



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
1. Giai đoạn 1858 – 1883 (Hiệp ước Hác – Măng) (Bí)
* Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhà Nguyễn - Tình hình bên trong:
+ Nhà Nguyễn được hình thành dựa trên nội chiến, kẻ thắng dựa vào thế lực ngoại bang
--> khách quan đi ngược lại nguyện vọng và quyền lợi dân tộc.
+ Xã hội thời nhà Nguyễn: đa dạng, phức tạp, tự mâu thuẫn (giữa cái tiến bộ >< bảo
thủ, lạc hậu; giữa cái mạnh >< cái yếu,...)
+ Về kinh tế: thuế ruộng đất cao, lơi thuộc về giai cấp thống trị.
+ Về công thương nghiệp: phát triển dưới thời Triều Gia Long và Minh mạng, Minh
Mạng và Tự Đức (sức ép chính trị, quân sự của phương Tây) chưa có chính sách tốt để
phát triển công thương nghiệp chủ yếu là đóng cửa và chỉ cho thuyền đin thăm dò tin tức hay vì giao thương.
+ Về tình hình chính trị - xã hội:
Quyết tâm xây dựng Nhà nước phong kiến tập quyền, chuyên chế.
Sự trả thù thái quá của nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn, giết hại công thần, chia rẽ
hoàng tộc,...--> tình hình đất nước rối ren.
Nhiều cuộc xung đột diễn ra dẫn đến phong trào nông dân khởi nghĩa: khởi nghĩa Phan
Bá Vành, sự nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833-1836),...
+ Về quân sự: coi trọng binh bị, lạc hậu và hạn chế về vũ khí chiến đấu.
+ Về văn hóa tư tưởng: Tống Nho được coi là hệ tư tưởng chính thống, vua và quan nhà
Nguyễn đều coi nó là hệ quy chiếu duy nhất.
--> 3 vấn đề tư tưởng nhà Nguyễn cần giải quyết: Chính đạo hay Tà đạo (Nho giáo hay
Thiên Chúa giáo), Chiến hay Hòa (đánh Pháp hay đầu hàng), Duy tân hay Thủ cựu (ủng hộ cải cách hay không). - Tình hình bên ngoài:
+ Nhiều thế lực xung đột mưu toan chống đối như Tạ Văn Phụng 1861-1865,... lOMoAR cPSD| 22014077
+ Âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. - Nguyên nhân:
+ Nguyên nhân gián tiếp: lấy cớ giải cứu và bảo vệ các giáo sĩ ở An Nam và “sứ mệnh khai hóa văn minh”.
+ Nguyên nhân trực tiếp: Pháp muốn bành trướng thuộc địa và xâm chiếm thị trường. - Diễn biến:
+ Ngày 1/9/1858 rạng sáng quân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng tại bán đảo Sơn Trà mở
đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam.
+ Tại Sơn Trà nhanh chống bị Pháp chiếm đóng, sau đó là tới đồn An Hải và Điện Hải
bị vỡ,...Nguyên nhân là quân ta chiến đấu với vũ khí lạc hậu và không được luyện tập thường xuyên.
+ Danh tướng Nguyễn Tri Phương chặn Pháp từ Hải Châu tới Thạch Giản trong 5 tháng,
Pháp tiêu hao và bị dịch bệnh hoành hành. Pháp chuyển hướng xuống mặt trận Nam Kỳ
và để lại một lực lượng nhỏ ở bán đảo Sơn Trà.
+ Ngày 23/3/1860 Đà Nẵng được giải phóng sau 1 năm 6 tháng 22 ngày bị giặc chiếm.
--> Lý do chọn Đà Nẵng mở đầu xâm lược: Đà Nẵng có vị trí quân sự quan trọng, hải
cản rộng và sâu thuận tiện cho tàu chiến. Đối với Pháp, Đà Nẵng là cổ họng của Huế,
cách 100km về phía Nam (mưu đồ chiếm Đà Nẵng rồi chiếm Huế).
* Cuộc kháng chiến ở Nam Kỳ:
• Lý do Pháp chuyển hướng đánh Nam Kỳ:
+ Thứ nhất, Nam Kỳ là vùng kinh tế giàu có, nhiều lúa gạo, có khả năng xuất khẩu.
+ Thứ hai, lực lượng quân chính quy của triểu đình ở đây mỏng hơn.
+ Thứ ba, từ Nam Kỳ có thể chiếm Cao Miên, ngược sông Mê Công lên Vân Nam (Trung Quốc)
+ Thứ tư, đánh Nam Kỳ sẽ ít gặp sự phản ứng của nhà Thanh, lại vừa có
thể đề phòng quân Anh khi họ đã chiếm được Hương Cảng, Xingapo. lOMoAR cPSD| 22014077 • Diễn biến:
- 9/2/1859 quân giặc đến Vũng Tàu
- 10/2/1859 tấn công dọc sông Cần Giờ vào Gia Định
- 16 và 17/2/1859 Gionuiy chiếm Gia Định
- 23/2/1861 Sacne đánh thẳng vào Đại Đồn (2 ngày sau Đại Đồn bị san phẳng)
- 12/4 chiếm Định Tường, 18/12 chiếm Biên Hòa, 23/3/1862 chiếm thành Vĩnh Long.
