ kế tiếp. Dù ít nhiều được khoác cho “chiếc áo
hiện thực” nhãn quan thời đại, nhưng hình tượng các nhân vật, sự kiện lịch sử về cơ bản
vẫn được lưu giữ, bảo lưu những yếu tố nguyên gốc và luôn được bổ sung bằng những sáng
tạo văn học nghệ thuật của quần chúng trong tiến trình lịch sử dài lâu. Dần dần những nhân
vật đó đã trở thành đối tượng thờ tự trong hoạt động tế lễ của các lễ hội dân gian, hay ta
còn biết đến với tên gọi lễ hội truyền thống.
Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt
khi cách mạng công nghiệp 4.0 lên ngôi và phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên thế
giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài sự phát triển ấy. Điều đó đặt ra câu hỏi làm thế
nào để bảo tồn và phát huy những giá trị của lễ hội truyền thống dân tộc? Là một thành tố
đặc biệt quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam, lễ hội truyền thống có vai trò
to lớn, không thể tách rời trong đời sống của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn
hiện nay, cùng với sự đổi thay nhiều mặt của đất nước, lễ hội truyền thống Việt Nam đang
có sự biến đổi to lớn, toàn diện, cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Những hình thức
mới chứa đựng những nội dung mới của hoạt động lễ hội đang diễn ra, biến động và từng
bước định hình trong điều kiện mới. Đó là các lễ hội du lịch, liên hoan du lịch, lễ hội thương
mại - du lịch, lễ hội văn hóa - thể thao du lịch... đang ngày càng mở rộng với nhiều qui mô,
mức độ và nội dung phong phú, đa dạng, sình động không dễ dàng thẩm định và kiểm
soát... Tất cả đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu, nhà quản lý tìm cách khai thác sử dụng
để đáp ứng các yêu cầu đặt ra. [1]
Mặc dù tọa lạc ở một trong những nơi phát triển dịch vụ du lịch lớn nhất thủ đô,
nhưng làng Quảng Bá vẫn lưu giữ được những nét cổ kính tại ngôi đình làng với lịch sử
lâu đời. Một trong những lí do khiến làng Quảng Bá vẫn giữ được nét truyền thống giữa
thành phố hiện đại là nhờ có lễ hội được tổ chức hằng năm tại đình. So với những lễ hội
truyền thống khác trên khắp cả nước, lễ hội đình Quảng Bá chưa có nhiều người nghiên
cứu. Vì vậy, nhóm chúng em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu lễ hội đình làng Quảng Bá” làm đề
tài nghiên cứu của mình với mục tiêu cung cấp những thông tin hữu ích cho các bạn sinh
viên về lễ hội truyền thống Việt Nam.
2 Tình hình nghiên cứu của đề tài₋
Lễ hội truyền thống hiện nay đang nhận được sự quan tâm lớn từ nhiều góc độ khác
nhau, bao gồm văn hóa học, xã hội học, nhân học, và các ngành khoa học khác. Các nghiên
cứu này chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu về giá trị văn hóa, lịch sử, và vai trò của lễ hội lOMoAR cPSD| 60860503
truyền thống trong đời sống cộng đồng, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển
và bảo tồn các lễ hội này. Một số bài nghiên cứu đã chứng minh được những lợi ích của lễ
hội Việt Nam nhưng đồng thời cũng có những đánh giá chính xác những ảnh hưởng tiêu
cực mà hiện tượng đô thị hóa đến những giá trị truyền thống.
Có thể nói rằng công trình nghiên cứu tiêu biểu về lễ hội truyền thống Việt Nam là
cuốn “Nếp cũ – Hội hè đình đám”, bộ sách gồm hai cuốn và cũng là tài liệu tham khảo cho
cuốn “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” của PGS.TS Dương Văn Sáu. Tác giả
Toan Ánh đã chỉ ra khái niệm hội hè đình đám và các nghi lễ quan trọng trong quá trình tế
lễ ở các lễ hội tín ngưỡng dân gian, mà đa số là lễ hội thờ thành hoàng làng và Đạo Mẫu.
Trong phần hạ của cuốn sách, tác giả cũng viết riêng về một số lễ hội lớn trên khắp đất
nước như lễ hội Đền Hùng, hội Gióng, hội Phủ Giầy, lễ hội đền Hai Bà Trưng, lễ hội chùa
Hương,... điều đó chứng minh cho thấy đây là một tài liệu nghiên cứu đáng tin cậy có thể
hỗ trợ sinh viên trong quá trình nghiên cứu một số lễ hội lớn của đất nước.
Một công trình nghiên cứu quan trọng khác chính là cuốn “Lễ hội Việt Nam trong
sự phát triển du lịch” của PGS.TS Dương Văn Sáu. Thầy đã chỉ ra rằng lễ hội truyền thống
Việt Nam hình thành từ rất sớm, thậm chí là từ khi chưa hình thành nhà nước, chưa có sự
phân chia giai cấp. Đây cũng là cuốn sách được sử dụng như giáo trình chính khi học tập
và nghiên cứu về lễ hội Việt Nam của sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Ngoài ra còn có những tài liệu nghiên cứu về lễ hội của người dân tộc thiểu số như
cuốn “Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh, và một số tài liệu nước
ngoài như công trình “Festivals and the Cultural Politics of Belonging” do David Heldt
biên soạn. Công trình của David Heldt nghiên cứu các lễ hội ở nhiều quốc gia và khu vực
khác nhau, từ phương Tây đến các nền văn hóa Á Đông, khám phá cách lễ hội phản ánh
các yếu tố văn hóa, chính trị, và xã hội trong các cộng đồng khác nhau.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra được vai trò và ý nghĩa của lễ hội
truyền thống Việt Nam, đồng thời chỉ ra sự biến đổi và khả năng bị mai một của lễ hội
truyền thống trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên chưa có nhiều công trình tập trung nghiên
cứu về lễ hội đình làng Quảng Bá; vì vậy, đây chính là những căn cứ quan trọng để chúng
em nghiên cứu, khảo sát những vấn đề liên quan đến đề tài: “Tìm hiểu lễ hội đình làng Quảng Bá”. lOMoAR cPSD| 60860503
3 Mục đích nghiên cứu₋ Mục đích:
Đề tài thực hiện nhằm khảo sát ban tổ chức và du khách để tìm hiểu về ý nghĩa của
lễ hội đình Quảng Bá để đưa ra góc nhìn tổng quan giúp sinh viên bồi đắp thêm kiến thức
và kĩ năng trong quá trình nghiên cứu. Chúng em đã tiến hành khảo sát thực tế tại đình
Quảng Bá, thuộc thôn Quảng Bá, phường Quảng An, quận Tây Hồ để tìm hiểu về khoảng
thời gian ban tổ chức bỏ ra để thực hiện lễ hội. Đồng thời, chúng em mong muốn chứng
minh ý nghĩa của lễ hội truyền thống đối với người dân trong làng nói riêng và du khách thập phương nói chung. Nhiệm vụ:
Tiến hành khảo sát thực tế, tìm hiểu ý kiến và cảm nhận của ban tổ chức về việc
chuẩn bị và thực hiện lễ hội năm nay, đồng thời tìm hiểu về cảm nhận của du khách khi đến tham gia lễ hội.
Sau khi khảo sát và tìm hiểu xong, nhóm triển khai tổng hợp và phân tích các số liệu
đã thu được. Chúng em đã cân nhắc và lựa chọn những số liệu thông tin chính xác, có ích
từ đó chỉ ra ý nghĩa của lễ hội đối với người dân và du khách thập phương. Bài nghiên cứu
mong muốn giúp sinh viên có cái nhìn tổng quan, cụ thể và đúng đắn góp phần hình thành
tư duy chủ động trong việc thích nghi với mọi tình huống trong quá trình nghiên cứu lễ hội
địa phương, đồng thời giúp sinh viên hình thành các kĩ năng mềm cần thiết không chỉ phục
vụ cho việc học hiện tại mà còn giúp ích cho cả công việc trong tương lai.
4 Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu₋ Đối
tượng nghiên cứu: lễ hội đình làng Quảng Bá.
Khách thể nghiên cứu: ban tổ chức lễ hội đình Quảng Bá và du khách.
5 Phạm vi nghiên cứu₋
Phạm vi không gian: đình làng Quảng Bá.
Phạm vi thời gian: từ ngày 8/3 đến ngày 11/3 năm 2025
6 Phương pháp nghiên cứu₋
Để góp phần phục vụ cho quá trình nghiên cứu của đề tài, cần phải tiến hành tìm
hiểu và đưa ra những phương pháp nghiên cứu cho phù hợp. Thực tế, đã có rất nhiều
phương pháp khoa học được tìm ra và nghiên cứu đạt được hiệu quả cao. Tuy nhiên, đối
với đề tài này, nhóm chúng em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau : lOMoAR cPSD| 60860503 -
Phương pháp phân tích tài liệu: Nghiên cứu các văn bản, sách báo, tài liệu
lý luận khác nhau về lễ hội truyền thống Việt Nam. Tìm hiểu những nguồn kiến thức
lí thuyết làm minh chứng xác thực phục vụ cho mục đích nghiên cứu của đề tài. -
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn ban tổ chức về công tác chuẩn bị và
những khó khăn cũng như thuận lợi mà họ gặp phải khi thực hiện lễ hội.
7 Bố cục đề tài₋ : Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, bài báo cáo còn chia thành hai chương:
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG QUẢNG BÁ
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1. Tổng quan về lễ hội truyền thống Việt Nam
1.1 Khái niệm lễ hội truyền thống
Về mặt thuật ngữ, lễ hội là một từ tương đối mới, chỉ được sử dụng một cách phổ
biến trong mấy chục năm nay, đặc biệt là để chỉ lễ hội dân gian. Còn những sinh hoạt lễ
nghi tập thể của các vua quan ngày xưa ở chốn cung đình thì chỉ thấy các sử gia triều
Nguyễn ghi là “triệu hội” nghĩa là hội họp của triều đình theo Phan Thuận An. Thông
thường ở Việt Nam những lễ hội có từ trước năm 1945 được gọi bằng các tên gọi lễ hội cổ
truyền, lễ hội dân gian, lễ hội truyền thống, lễ hội dân gian truyền thống
... những lễ hội ra
đời sau năm 1945 thì được gọi là “lễ hội hiện đại”.
Theo Chu Quang Trứ, lễ hội “là hiện tượng lịch sử, luôn phát triển theo thời gian và
có tính thời đại”; vì thế, lễ hội không có tính bất biến mà biến đổi tùy thuộc các điều kiện
khách quan (thời gian và không gian tổ chức lễ hội) và các điều kiện chủ quan (chủ thể tổ
chức lễ hội) và các điều kiện chủ quan (chủ thể tổ chức lễ hội, ý thức hệ chủ đạo của thời
đại, cơ sở vật chất, nhân lực và nguồn tài chính).” Lễ hội là một tổ hợp của những hoạt
động văn hóa cộng đồng xoay xung quanh một trục ý nghĩa nào đó diễn đạt bởi hệ thống
nghi thức, nghi lễ và nó giữ vai trò là trung tâm.
Như vậy, “lễ hội là một hoạt động văn hóa do con người sáng tạo ra nhằm thỏa
mãn các nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng, vui chơi, giải trí, được hình thành qua một quá
trình lâu dài do tác động của văn hóa, chính trị và lịch sử
.”
1.2 Đặc điểm chung của lễ hội truyền thống Việt Nam
Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của
người dân trong xã hội ở từng giai đoạn lịch sử. Lễ hội được cụ thể hóa bởi mối quan hệ
khăng khít của ba quá trình: lịch sử hóa nhân vật và sự kiện, sân khấu hóa đời sống xã hội
và xã hội hóa các hoạt động mang tính cộng đồng. lOMoAR cPSD| 60860503
Hầu hết các lễ hội Việt Nam đều có chung các đặc điểm như tính thời gian, tính
không gian và tính hình thức đối ứng đối ngẫu trong lễ hội.
1.2.1 Tính thời gian: tuân theo quy luật và bất quy luật. a. Theo quy tắc:
Bất cứ một lễ hội nào cũng phải tồn tại trong thời gian và không gian của nó, không
có lễ hội phi thời gian, không gian. Những lễ hội cổ truyền Việt Nam thông thường là lễ
hội thường niên, diễn ra đều đặn hàng năm: xuân - thu nhị kỳ, theo mùa vụ nông nghiệp,
ngư nghiệp, lâm nghiệp. Nghi thức thờ cúng tổ tiên, thần thánh cũng theo những chu trình
thời gian nhất định, thường là một năm vào ngày giỗ tổ nghề - tổ sư, ngày sinh ngày hoá
của các nhân vật đã được thời gian và nhân dân thần hóa. Khi tổ chức một lễ hội, mà thường
là lễ hội truyền thống, cần phải lựa chọn một khoảng thời gian thích hợp, và phải có liên
quan đến vị thần được thờ để chọn làm ngày tổ chức lễ hội.