- 25/6/1862 Bonard thay Sacne, thiết lập chế độ Soái phủ ở Nam Kỳ (chế độ thuộc địa)
--> Bonard muốn tạm dừng để củng cố vị trí vì sức kháng cự mạnh mẽ
của dân chúng và mặc khác Pháp đang sa lầy vào Mehico.
- 5/6/1862 ký Hiệp ước Nhâm Tuất gồm 12 điều khoản --> Hiệp ước là bước
đầu của sự đầu hàng của triều đình Tự Đức.
- Pháp tiếp tục chiếm 3 tỉnh miền tây: 20/6/1867 chiếm Vĩnh Long, 21/6 chiếm
An Giang và 24/6 chiếm Hà Tiên.
- 15/10/1867 ký bản dự thảo hiệp ước gồm 14 điều khoản (Lưu ý bản hiệp ước
này là sự bổ sung cho 12 điều khoản trên).
* Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc và Trung Kỳ, phong trào kháng chiến lan rộng racả nước:
• Nguyên do: đánh Bắc Kỳ ít nhất cũng buộc triều đình Huế phải thừa nhận thực
sự về pháp lý của chủ quyền của nước Pháp ở 3 tỉnh miền Tây. • Diễn biến:
+ 5/11/1873 đại úy F.Garnier hội quân với G.Duypuy ở Hà Nội
+ 20/11/1873 Pháp tấn công trên sông Hồng, thành Hà Nội thất thủ sau
một giờ chiến đấu. Tướng Nguyễn Tri Phương bị thương và bị bắt.
+ 21/12/1873 quân ta khiêu khích và bố trí mai phục ở tuyến Cầu Giấy,
Gacnie rơi vào phục kích và bị tiêu diệt.
+ 15/3/1874 Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường ký bản Hiệp ước Giáp Tuất
tại Gia Định với Đuypre. lOMoAR cPSD| 22014077
* Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Sự sụp đổ của Nhà nước phongkiến Việt Nam:
- Năm 1880 vua Tự Đức bổ nhiệm Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà - Ninh.
- 26/03/1882 đại tá H.Rivie kéo quân tới sông Hồng.
- 5 giờ sáng 25/4/1882 Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi triệt thoái quân đội
- 12/3/1883 quân Pháo chiếm Hồng Gai, 27/3 hạ thành Nam Định.
- Sáng 19/5/1883 Rive tiến về phía Cầu Giấy và bị quân ta bao vây giết chết.
- 19/7/1883 vua Tự Đức qua đời, Pháp đánh thẳng vào Huế.
- Sau 4 ngày, 22/8/1833 vua Hiệp Hà đầu hàng Pháp.
- 25/8/1883 ký Hiệp ước Harmand giữa Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp
vớiHarmand và De Champeaux.
--> Hiệp ước 27 điều khoản, khiến Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp hoàn toàn.
- Tháng 5/1884 Patenotre có mặt tại Huế, ngày 6/6/1884 hoàn thiện văn bản
Harmand.Patenotre buộc triều đình ký thêm văn bản với 19 điều khoản --> xóa những
quyền lực còn lại của Việt Nam --> trở thành thuộc địa hoàn toàn.
- 8/1884 Pháp nhờ lợi thế quân số và trang bị nên đã thắng lớn trên chiến trường BắcKỳ.
* Kết quả Pháp xâm lược Việt Nam:
- Quân ta đã bại trận trước Pháp từ Nam ra Bắc và ngược lại.
- Việt Nam ở thành thuộc địa của Pháp. * Nhìn nhận vấn đề:
- Ngay từ đầu quân ta đã bại trận trước Pháp về vấn đề trang bị, vũ khí thô sơ.
- Vua Tự Đức luôn trong trạng thái nghị hòa thay vì chống trả quyết liệt.
- Quân ta có thể đẩy quân địch ra khỏi Gia Định nhưng lại chọn cách “thủ hiểm” chứkhông đánh úp. lOMoAR cPSD| 22014077
- Tất các bản hiệp ước mà triều đình ký với Pháp đều mang xu hướng đầu hàng,
luônnhượng bộ cho Pháp nhiều lợi thế từ kinh tế đến chính trị và đặc biệt là văn hóa
(Pháp được tự do truyền đạo vào Việt Nam).