Nhiều lễ hội thường diễn ra vào dịp mùa xuân, hoặc tồn tại trong tâm thức người
dân và dần dần trở thành lịch trình sinh hoạt của họ. Tuy vậy, hội hè không chỉ diễn ra trong
tháng Ba mà còn diễn ra nhiều nhất trong suốt cả ba tháng mùa xuân. Ngoài ra, lễ hội cũng
diễn ra nhiều trong các tháng mùa thu. Đó là thời gian người dân rỗi rãi, vào mùa xuân ấm
áp, mùa thu mát mẻ. Mùa xuân bắt đầu cho một năm, mùa thu đánh dấu cho một vụ mùa thu hoạch bội thu.
Dân quê quanh năm làm lụng vất vả, đầu tắt, mặt tối, hàng năm họ chỉ có hai dịp
rảnh rỗi sau vụ cấy lúa chiêm vào tháng chạp và lúa mùa vào tháng bảy. Tháng Giêng,
tháng Hai và tháng Tám là lúc dân quê được nghỉ ngơi, lúa những lúc này đã cấy xong và
những hoa màu phụ cũng đã trồng, mùa gặt chưa tới, và hoa mầu phụ cũng chưa dỡ. Nhân
dịp này các làng xã tổ chức hội hè cho dân chúng mua vui.
Xuân, Thu là hai mùa của hội hè, nhưng hội hè mùa Xuân nhiều hơn hẳn.
Thời điểm đầu năm mới chính là lúc làng vào đám. Làng vào đám còn gọi là trà
nhập tịch, và chúng ra hãy nghe Phan Kế Bính giải thích ý nghĩa trà nhập tịch trong
ViệtNam phong tục, in trong Đông Dương tạp chí vào hai năm 1913-1914.
« Lễ nhập tịch này cũng đồng một ý nghĩa với cách ăn Tết đầu năm, nghĩa là dân
mình khó nhọc vất vả quanh năm, thì phải có dịp ăn uống vui chơi cho giải trí » [6].
Làng vào đám hàng năm là dịp để cúng lễ thần linh và nhân dịp này cũng để dân
làng hội họp mua vui và tìm hiểu nhau, thu nạp năng lượng cho mùa vụ tiếp theo. Lễ hội
truyền thống Việt Nam thường là cái mốc mở đầu - kết thúc và tái sinh của một chu trình
sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, do vậy người ta còn gọi đó là “hội mùa”, “hội
mùa của làng ở làng” nó thể hiện trên nhiều mặt. Lễ hội thường diễn ra vào hai dịp: khi mở
đầu mùa vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các hình thức canh tác, lao động sản xuất
khác và lúc kết thúc mùa màng, người ta cũng tổ chức lễ hội để tạ ơn thần thánh, cầu cho lOMoAR cPSD| 60860503
mùa sau được hơn mùa trước. Cứ như thế, cuộc sống không ngừng biến đổi và phát triển,
mức sống về mọi mặt của các tầng lớp nhân dân được nâng cao không ngừng, lễ hội được
duy trì và phát triển trên nền tảng tinh thần - vật chất đã đạt được của toàn xã hội.
Trong lễ hội, người dân dùng những lễ vật là sản phẩm của mùa màng trên cánh
đồng, ruộng vườn của họ, hoặc những sản phẩm do nghề nghiệp của họ tạo ra để dâng cúng
Thánh - Thần. Người ta gọi đó là “cây nhà lá vườn”, thể hiện tình cảm chân thật, mộc mạc
của người dân và cầu thần thánh giúp sức cho họ được ăn nên làm ra và ngày càng phát
triển thịnh vượng hơn. b. Bất quy tắc:
Trong đời sống văn hóa cộng đồng, đôi khi có một số lễ hội diễn ra không theo qui
luật nào cả. Đó là các lễ hội được tổ chức gần với đời sống chính trị xã hội của đất nước.
Ví dụ như trong xã hội phong kiến, ngoài những lễ hội dân gian lễ hội thường được tổ chức
nhân dịp các sự kiện đặc biệt: lễ khánh hạ của vua chúa và triều đình phong kiến, như các:
lễ Vạn thọ, lễ kỷ niệm Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần đại khánh của các vua chúa...
Mỗi khi có một sự kiện quân sự, chính trị trọng đại, nhà nước phong kiến thường
tiến hành các lễ hội mừng chiến thắng ở kinh đô và các địa phương. Ví dụ như khi chiến
đấu với quân Nguyên – Mông lần thứ hai, nhiều chiến sĩ Đại Việt đã thích hai chữ Sát Thát
vào tay thể hiện quyết tâm chiến đấu của mình.
1.2.2. Tính địa phương/địa điểm của các lễ hội (tính không gian):
Lễ hội bao giờ cũng gần với một địa điểm, một địa phương nhất định, do người dân
ở khu vực đó tổ chức và trước hết dành cho nhân dân địa phương thắm nhận và hưởng thụ
những giá trị và lợi ích do lễ hội đem lại, sau đó mới dành cho du khách gần xa. Điều này
thấy rất rõ qua các lễ hội nổi tiếng của đất nước như Lễ hội chùa Hương, lễ hội Côn Sơn -
Kiếp Bạc, lễ hội Yên Tử, lễ hội Bà chúa Xứ... và rất nhiều lễ hội khác.
1.2.3. Tính hình thức đối ứng của lễ hội:
Là một hoạt động ra đời từ trong cuộc sống sinh hoạt của người dân, lễ hội trở thành
một hoạt động văn hóa tổng hợp mang tính khái quát cao của con người. Lễ hội là một hoạt
động văn hóa mang tính tập thể, thể hiện mối quan hệ giữa các cá nhân với cá nhân, cá
nhân với cộng đồng, cộng đồng này với cộng đồng khác. Nhưng trước hết, hoạt động lễ hội
thể hiện mối quan hệ ứng xử giữa con người với các thế lực siêu nhiên, đó là các thần
thánh. Đây là các đối tượng thờ cũng phổ biến ở tất cả các địa phương, khu vực. Lễ hội còn
là sự thể hiện mối quan hệ ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội ở nơi họ sinh sống. Mối quan hệ ứng xử này thể hiện bằng các hình thức khác nhau,
có hình thức mang nặng yếu tố thiêng liêng, có hình thức mang nặng yếu tố đời thường, thường nhật. lOMoAR cPSD| 60860503
1.3 Vai trò của lễ hội truyền thống Việt Nam
1.3.1. Lễ hội là dịp tưởng nhớ, tạ ơn và “đòi hỏi” của đông đảo quần chúng nhân
dân đối với đối tượng họ thờ cúng:
Trước hết lễ hội là dịp tưởng nhớ, tạ ơn và cầu nguyện của đông đảo quần chúng
nhân dân đối với đối tượng mà họ tôn vinh và thờ cúng. Hoạt động của lễ hội là hình thức
thể hiện nhằm giúp con người ta tưởng nhớ và tạ ơn thần thánh. Bởi trong cuộc sống, con
người Việt Nam luôn có những quan niệm: “vạn vật hữu linh”, “có thờ có thiêng - có kiêng
có lành”, “chẳng thiêng ai gọi là Thần”... Chính vì vậy trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng
của mình, người Việt Nam thờ phụng rất nhiều loại thần khác nhau[2]. Thần thành hoàng
gắn với từng địa phương, vì thế các yếu tố về địa sinh thái (khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng...),
về lịch sử, văn hóa, xã hội (quá trình lập làng, phong tục tập quán, quá trình sáp nhập địa
giới, mở rộng lãnh thổ...) đã khiến cho thành hoàng mang đặc trưng vùng miền. Ngoài thờ
các hiện tượng tự nhiên như thờ sấm, sét, mây, mưa, Mặt Trời, Mặt Trăng, Thần Nông... ở
khắp các vùng sông nước, ven biển người dân thờ thủy thần: Linh Lang Đại Vương, Tam
Giang Đại Vương, Điểm Tước Đại Vương, Nam Hải Đại Vương, Long Vương, Hà Bá... Ở
các vùng núi cao gò đồi thì lại phổ biến các sơn thần: Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương, Sơn
Đào Đại Vương... Các nhân thần gắn với chiến công và vùng đất cụ thể, như: Lý Thường
Kiệt được thờ nhiều ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang liên quan tới chiến thắng trên sông Như
Nguyệt; Ngô Quyền được thờ nhiều ở vùng Đường Lâm; Phạm Tử Nghi, Lê Chân được
thờ phổ biến ở Hải Phòng... Các nhân thần là người truyền nghề được thờ là thành hoàng,
như: Hứa Vĩnh Kiều (tổ nghề gốm Bát Tràng, Phù Lãng), Nguyễn Công Truyền (tổ nghề
đúc đồng), A Lã Đê Nương (tổ nghề dệt Vạn Phúc)... Có khi, vị thành hoàng làng được thờ
lại chính là Thổ Thần (Kỳ Vĩ, Cựu Đôi, Thủy Tú, Trịnh Xá – Hải Phòng); thần trẻ em Rý
cả chết vào giờ thiêng (Đại Lộc, Kiến Thụy); thờ thần ăn mày (Tiên Lãng, Kiến Thụy)... [1]
Trước đây, nhìn chung thần thánh được các nhà Nho và các triều đại phong kiến tập
quyền chia ra thành hai loại: chính thần và tà thần. Trong tiến trình phát triển của lịch sử,
mỗi triều đại phong kiến Việt Nam có cách ứng xử riêng đối với các loại thần này. Nếu như
dưới thời Trần, nhiều điện miếu thờ dâm thần bị triều đình trung ương xóa bỏ thì dưới thời
Mạc, những vị thần dân gian như vậy lại có xu hướng được phục hồi. Nhìn chung giữa dân
gian và cung đình luôn tồn tại đối lập trong sự thống nhất tương đối trong quan hệ đối ứng
Người - Thần. Sự ứng đối với thần của con người trong suốt tiến trình phát triển của lịch
sử phần nào phản ánh chất lượng và diện mạo cuộc sống của các tầng lớp dân cư, phản ánh
trình độ và điều kiện phát triển của các địa phương trên khắp các miền đất nước.
Người Việt còn luôn tưởng nhớ, biết ơn và thờ cúng những người con ưu tú của dân
tộc, đất nước; những danh nhân trên mọi lĩnh vực, những người có công với dân với nước:
Thánh Trần Hưng Đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh, những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Điều đó thể hiện đạo lý truyền thống: “uống nước
nhớ nguồn - ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc. Ngoài vui chơi giải trí, những người lOMoAR cPSD| 60860503
đi dự hội đều mơ hồ cảm thấy và tin rằng mình thu nhân được những điều may mắn, tốt
lành từ các đấng siêu nhiên vô hình mà họ tôn vinh, thờ cúng. Thứ “quyền lợi tinh thần đó”
trở thành niềm tin, động lực trợ giúp họ trong quá trình hoạt động kế tiếp, vì vậy điều đó
cũng trở thành yếu tố để con người ta dù ở đâu, vị trí nào cũng không quên lễ hội, đến với
lễ hội ngày một đông hơn.
1.3.2. Lễ hội giúp con người trở về với cội nguồn và đánh thức cội nguồn.
Dù ở đâu, trong lễ hội nào, những hoạt động diễn ra trong lễ hội đều nhằm ôn lại
quá khứ của một địa phương, một cộng đồng cư dân. Những hoạt động đó nhằm nhắc lại
vai trò, công lao của thánh thần, của các bậc tiền nhân. Đó cũng là cội nguồn của tự nhiên,
đất nước, xóm làng và cội nguồn của cả hệ thống tôn giáo tín ngưỡng truyền thống. Hoạt
động lễ hội là hoạt động văn hóa mang tính tưởng niệm hưởng về những sự kiện và nhân
vật lịch sử được dân chúng địa phương thời cũng Trong lễ hội truyền thống, đạo lý. “uống
nước nhớ nguồn - ăn quả nhớ người trồng cây” được dịp thế hiện. Nó trở thành nền tảng
cơ sở để giáo dục chân, thiện, nay cho quảng đại quần chúng nhân dân, nhắc nhở các thể
hệ con cháu ôn lại truyền thống của cha ông, nhờ cơm các bậc tiền nhân đã có công với
dân với nước, với địa phương, quê hương mình.
1.3.3. Lễ hội góp phần giữ gìn, bảo lưu và phát triển những truyền thống tốt đẹp
của quê hương, dân tộc:
Lễ hội chính là một hình thức “diễn xướng dân gian mà ở đó bảo lưu các phong tục
tập quán, lối sống, nhiếp sống. Các nghi thức, trình tự, nội dung và những hình thức diễn
xưởng trong các lễ hội mang đặc trưng văn hóa dân tộc vừa hàm chứa các nét đặc sắc của
yếu tố bản địa, mang sắc thái địa phương, vùng miền. Phong tục tập quán của mỗi địa
phương thể hiện nhịp điệu của cuộc sống xã hội, lễ hội truyền thống chính là một phần của nhịp điệu ấy.