- Nhiều tướng giỏi đã hi sinh vì chiến đấu oanh liệt và vì không chấp nhập các bảnhiệp
ước với Pháp nên đã dùng cách tự tử. * Tư tưởng Canh tân Đất nước (đã làm)
2. Giai đoạn 1883 – 1896 (CHÂN CHÂN)
- Phong trào Cần Vương * Nguyên nhân -
Nguyên nhân sâu xa: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp ngày
cànggay gắt. Sau khi cơ bản hoàn thành quá trình xâm lược vũ trang ở Việt Nam
(18581884) và đối với thực dân Pháp, việc ký Hiệp ước Patơnôt ngày 6-6-1884 đã chấm
dứt giai đoạn xâm lược ngót 30 năm. Nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn còn
âm ỉ trong hoàn cảnh mới. Thực dân Pháp mới chỉ xác lập được quyền lực ở trung ương,
còn phần lớn các địa phương ở xứ Bắc và Trung Kỳ chúng chưa thể nắm được. Vì thế,
thực dân Pháp còn phải trải qua giai đoạn 12 năm mà chúng gọi là giai đoạn bình định,
đàn áp các phong trào vũ trang cuối cùng (Tiến trình lịch sử VN, tr 222) -
Nguyên nhân trực tiếp: Tôn Thất thuyết và Trần Xuân Soạn chia làm 2 đạo quân
tấncông vào tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá. Nhưng do sự chuẩn bị chưa đầy đủ nên khi
quân pháp phản công, quân ta bị động, thiệt hại rất lớn và thất bại. Tôn Thất thuyết đã
đưa vua Hàm Nghi rời kinh thành chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, ngày
13 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần
Vương lần thứ nhất. Để tránh sự truy lùng, Tôn Thất thuyết lại đưa hàm nhi vượt qua
đất lào đến sơn phòng Ấu Sơn (Hương Khê, Hà Tĩnh). Tại đây hàm nghi lại xuống
chiếu cần vương lần hai ngày 20 tháng 9 năm 1885 (Đại cương LSVN tập 2, tr 66 – 67) * Lãnh đạo phong trào -
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân ta ở khắp nơi, dưới sự lãnh đạo của bác
sĩphu văn thân yêu nước, đã sôi nổi đứng lên chống Pháp. lOMoAR cPSD| 22014077 -
Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Cần Vương không phải là các võ quan triều Nguyễn
nhưtrong thời kì đầu chống pháp, mà là các sĩ phu văn thân yêu nước có chung một nỗi
đau mất nước với quần chúng lao động, nên đã tự nguyện đứng về phía nhân dân chống Pháp xâm lược. * Diễn biến
Phong trào Cần Vương bùng nổ từ sau sử biến kinh thành Huế vào đầu tháng 7 năm
1885 và phát triển qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (1885 – 1888) -
Lúc đầu, “triều đình hàm nghi” với sự phò tá của 2 người con Tôn Thất thuyết
là TônThất đạm và Tôn Thất thiệp,… di chuyển và chiến đấu ở vùng núi rừng Quảng
Bình; sau phải vượt Trường Sơn, qua đất hạ Lào đến vùng sơn phòng Ấu Sơn. Để chiến
đấu lâu dài, Tôn Thất thuyết và Trần Xuân Soạn quyết định vượt vòng vây để xây dựng
lực lượng kháng chiến ở Thanh Hóa, rồi qua TQ. -
Tháng 12 năm 1886, theo lệnh Toàn quyền P. Bert, Đồng Khánh xuống vụ kêu
hàng,nhưng không một ai trong triều định Hàm Nghi chịu buông súng. Ngược lại, chưa
bao giờ cả nước ta lại có nhiều cuộc khởi nghĩa đến như thế dưới ngọn cờ Cần Vương. -
Phong trào bùng nổ rầm rộ, địa bàn có phong trào mở rộng trên phóng viên cả
nướcở Trung Kỳ từ thanh hóa, Nghệ An trở vào đến Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bình
Định. Tiêu biểu là cái cuộc khởi nghĩa ở các địa phương sau:
+ Ở Bình Định có phong trào của Mai Xuân thưởng. Sau gần 2 năm tồn tại, đến tháng
sáu năm 1887 phong trào bị đàn áp thất bại, Mai Xuân thưởng bị giết. Cùng nổi dậy với
ông còn có Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận, Đào Doãn Dịch, Nguyễn Duy Cung.
+ Ở Quảng Nam tiêu biểu là các phong trào của Trần Văn Dự, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Thanh Phiến.
+ Ở Quảng Ngãi có phong trào của Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân.
+ Ở Quảng Trị có Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như. lOMoAR cPSD| 22014077
+ Ở Quảng Bình điển hình là phong trào của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân. Lê Trực
từng là Đề đốc Hà Nội, từng xây dựng căn cứ kháng Pháp và hoạt động mạnh ở vùng
thượng lưu sông Gianh. Nguyễn Phạm Tuân cũng là một đội quân đồng tới 1000 người,
tổ chức đánh Pháp ở miền sông Gianh.
… (Đại cương LSVN tập 2, tr 69)
- Tại Bắc Kỳ có phong trào của Đề đốc Tạ Hiện (Thái Bình), Nguyễn Thiện Thuật(Hải Dương)
…(Đại cương LSVN tập 2, tr 69)
- Tới cuối năm 1888, sự kiện phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị
bắt(11/1888), sự kiện này gây tâm lý hoang mang trong hàng ngũ các sĩ phu văn thân yêu nước.
Giai đoạn 2 (1888 – 1896)
- Đêm ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi vì giặc bắt do sự phản bọn của Trương
QuangNgọc tại vùng núi Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình. Ông bị đầy đi Algeria.