Muốn nghiên cứu về lễ hội truyền thống với tư cách một thành tố đặc sắc của văn
hóa dân gian, phải đặt nó trong môi trường này sinh ra nó. Môi trường đã sản sinh, nuôi
dưỡng và sử dụng nó trong suốt chiều dài lịch sử. Môi trường của lễ hội truyền thống Việt
Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở
đó các yếu tố văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hóa truyền
thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch
sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó là hệ quả của cả quá trình lịch
sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là tỉnh hoa được đúc rút, kiểm chứng
và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào.
1.3.4. Lễ hội góp phần cố kết và nâng cao các mối quan hệ trong xã hội.
Văn hóa Việt Nam có nết chủ đạo là văn hóa cộng đóng, yếu tố cộng đồng thể hiện
và biểu hiện trong mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó, hoạt động lễ hội thể hiện rõ nét
nhất mối quan hệ giữa các cá nhân với cá nhiên, cá nhân với cộng đồng, cộng đồng này với lOMoAR cPSD| 60860503
công đồng khác... Những mối quan hệ này được xác lập, cùng cố, nở rộng và hoàn thiện
trong suốt quá trình phát triển. Dưới chế độ cũ, lễ giáo phong kiến luôn ràng buộc com
người với những lề luật chặt chẽ, khắt khe, đặc biệt trong mối quan hệ giới tính “nam nữ
thụ thụ bất thân”, lễ hội chính là dịp giao hiếu, giao hảo giữa các địa phương với nhau. Họ
đã sát cánh, chung sức bên nhau khi khó khăn, hoạn nạn và giờ đây họ cũng bên nhau khi
vui chơi, hội hè. Điều đó thể hiện quan hệ: “Đồng cam, cộng khổ - Chia ngọt, xẻ bùi” trong
đạo lý và văn hóa Việt. Lễ hội đã làm cho quá trình giao lưu văn hóa giữa các địa phương,
vùng miền tồn tại và phát triển, đặc biệt sự giao lưu kinh tế cũng được khai thông, mở rộng
và phát triển ở nhiều lễ hội trong giai đoạn hiện nay.
1.3.5. Lễ hội còn là dịp vui chơi giải trí, thu nạp năng lượng cho cuộc sống mới
Lễ hội là những thời điểm đánh dấu mốc thời gian của quá trình kết thúc và tái sinh:
kết thúc một chu trình sản xuất và sinh hoạt, bắt đầu một chu trình sản xuất và sinh hoạt
mới. Đây là dịp để cho mọi người vui chơi giải trí, thu nạp năng lượng, bù đắp những thiếu
hụt trong quá trình vận động và phát triển, bắt đầu tái tạo cuộc sống mới với chất và lượng
mới. Trong lễ hội có nhiều trò chơi dành cho mọi tầng lớp dân cư vui chơi giải trí, lễ hội
chính là thời điểm mà ở đó đông đảo các tầng lớp nhân dân dành thời gian nhàn rỗi, tiền
bạc của mình cho quá trình vui chơi, giao thoa với môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội, giải tỏa những ức chế tâm lý nảy sinh trong công việc, trong cuộc sống thường nhật.
Mỗi kỳ lễ hội là dịp nghỉ ngơi sau những tháng ngày mùa vụ bận rộn, vất vả. Đây là dịp
gặp gỡ, đón tiếp và giao lưu với những người bà con, họ hàng, giữa những người hàng xóm
láng giềng nhưng quanh năm lam lũ: “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Đây cũng là dịp
những người dân lao động được giao thoa với những người anh em, bạn hữu trong rừng
vùng, từng khu vực, họ được “chơi” với nhau trong những ngày hội. Lễ hội còn là dịp cho
những người con xa quê về gặp gỡ bà con, anh em, họ
hàng... sau những tháng ngày bươn chải kiếm sống nơi “đất khách, quê người” [2, tr37-52].
2. Khái quát chung về lễ hội đình Quảng Bá
Lễ hội đình Quảng Bá diễn ra tại đình Quảng Bá thuộc làng Quảng Bá, quận Tây
Hồ, Hà Nội) vào ngày 9/2 đến hết ngày 12/2 Âm lịch, chính hội là ngày 11/2.
Đình Quảng Bá thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Cuối thế kỷ VIII, anh hùng
dân tộc Phùng Hưng khởi nghĩa từ Đường Lâm, đem quân về vây hãm Tống Bình. Ngài
từng đóng quân tại làng Quảng Bá, nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố
Hà Nội. Sau khi mất, dân làng tôn Ngài làm thành hoàng làng, tổ chức hội để tưởng nhớ
công ơn to lớn của Ngài.
Hiện nay trên đất nước có nhiều đền thờ ngài được xây dựng lên ở nhiều nơi, mà
trong đó có đình Quảng Bá. Đình Quảng Bá có niên đại khởi dựng khá sớm, tồn tại đến
nay đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Lần trùng tu lớn nhất vào năm Bảo Đại thứ 11, tức năm 1936. lOMoAR cPSD| 60860503 Tiểu kết:
Từ xưa đến nay lễ hội truyền thống đã là dịp vui chơi giải trí của người dân văn hóa
nông nghiệp, thường diễn ra vào thời điểm mùa xuân, góp phần cố kết và nâng cao các mối
quan hệ trong xã hội. Không chỉ vậy, với truyền thống thờ thành hoàng làng là những vị
anh hùng dân tộc có công với đất nước, lễ hội là dịp tưởng nhớ, tạ ơn và cầu nguyện của
đông đảo quần chúng nhân dân đối với đối tượng họ thờ cúng. Nếu như phải làm việc
quanh năm, không có thời gian đi lễ đền chùa, thì dịp làng có hội chính là lúc họ tạm thời
gác công việc lại và vui chơi giải trí.
Trở về thời kỳ Bắc thuộc đen tối do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Đường,
người Việt đã nhiều lần nổi dậy chống lại ách đô hộ của phương Bắc. Tiêu biểu nhất là các
cuộc nổi dậy của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (776-
791) và Dương Thanh (819-820), song đều thất bại. Người dân mến phục Bố Cái
Đại Vương đã dựng nhiều đền thờ trên đất nước để tưởng nhớ công ơn ngài, cho đến nay
đình Quảng Bá vẫn là nơi thờ tự nổi tiếng trên thủ đô Hà Nội với các lễ hội diễn ra hằng năm.
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LỄ HỘI ĐÌNH LÀNG QUẢNG BÁ
1. Thời gian – địa điểm
Thực tế theo chương trình lễ hội tháng hai năm Ất Tỵ, tức là tháng 3 - 2025 theo
Dương lịch, lễ hội đình Quảng Bá bắt đầu diễn ra từ ngày 9/2 đến 12/2 Âm lịch. Tuy nhiên
bởi vì ngày 9/2 chủ yếu là thời gian lắp kiệu chuẩn bị không gian lễ hội, và làm lễ cáo yết
mở cửa đình nên chưa có nhiều du khách đến dự hội.