- Ở giai đoạn này không còn sự chỉ đạo của triều đình kháng chiến. Nhưng phong
tràovẫn tiếp tục phát triển quyết liệt, quy tụ dần vào một số trung tâm lớn như Hương
Sơn - Hương Khê ở Hà Tĩnh, Ba Đình - Hùng Lĩnh ở Thanh Hóa, Bãi Sậy - Hai Sông (Hải Dương - Hưng Yên)
- Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892) (Đại cương LSVN tập 2, tr 70)
+ Trong thời kỳ đầu (1883 – 1885), phong trào do Đinh Gia Quế lãnh đạo, địa bàn hoạt
động lúc này còn giới hạn ở vùng Bãi Sậy (bao gồm địa phận các huyện Văn Lâm, Văn
Giang, Khoái Châu, Yên Mĩ tỉnh Hưng Yên). Từ 1885 trở đi, vai trò lãnh đạo thuộc về
Nguyễn Thiện Thuật. Ông là lãnh đạo cao nhất của nghĩa quân Bãi Sậy
+ Địa bàn hoạt động của nghĩa quân Bãi Sậy mở rộng khắp 2 tỉnh Hưng Yên, Hải
Dương và một phần các tỉnh Bắc Ninh, Hải Phòng, Quảng Yên. Nếu quân có 2 căn cứ
lớn là Bãi Sậy (căn cứ chính, Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy) và Hai Sông (Nguyễn Đức Hiệu chỉ huy) lOMoAR cPSD| 22014077
+ Nghĩa quân Bãi Sậy không tổ chức thành những đội quân lớn, mà phương tán thành
các đội quy mô nhỏ hoạt động rải rác khắp nơi. Nghĩa quân dự vào các lũy tre làng, đào
hào đắp lũy, tổ chức chống giặc càn quét và bảo vệ lực lượng.
+ Bên cạnh sự giúp đở của nhân dân, nghĩa quân còn chủ động chuẩn bị về lương thực
bằng cách tham gia sản xuất với nông dân, hoặc tổ chức canh tác riêng.
+ Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị là chính. Ngoài những vũ khí thô sơ, nghĩa quân
còn sản xuất được loại súng theo mẫu súng của quân Pháp.
+ Phương thức tác chiến cơ bản là đánh du kích, lấy ít địch nhiều, lấy vũ khí thô sơ
chống lại vũ khí hiện đại của địch. Nghĩa quân thường lợi dụng yếu tố bất ngờ để tổ
chức những chuẩn tập kích chớp nhoáng, hoặc phục kích chặn đường giao thông tiếp tế
và vận tải của địch.
+ Từ cuối năm 1888 đến đầu năm 1889, nghĩa quân còn tổ chức đánh thắng địch nhiều
trận, các hoạt động vũ trang cùng nghĩa quân chẳng những trực tiếp tiêu hao sinh lực
địch, mà còn làm cho chính quyền tay sai vô cùng hoảng sợ.
+ Từ cuối năm 1886 sang đầu năm 1889, thực dân Pháp tập trung lực lượng bao vây
tiêu diệt nghĩa quân Bãi Sậy. Nghĩa quân đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng lực lượng
ngày càng giảm sút và rơi dần vào thế bị bao vây cô lập. Nguyễn Thiện Thuật giao
quyền lại cho em và một số tướng lĩnh khác rồi trốn sang TQ.
+Sau những tổn thất nặng nề, phong trào khám phá vùng Hưng Yên, Hải Dương bị giảm
sút rõ rệt, nhưng vẫn còn duy trì thêm một thời gian nữa. Đến năm 1892, khi vị thủ lĩnh
cuối cùng của phong trào bãi sậy là Đốc Vinh bị giết, lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy
mới tan rã hẳn. Nguyễn Thiện Kế trước đó cũng bị pháp bắt và đày đi Côn Đảo.
=> Đây là một cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của nhân dân đồng bằng Bắc Bộ cuối thế
kỷ 19. Cuộc khởi nghĩa đã để lại nhiều bài học bổ ích, nhất là về phương thức hoạt động
và các hình thức tác chiến (du kích) của nghĩa quân ở một vùng đồng bằng rất hẹp, người đông.
- Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) (Đại cương LSVN tập 2, tr 74) lOMoAR cPSD| 22014077
+ Trung tâm khánh chiến Ba Đình là giai đoạn mở đầu của phong trào chống Pháp ở
Thanh Hóa. Cuộc khởi nghĩa này có ý nghĩa to lớn về mặt nghệ thuật xây dựng chiến tuyến phòng ngự.