Lễ hội chủ yếu diễn ra tại không gian đình Quảng Bá, thôn Quảng Bá, phường Quảng
An, quận Tây Hồ thành phố Hà Nội. Trong thời gian diễn ra lễ hội, đặc biệt là ngày 11/2,
đình sẽ tiến hành rước nước từ đình ra chùa Hoằng Ân và từ chùa trở về đình. Trải qua
nhiều thời gian, lễ hội đình Quảng Bá tuy đã lược bỏ nhiều chi tiết nhưng vẫn thực hiện
vào đúng ngày, là lễ hội truyền thống quan trọng thể hiện lòng biết ơn của con dân đối với
thành hoàng làng và là dịp vui chơi giải trí của người dân và du khách.
2. Lịch sử đình Quảng Bá 2.1 Truyền thuyết về Bố Cái Đại Vương:
Phùng Hưng (chữ Hán: 馮興; ? – 791) là thủ lĩnh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ An
Nam của nhà Đường ở Việt Nam thời Bắc thuộc lần thứ ba (602-905), đuổi được người
phương Bắc và cầm quyền cai trị một thời gian. Họ “Phùng” là một họ không quá xa lạ của
người Việt, nhưng cũng có thể hiểu là ngựa đi nhanh, cái tên “Hưng” có nghĩa là dấy lên,
tên của Ngài có thể hiểu là cưỡi ngựa khởi nghĩa chống lại quân thù.
Về sau, nhân dân suy tôn gọi Ngài là “Bố Cái Phu Hựu Chương Tín Sùng Nghĩa Đại
Vương” mà ngày nay thường được gọi tắt là “Bố Cái Đại Vương”. Tôn hiệu phổ biến của lOMoAR cPSD| 60860503
Phùng Hưng, Bố Cái Đại Vương (布盖大王), được coi là một trong những trường hợp sử
dụng chữ Nôm bản địa cổ nhất còn lưu truyền. Hiện tại vẫn còn nhiều tranh cãi trong nước
và ngoài nước về ý nghĩa thật sự của hai chữ “Bố Cái”, nhưng hầu hết nhà nghiên cứu Việt
Nam đều cho rằng hai chữ này nghĩa là “bố mẹ” mà dân sử dụng để nói bóng về thành hoàng làng của mình.
Năm Đại Lịch thứ hai đời Đường Đại Tông có giặc Côn Lôn và Chà Và vào quấy
nhiễu. Quan kinh lược sử nhà Đường là Trương Bá Nghi chỉ còn biết giữ thành chờ cứu
viện. Vua Đường sai Cao Chính Bình đem quân sang đánh tan giặc ở Cửu Chân, sau đó y
được giữ chức Đô hộ An Nam. Cao Chính Bình ỷ thế ra sức tàn sát, cướp bóc, vơ vét của
cải của dân ta, khiến người người đều căm giận. Nhân cơ hội đó khoảng những năm 766
779, Phùng Hưng cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh hiệu triệu dân Việt nổi lên chống nhà Đường.
Theo cuốn “Các triều đại Việt Nam” do Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng biên soạn,
Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi Cự tộc, Hào trưởng Đường Lâm, nay thuộc thành phố
Hà Nội. Vì được dân sẵn lòng mến phục nên khi Phùng Hưng trương cờ dấy nghĩa mưu
việc lớn, nhân dân theo về rất đông. Chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân lên tới vài
vạn người. Quân giặc không đương nổi những cuộc công phá sấm sét phải tháo chạy. Phùng
Hưng xưng là Đô Tổng chia quân đi trấn giữ những vùng hiểm yếu. Cao Chính Bình đem
quân đàn áp nhưng chưa thắng bại. Khi tiến công, khi thế thủ, cuộc chiến diễn ra hơn chục
năm. Sau một thời gian dài xây dựng lực lượng, Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải,
Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần chia làm năm đạo bất ngờ vây đánh thành Tống
Bình. Cao Chính Bình đem bốn vạn quân ra nghênh chiến. Sau bảy ngày đêm xung sát,
quân giặc núng thế phải rút vào thành cố thủ. Nghĩa quân thừa thắng hò reo bủa vây khắp
bốn mặt thành. Thấy quân mình chết nhiều, Cao Chính Bình lo sợ phát ốm rồi chết. Phùng
Hưng chiếm lĩnh thành trì, vào phủ đô hộ điều khiển việc nước được bảy năm thì mất. Con
trai ngài là Phùng An lên nối ngôi, thể theo lòng ái mộ của nhân dân tôn cha là Bố Cái Đại
Vương. Phùng An nối nghiệp được hai năm thì bị vua Đường cử
Triệu Xương đem quân sang đánh phải đầu hàng. [3, tr57-58]
Phùng Hưng mất nhân dân không nguôi nhớ tiếc Ngài. Truyền thuyết dân gian kể
lại rằng: Phùng Hưng rất hay hiển linh. Ông thường hiện hình giúp dân lúc hoạn nạn. Dân
làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Sau này, Phùng Hưng cũng hiển
linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Vì vậy, Ngô Quyền cho lập đền
thờ Ngài. Cho đến bây giờ trên đất nước có nhiều đền thờ được xây dựng lên ở nhiều nơi,
mà trong đó có đình Quảng Bá (Hà Nội), Triều Khúc (Hà Nội), Đại Ứng, Phương Trung,
Hoạch An (Thanh Oai, Hà Nội)...
2.2 Lịch sử đình Quảng Bá lOMoAR cPSD| 60860503
Để ghi nhớ công lao của Phùng Hưng, nhân dân một số làng nằm trên tuyến đường
tiến quân vào bao vây trại giặc của nghĩa quân Đường Lâm đã lập đền thờ Bố Cái Đại
Vương và tôn ông làm thành hoàng làng, trong đó làng Quảng Bá là đại bản doanh của
Phùng Hưng khi tiến đánh thành Tống Bình để tiêu diệt quân nhà Đường.
Xưa kia Quảng Bá có tên chữ là “Quảng Bố” nhưng vì kiêng húy thành hoàng làng
nên đọc chệch là Quảng Bá. Trước đây đình Quảng Bá không nằm bên cạnh đường Tô
Ngọc Vân, mà nằm ở bán đảo Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Nhưng do thế
đất không thuận, trong làng thường xảy ra chuyện dữ, trai đinh thường hung hãn, nên dân
làng nhờ thầy địa lý xem thế đất và dựng lại ngôi đình trên địa điểm hiện nay. Tương truyền
Phùng Hưng rất hay hiện hình giúp đỡ người dân, thậm chí còn có người kể lại rằng Ngài
từng hiển linh giúp Ngô Quyền đánh giặc. Người dân cho là linh thiêng, lập rất nhiều đình
đền thờ phụng Ngài, cho đến nay trên thành phố Hà Nội có tất cả là 16 điểm thờ Bố Cái
Đại Vương Phùng Hưng, trong đó có đình làng Quảng Bá.