+ Người có công đầu trong việc xây dựng phong trào là Trần Xuân Soạn, bên cạnh đó
còn có nhiều thủ lĩnh như: Nguyễn Đôn Tiết, Tôn Thất Hàm, Tống Duy Tân,…
+ Hai trung tâm kháng chiến lớn là Ba Đình (Nga Sơn) và Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc)
+ Đứng đầu căn cứ Ba Đình là Phạm Bành và Đinh Công Tráng
+ Nhờ tinh thần yêu nước và sự đóng góp của nhân dân, chỉ trong vòng một tháng, căn
cứ Ba Đình đã được xây đắp xong
+ Căn cứ thứ hai là Cao Mã do Hà Văn Mao đứng đầu
+ Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ
+ Hoạt động chủ yếu của nghĩa quân là chẳng đánh các đoàn xe vận tải của địch và tập
kích các toán lính hành quân qua căn cứ. Lúc đầu, thực dân pháp còn coi thường, nhưng
về sau do bị tấn công liên tiếp nên bắt đầu tìm cách đối phó.
+ Ngày 6/1/1887, Brissaud đã huy động khoảng 2500 quân chia làm ba mũi đánh vào
căn cứ với sự yểm trợ của pháo binh. Trước sức kháng cự quyết liệt của nghĩa quân,
phương pháp bị chặn lại trước hàng rào tre xung quanh căn cứ.
+ Ngày 15/1/1887, Brissaud hạ lệnh tổng tấn công căn cứ. Quân địch lấy dầu phun lửa
đốt cháy lũy tre, cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ.
+ Trước sức mạnh áp đảo của quân pháp, nghĩa quân ngày càng bị hao tổn và cô lập.
Biết không giữ được căn cứ Ba Đình, nghĩa quân rút lui về căn cứ cao mãi vào đêm 20/1/1887
+ Ngày 2/2/1887, chúng tiến vào căn cứ Cao Mã. Các thủ lĩnh Nguyễn Khế, Hoàng Bật
Đạt hi sinh. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát. Trần Xuân Soạn tìm đường sang
TQ. Đinh công tráng vẫn chủ trương tiếp tục xây dựng lại phong trào kháng chiến nhưng
bị pháp bắt và giết hại. lOMoAR cPSD| 22014077
=> Cuộc khởi nghĩa đã thất bại. Thất bại của cuộc khởi nghĩa bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, trực tiếp là do chiến thuật bị động phòng ngự, với việc lập cứ điểm cố thủ của
nghĩa quân Ba Đình. Khởi nghĩa Ba Đình được coi là điển hình của lối đánh chiến tuyến
cố định. Với chiến thuật này, nghĩa quân Ba Đình có khả năng tập trung lực lượng để
đánh những trận lớn. Tuy nhiên, căn cứ 3 đình cũng bộc lộ nhiều nhược điểm, do nằm
vào thế bị động đối phó, dễ dàng bị cô lập khi bị đối phương bao vây hoặc tấn công.
- Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 – 1892) (Đại cương LSVN tập 2, tr 77)
+ Sau khi căn cứ Ba Đình thất thủ, ở Thanh Hóa lại hình thành một trung tâm khánh
chiến thứ hai tại Hùng Lĩnh nằm ở thượng nguồn sông Mã, thuộc huyện Vĩnh Lộc.
+ Lãnh đạo khởi nghĩa Hùng Lĩnh là Tống Duy Tân và Cao Điển
+ Ngoài căn cứ chính ở Hùng Lĩnh, nghĩa quân còn mở rộng địa bàn hoạt động lên tận
vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã, phối hợp với Đốc Ngữ, Đề Kiều ở hạ lưu sông Đà,
và Phan Đình Phùng ở Hương Khê (Hà Tĩnh)
+ Về tổ chức, nghĩa quân xây dựng ở mỗi huyện một cơ lính khoảng 200 người, lấy tên
huyện để đặt tên cho đơn vị, như Tống Thanh Cơ (Nga Sơn – Thanh Hóa)
+ Trong hai năm 1889 – 1890, nghĩa quân hoạt động có hiệu quả, đã tổ chức tấn công
quân Pháp nhiều trận, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đầu năm 1889, nghĩa quân giành
thắng lớn ở Vân Đồn (Nông Cống). Vào tháng 10 cùng năm, nghĩa quân lại tổ chức
đánh lui hai trận càn của địch vào căn cứ Vân Đồn
+ Trước những ảnh hưởng to lớn của nghĩa quân, thực dân Pháp chủ trương tăng cường
lực lượng truy quét dập tắt phong trào. Nghĩa quân phải chuyển lên hoạt động ở miền Tây Bắc Thanh Hóa
+ 3/1890, địch tiếp tục truy quét nhằm tiêu diệt nghĩa quân. Địa bàn hoạt động bị thu
hẹp dần. Lực lượng ngày càng sa sút.
+ 10/1892, Tống Duy Tân bị Pháp bắt, và sau đó bị xử tử. Còn Cao Điển phải trốn ra
Bắc, định tiếp tục tham gia kháng chiến với nghĩa quân Yên Thế. Nhưng vừa tới Bắc
Giang, chưa bắt được liên lạc với Hoàng Hoa Thám thì đã bị Pháp bắt (1/1896) lOMoAR cPSD| 22014077
=> Khởi nghĩa Hùng Lĩnh thất bại. Ở Thanh Hóa lúc này chỉ còn cánh quân của Cầm
Bá Thước đang hoạt động ở miền Tây. Năm 1895, Cầm Bá Thước cũng bị bắt. Phong
trào vũ trang chống Pháp ở Thanh Hóa mới hoàn toàn tan rã
- Khởi nghĩa Hương Khê (1885 – 1895) (Đại cương LSVN tập 2, tr 79)
+ Đây là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất, kéo dài nhất phong trào Cần Vương thế kỉ XIX
+ Địa bàn hoạt động gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, trong đó
địa bàn chính là Nghệ An – Hà Tĩnh.
+ Cuộc khởi nghĩa phát triển qua hai thời kì: từ 1885 – 1888 là thời kì xây dựng và tổ
chức; từ 1889 – 1895 là những năm chiến đấu của nghĩa quân. Sau khi vua Hàm Nghi
xuống chiếu Cần Vương (7/1885), ở Hà Tĩnh đã bùng nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ
trang như khởi nghĩa của Lê Ninh, khởi nghĩa của Cao Thắng, khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Thuận,…
+ Trên cơ sở đó, Phan Đình Phùng đã tập hợp và phát triển thành một phong trào có
quy mô rộng lớn khắp 4 tỉnh bắc Trung Kì, với địa bàn chính ở Hương Khê, tồn tại suốt 10 năm liên tục
+ Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê là Phan Đình Phùng và Cao Thắng. Ngoài ra
còn có một số sĩ phu khác như Tiến sĩ Phan Trọng Mưu, Cử nhân Phan Quang Cư,…
+ Rõng rã suốt ba năm trời, dưới sự chỉ đạo của Cao Thắng, nghĩa quân đã ra sức xây
dựng các khu căn cứ và phát triển lực lượng, rèn đúc vũ khí
+ Dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng, nghĩa quân xây dựng thành 4 căn cứ lớn: căn
cứ Cồn Chùa (nơi cất giấu lương thực và rèn đúc vũ khí), căn cứ Thượng Bồng – Hạ
Bồng (căn cứ lớn nhất của nghĩa quân trong thời kì đầu), căn cứ Trùng Khê – Trí Khê
(căn cứ dự bị, có đường sang Lào, phòng khi bị địch bao vây), căn cứ Vụ Quang (căn
cứ lớn nhất của nghĩa quân vào những năm cuối cùng của cuộc khởi nghĩa)
+ Về tổ chức lực lượng, nghĩa quân Phan Đình Phùng chia thành 15 quân thứ được xây
dựng trên cơ sở các đơn vị hành chính. Trong 15 quân thứ trên, có 1 quân thứ trung tâm
đóng ở đại bản doanh, do Phan Đình Phùng trực tiếp chỉ huy. lOMoAR cPSD| 22014077
+ Số lương thực có được một phần cho nghĩa quân sử dụng, phần còn lại đưa lên căn
cứ cất giấu làm lương thực dự trữ
+ Về trang bị vũ khí, nghĩa quân thực hiện phương châm tự lực cánh sinh là chính. Tự
trang bị bằng các loại vũ khí thô sơ như giáo mác, đại đao, tướng Cao Thắng còn tổ
chức cướp súng giặc, rồi nghiên cứu chế tạo súng trường theo kiểu Pháp để trang bị cho nghĩa quân.
+ Về phương thức tác chiến, nghĩa quân dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở về hệ thống
công sự chằng chịt để tiến hành chiến tranh du kích. Đánh địch với nhiều hình thức
+ Cuối năm 1888, Phan Đình Phùng từ ngoài Bắc đã trở về Hà Tĩnh, cùng với Cao
Thắng trực tiếp lãnh đạo nghĩa quân
+ 9/1889, nghĩa quân do Phan Bá Niên chỉ huy đã đánh bại cuộc càn quét của địch
+ Nửa cuối năm 1890, nghĩa quân đã tổ chức hàng chục trận đánh đồn, phục kích, diệt
quân tăng viện và chống địch càn quét
+ Phối hợp với nghĩa quân Hà Tĩnh, nghĩa quân Nghệ An cũng hoạt động rất mạnh ở
vùng Cây Chanh, Quỳ Châu,…
+ Thực dân Pháp dần dần bình định được Hà Tĩnh và Nghệ An trong những năm 1891
– 1892, nhưng nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu quyết liệt
+ Sau nhiều cuộc càn quét, quân Pháp đã tạo nên thế bao vây nghĩa quân, một mặt tăng
cường càn quét, thu hẹp phạm vi hoạt động của nghĩa quân, thắt chặt vòng vây, mặt
khác cắt đứt đầu mối liên hệ giữa các quân thứ và giữa nghĩa quân và nhân dân.