Hiện nay tại Đình Quảng Bá còn lưu giữ bộ sưu tập di vật có giá trị về lịch sử nghệ
thuật như: một bản thần phả chữ Hán, 16 đạo sắc phong thần, trong đó sắc có niên đại sớm
nhất năm Cảnh Trị thứ sáu (1670), sắc có niên đại muộn nhất là năm Khải Định thứ chín (1924).
Theo ban tổ chức, trong năm nay nhà nước sẽ cung cấp một khoản tiền để hỗ trợ tu
sửa lại đình. Mỗi dịp Tết đến xuân về đình cũng nhận được từ du khách ghé thăm một
lượng tiền công đức, nhờ đó có thể tu bổ cơ sở thờ tự vững chắc để người dân thực hiện
các hoạt động tín ngưỡng.
2.3 Lịch sử lễ hội đình Quảng Bá
Theo ông Ngô Văn Thi, người dân làng Quảng Bá, lễ hội đình Quảng Bá được tổ
chức mỗi năm hai lần, cho đến nay vẫn giữ được truyền thống và không thay đổi nhiều.
Hội chính bắt đầu diễn ra từ ngày 9/2 đến 11/2 Âm lịch, ba năm mới rước một lần.
Lễ hội đình Quảng Bá là một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất tại quận Tây
Hồ, không chỉ có dân làng đến dự mà còn có cả du khách đến từ khắp nơi trên đất nước tới
tham dự nên được tổ chức rất long trọng. Mỗi khi tổ chức lễ hội ở các điểm thờ tự này
người ở nơi thờ tự khác cũng đến hỗ trợ thực hiện nghi lễ. Tuy nhiên so với những năm
trước, lễ hội đình Quảng Bá năm nay đã được tối giản, có thể lược bỏ một chút phần hội
nếu thời tiết không tốt để đảm bảo phần tế lễ.
3. Quy trình lễ hội đình Quảng Bá
Ngày 9/2 Ất Tỵ (8/3/2025)
Trước ngày mồng 8 tháng 3, ban tổ chức đã chuẩn bị xong nhân lực, đội ngũ nhân
sự thực hiện việc tế lễ và phân công công việc. Đây cũng là ngày diễn ra nhiều nghi thức
tế lễ truyền thống nhất trong suốt thời gian diễn ra lễ hội. lOMoAR cPSD| 60860503
Từ 8 giờ sáng, sau khi công tác chuẩn bị đã xong người chủ tế tiến hành lễ cáo yết
xin phép thần linh cho dân làng tiến hành mở lễ hội theo thông lệ hàng năm. Nếu như trước
đây phải dán thông báo viết tay ở đầu làng, đình làng và các di tích liên quan thì bây giờ
đình làng Quảng Bá đã sử dụng giấy in to rõ và đẹp trên đường vào di tích. Ban tế lễ gồm
các bô lão trong làng thực hiện nghi thức dâng hương. Lễ vật dâng bao gồm gà, xôi, rượu,
hoa quả, trầu cau, hương nến,... đồ tế lễ đơn giản mà trang trọng. Lục cúng gồm đầy đủ
hương, hoa, đăng, trà, quả, thực. Thành phần tham dự lễ cáo yết gồm những người trong
ban tổ chức, ban khánh tiết của lễ hội.
Sau lễ cáo yết, người trong ban tổ chức tiến hành bao sái trong ngoài cung, tháo cửa
đình, bày kiệu sắc, kiệu rước phật đình, chấp kính, tán tầu ra sân đình. Họ kê bàn ghế hai
văn chỉ, lau bụi bẩn bám trên đó trước khi làm lễ. Cuối cùng là làm lễ yên vị, nhà chùa
cùng các phật tử tụng kinh cầu an tại đình.
Buổi tối ngày mùng 9 tháng 2 Âm lịch tổ bảo vệ sẽ túc trực ở đình. Trong ngày này
di tích sẽ thắp đèn và mở cửa di tích suốt cho đến ngày tổ chức lễ hội.
Ngày 10/2 Ất Tỵ (9/3/2025)
Sau khi làm lễ mộc dục, chủ tế và các bô lão trong làng mặc trang phục truyền thống
thực hiện lễ dâng hương bia Bác Hồ và đài liệt sĩ phường. Cùng lúc đó nhân dân sẽ dâng
hương. Giống như các lễ hội truyền thống khác, người được chọn để tắm cho thần phải
sạch sẽ, chay tịnh, bịt miệng bằng khăn điều; nơi tắm tượng phải kín đáo nằm trong hậu
cung, thần điện, là nơi ngự của Thần mà người ngoài không được xâm phạm vào thời khắc này.
Sau khi thụ lộc xong, lần lượt là ban tế nữ, họ Trần và các dòng họ khác dâng hương.
Trong lễ hội có các hoạt động trò chơi đã được đưa vào phần hội, khoảng 15 giờ chiều
người dân có thể tham gia giao lưu đá cầu, cầu lông.
Các dòng họ có thể dâng hương đến 19 giờ tối để ngày mai có thể tiếp tục chương trình lễ hội.
Ngày 11/2 Ất Tỵ (10/3/2025)
Khoảng 7 giờ sáng là thời gian đón tiếp đại biểu, trống hội vang lên dồn dập. Sau
khi giới thiệu đại biểu là lúc đọc diễn văn khai mạc lễ hội. Đây được coi là ngày hội chính
quan trọng nhất tập trung rất nhiều người dân cũng như du khách nước ngoài đến tham dự.
Lễ rước nước trong lễ hội truyền thống là một hành động thị phạm của nghi thức
cầu mưa, cầu nước cho sản xuất và sinh hoạt của cư dân trên khắp mọi miền đất nước
Theo truyền thống sẽ rước nước từ đình ra chùa và từ chùa về đình. Đoàn rước rất
đông đảo, rước sắc vua ban, ba chiếc ngai thờ không rước mà để yên vị tại hậu cung. Sắc
tế trong long đình có hai lọng và tám tán đi quanh rất tôn nghiêm. Mở đầu là đội múa sư tử lOMoAR cPSD| 60860503
và múa rồng, sư tử đi có tính dẹp đường còn rồng thì lượn quanh long đình. Tôn sự uy
nghiêm còn có đoàn mang một bộ chấp kích, một trường kiếm, ba đoản kiếm đi hộ vệ. Tất
cả đoàn đều chít khăn đỏ, áo nẹp, quần trắng, thắt lưng xanh chỉnh tế đẹp mắt. Còn có ba
đội thiếu nữ múa sênh tiền quần áo lóng lánh kim tuyến và một đội đi sau kiệu rước sắc.
Theo lời ban tổ chức lễ hội, trong đoàn người chỉ có các cô giáo mầm non chưa lấy chồng,
mới được tham gia đoàn rước nước. Các già và vãi áo nâu dân dã, các ông bao gồm 16
người mặc áo phụng xanh. Riêng vị chủ tế và bồi tế thì áo đỏ, các cụ bà khoảng 30 người
trong đội tế áo vàng khăn vàng. Ngoài ra còn có người dân đi theo đoàn rước tạo nên không khí náo nhiệt.
Mặc dù chỉ là rước tượng trưng cho lễ phát du, song đoàn rước vẫn thực hiện nghiêm
túc quy trình rước kiệu đến chùa. Đoàn người đi theo hướng từ đình ra đường Tô Ngọc
Vân, rẽ vào đường Xuân Diệu rồi đi đường Đặng Thai Mai vào chùa Hoằng Ân. Khi đến
chùa Hoằng Ân, các sư chùa và đội tế lễ thực hiện nghi lễ bên trong, còn người dân và ban
tế nữ cùng nhảy múa vui chơi ngoài sân.
So với đường đi thì đường về đơn giản hơn nhiều, đoàn người chỉ cần ra phố Quảng
Bá về đình. Về đến đình, đại biểu sẽ cùng dân làng cùng thụ lộc.
Theo lịch trình, vào khoảng 14 giờ chiều, phần hội sẽ bắt đầu bằng việc giao lưu
bóng chuyền hơi. Tuy nhiên do thời tiết không tốt nên năm nay đã bị hủy bỏ, chỉ thực hiện phần lễ.
Ngày 12/2 Ất Tỵ (11/3/2025):
Bắt đầu ngày 12 tháng 2 Âm lịch là lễ tế giã. Lễ tế giã có ý nghĩa tạ ơn thần linh đã
phù hộ và báo cáo kết thúc lễ hội với sự tham gia của của bô lão và người dân trong làng,
chủ lễ sẽ dâng hương và đọc văn tế.
Sau khi bế mạc lễ hội, người trong ban tổ chức sẽ tiến hành thu cất kiệu và lắp cửa đình.
Ngày cuối cùng của lễ hội nhân dân đến dâng hương và kết thúc bằng các tiết mục văn nghệ đặc sắc.
4. Ý nghĩa lễ hội đình làng Quảng Bá
Tổng chi là dân ta tin rằng: Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, cảnh thổ nào phải có
Thần Hoàng ấy, vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày sự thần một
thịnh. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến
Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi.
Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn, đại xuyên, triều đình
lập miếu thờ thần sơn xuyên ấy để làm chủ tể cho việc ấm tỉ một phương mà thôi. Kế sau
triều đình tỉnh biểu những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, lOMoAR cPSD| 60860503
thì cũng lập đến cho dân xã ở gần dâu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ
nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình. Làng nào có sẵn người anh hùng
hào kiệt mất đi rồi thì thờ ngay người ấy, làng nào không có thì đi cầu lấy một vị thần linh
khác rước về nhà thờ. Hoặc nơi thì nhân việc mộng mị, việc bói khoa, việc tá khẩu, tin là
một sự linh dị mà thờ. Hoặc nơi thì vì một sự ngẫu nhiên, cho là thiêng liêng mà xin duệ
hiệu để thờ. Té ra làng nào cũng có đền, xã nào cũng có miếu. Đến cả những xã mới lập,
trước hết cũng nghĩ ngay đến việc thờ thần.
Trong cuốn Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính có viết: Mỗi làng phụng sự một
vị Thần Hoàng, có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm, bảy vị tục gọi là Phúc thần. Cũng
theo Phan Kế Bính, Thượng Đẳng Thần cũng có thể là những vị anh hùng dân tộc “khi
sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công
trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích
công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng
thần
”. Như vậy, Bố Cái Đại Vương - Phùng Hưng chính là vị Thượng Đẳng Thần mà làng
Quảng Bá thờ phụng, là tín ngưỡng của dân làng trong suốt bao năm qua. Ngài là vị thủ
lĩnh đã đứng lên chống lại ách đô hộ của nhà Đường, tuy nhiên không may vào phủ đô hộ
điều khiển việc nước được một thời gian ngắn thì mất.
Thiết tưởng chỉ những miếu trung thần nghĩa sĩ và miếu những bậc đại anh hùng
hào kiệt, thì mới đáng nên thờ. Mà thờ thì là để tỏ cái lòng kỷ niệm, chớ không phải thờ
mà cầu phúc [3, tr80]. Cho nên lễ hội truyền thống còn là dịp để người dân vui chơi giải trí,
có lễ thì phải có hội, là thời điểm mà ở đó đông đảo các tầng lớp nhân dân dành thời gian
nhàn rỗi, tiền bạc của mình cho quá trình vui chơi, giao thoa với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội, giải tỏa những ức chế tâm lý nảy sinh trong công việc, trong cuộc sống
thường nhật. Đây cũng là dịp những người dân lao động được giao thoa với những người
anh em, bạn hữu trong rừng vùng, từng khu vực, họ được “chơi” với nhau trong những ngày hội.
Tiểu kết: Mặc dù nằm giữa quận Tây Hồ tấp nập với những dịch vụ vui chơi hiện đại, đình
Quảng Bá vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống. Hằng năm cứ đến tháng Hai Âm
lịch, ban quản lý di tích và tổ chức lại bận rộn với việc tổ chức lễ hội. Đây là dịp để con
dân thờ phụng Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng và du khách thập phương về đình cùng thụ
lộc và tham gia lễ hội. KẾT LUẬN
Cho đến trước Cách mạng tháng Tám, dưới cái áo khoác tín ngưỡng đời này qua đời
khác hội đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, đã ăn nhập vào ký ức thâm
sâu của dân tộc. Song hiện nay trong điều kiện xã hội mới số phận của ngày hội lại có phần
bấp bênh, những ngày hội mà hiện nay ta tổ chức ra phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu của
quần chúng [5, tr58] Mặc dù không có nhiều lễ hội truyền thống như vùng văn hóa xứ Kinh
Bắc, nhưng ở thủ đô Hà Nội vẫn có thể bắt gặp những lễ hội đầy màu sắc vào các dịp trong