+ 10/1893, Cao Thắng đem 1000 quân từ Ngàn Trươi tiến về Nghệ An. Trong trận tấn
công đồn Nu (Thanh Chương), Cao Thắng bị thương nặng, rồi hi sinh
+ Sau khi Cao Thắng hi sinh, lực lượng nghĩa quân càng bị giảm sút, nhưng vẫn cố gắng
chống trả lại các cuộc càn quét của địch. Tuy nhiên vẫn thất thủ và phải rút lên núi Quạt,
rồi núi Vụ Quang (Hương Khê)
+ 17/10/1894, nghĩa quân Phan Đình Phùng đánh thắng một trận lớn ở Vụ Quang. Ông
cho những quân lên tận nguồn sông chặt cây đóng kè chặn nước đầu nguồn lại và chuẩn lOMoAR cPSD| 22014077
bị sẵn nhiều cây gỗ lớn. Khi giặc vừa ra đến giữa dòng sông thì ông cho quân phá kè
trên nguồn. Nước đổ xuống ào ào, kéo theo những cây gỗ lớn. Quân địch phòng bị nước
cuốn bất ngờ, phần bìa gỗ lao vào người, lại bị nghĩa quân ở 2 bên bờ xông ra đánh
quyết liệt nên bị chết rất nhiều.
+ Lúc này, Nguyễn Thân đem 3000 quân bao vây và tiến công căn cứ Vụ Quang. Sau
một trận ác chiến, Phan Đình Phùng bị thương và đã hi sinh vào ngày 28/12/1895
+ Nghĩa quân Phan Đình Phùng hoàn toàn tan rã, đánh dấu sự thất bại chung của phong
trào đấu tranh vũ trang chống Pháp dưới danh nghĩa Cần Vương
=> Khởi nghĩa Phan Đình Phùng là đỉnh cao nhất trong phong trào Cần Vương chống
Pháp cuối thế kỉ XIX. Cuộc khởi nghĩa lan rộng trên địa bàn bốn tỉnh Thanh – Nghệ
Tĩnh – Bình, kéo dài suốt 10 năm. Nghĩa quân đã lập được nhiều chiến công, gây cho
địch những tổn thất nặng về người và vũ khí. Cuộc khởi nghĩa đã phát huy đến mức cao
nhất sự ủng hộ và những tiềm năng to lớn của nhân dân. Về quân sự, đã biết sử dụng
các phương thức tác chiến linh hoạt, phong phú, biết phát huy tính chủ động, sáng tạo
trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như trong khi giáp trận với kẻ thù.
Cuộc khởi nghĩa cuối cùng thất bại vì nhiều nguyên nhân, chủ yếu vì chưa liên kết, tập
hợp được lực lượng dân tộc trên quy mô rộng, tạo thành một phong trào toàn quốc. Đó
là những hạn chế của thời đại. của vai trò lãnh đạo phong trào.
* Mục tiêu của phong trào Cần Vương: đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân
tộc,khôi phục nền phong kiến độc lập
* Nguyên nhân phong trào Cần Vương thất bại
- Các nghĩa quân trong phong trào chưa có đường lối tư duy lãnh đạo đúng đắn, thiếu
sư liên kết với nhau, không có tổ chức - Kinh tế lạc hậu
- Vũ khí còn thô sơ, không thể kháng cự được với nhiều vũ khí hiện đại của Pháp.
- Lực lượng quân số quá chệnh lệnh.
- Các nghĩa quân còn non yếu, sự ủng hộ của nhân dân không được triển khai tích cực và rộng rãi lOMoAR cPSD| 22014077
- Nội bộ trong hàng ngũ lục đục, có tay sai dẫn đường nên các khởi nghĩa nhanh chóng bị đàn áp
- Một số thân hào tham gia kháng chiến hễ thất bại là đầu hàng, thiếu ý chí.
* Tầm vóc và ý nghĩa của phong trào: là phong trào yêu nước có quy mô rộng, thời gian
tồn tại lâu dài. Là phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại chế độ thuộc
địa và bảo vệ chủ quyền dân tộc trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX. Phong trào này đóng
góp quan trọng trong việc khơi dậy tinh thần yêu nước, khát khao độc lập, tự do và công
bằng cho nhân dân Việt Nam. Nó cũng đã tạo ra sự thức tỉnh của nhân dân Việt Nam,
tăng cường sự tự tin của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu cho độc lập và dân
chủ. Phong trào Cần Vương đã kết nối các cuộc khởi nghĩa khác nhau trên toàn quốc,
tạo ra sự thống nhất trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp. Mặc dù cuối cùng
phong trào này đã thất bại, nhưng nó đã khơi gợi tinh thần đấu tranh của nhân dân Việt
Nam, tạo ra những tiền đề cho các phong trào đấu tranh độc lập và dân chủ tiếp theo.
- Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913)
* Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, phong trào kháng chiến của nhân dân tanổ
ra từ đồng bằng, rồi lan dần lên trung du, miền núi. Trong hàng loạt cuộc nổi dậy của
nông dân cuối thế kỉ XIX, nổi bật nhất là phong trào nông dân Yên Thế
* Bối cảnh: Hiệp ước Harmand (1883) và Patenotre (1884) được kí kết, Nam Kỳ đãtrở
thành thuộc địa của Pháp và tiến hành xâm lược ở Bắc Kỳ. Tình hình suy sụp của
nông nghiệp VN dưới thời Nguyễn đã làm cho nông dân nhiều vùng đồng bằng miền
Bắc buộc phải bỏ làng mạc đi nơi khác kiếm sống, trong đó có một số người đã lên
Yên Thế. Từ giữa thế kỉ XIX, họ bắt đầu lập ra một số làng mạc và tổ chức làm ăn,
chống lại các thế lực đe dọa từ bên ngoài tới. Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi
chiếm đóng ra Bắc Kì, Yên Thế trở thành đối tượng bình định đầu tiên của chúng. Để
bảo vệ cuộc sống của mình, nông dân Yên Thế đã nổi dậy chống Pháp. * Nguyên nhân -
Nguyên nhân sâu xa: Chế độ phong kiến suy yếu, triều đình bị lệ thuộc vào Pháp
vàchưa thể chống cự lại sự thống trị của Pháp. Tinh thần yêu nước của người dân đã
thúc đẩy họ nổi dậy chống lại sự thống trị của thực dân Pháp. lOMoAR cPSD| 22014077 -
Nguyên nhân trực tiếp: Khi tình hình nông nghiệp suy sụp, cuộc sống trở nên
khókhăn họ đã đến vùng Yên Thế và vùng này trở thành đối tượng bình định đầu tiên
của thực dân Pháp khi chúng mở rộng phạm vi chiếm đóng ra Bắc Kỳ. Để bảo vệ cuộc
sống của mình thì nhân dân Yên Thế đã đúng dậy đấu tranh. Nông dân bị đàn áp về vấn đề ruộng đất.
* Lãnh đạo phong trào: đa số là nông dân, như Cả Dinh, Cả Huỳnh, Cai Cờ, Cả
Trọng(con Đề Thám). Nhưng người có công và đóng vai trò to lớn hơn cả là Lương
Văn Nắm (Đề Nắm) và tiếp đó là Hoàng Hoa Thám (Đề Thám).
* Phương thức tác chiến của nghĩa quân là đánh du kích, lấy ít đánh nhiều. Dựa vàođịa
hình hiểm trở và công sự dã chiến để đánh gần, đánh nhanh, rồi rút lui nhanh
* Địa bàn hoạt động: Căn cứ Yên Thế nằm ở phía Tây Bắc Giang, có diện tích 40 đến50
km2. Chủ yếu là đất đồi, cây cối rặm rạp, gò bụi um tùm. Từ đây có thể đi thông sang
Tam Đảo, Thái Nguyên, xuống Phúc Yên, Vĩnh Yên,... * Diễn biến:
- Phong trào của nông dân Yên Thế kéo dài khoảng gần 30 năm (từ năm 1884 – 1913).
Khởi nghĩa Yên Thế diễn ra qua 4 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (1884 – 1892); Giai
đoạn thứ hai (1893 – 1897); Giai đoạn thứ ba (1898 – 1908); Giai đoạn thứ tư (1909 – 1913):
Giai đoạn thứ nhất (1884 – 1892)
- Giai đoạn này, các toán nghĩa quân còn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự phối hợp vàchỉ
huy thống nhất, tuy nhiên vẫn hoạt động có hiệu quả: 11/1890, nghĩa quân Đề Thám
đã giành thắng lợi trong trận chống càn ở Cao Thượng; cuối t12/1890, ba lần quân
Pháp tấn công vào Hồ Chuối, nhưng cả ba lần đều bị nghĩa quân Đề Thám đánh bại.
Đến cuối năm 1891, nghĩa quân đã làm chủ hầu hết vùng Yên Bái, mở rộng hoạt động
sang cả Phủ Lạng Thương
- Cũng trong năm 1891, Pháp lại tấn công Hố Chuối, nghĩa quân Đề Thám rút lênĐồng
Hom. Tranh thủ thời cơ bao vây nghĩa quân lOMoAR cPSD| 22014077
- Nhằm ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, nghĩa quân đã lập một cụmcứ
điểm gồm 7 hệ thống công sư ở phía bắc Yên Thế do 7 thủ lĩnh chỉ huy, trong đó có
Đề Nắm, Đề Thám,…Lúc này, Đề Nắm là một trong những thủ lĩnh có uy tín nhất
trong nghĩa quân Yên Thế.
- 3/1892, Pháp huy động hơn 2200 quân tấn công căn cứ. Do tương quan lực
lượngchênh lệch, nghĩa quân phải rút khỏi căn cứ và suy yếu rõ. Một số thủ lĩnh ra
hàng, một số hi sinh trong đó có Đề Nắm bị giết vào tháng 4/1892
- Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ
lĩnhtối cao của nghĩa quân Yên Thế
Giai đoạn thứ hai (1893 – 1897)
- Sau khi Đề Thám hi sinh, Đề Thám đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào Yên Thế.
Số quân tuy có giảm, nhưng địa bàn hoạt động lại mở rộng hơn
- Năm 1894, nghĩa quân trở về Yên Thế tiến hành xây dựng lại căn cứ Hồ Chuối
- Tuy giành được một số thắng lợi nhưng lực lượng cũng suy yếu rõ rệt. Trong tìnhhình
đó, Đề Thám nhận thấy cần phải hòa hoãn với Pháp để củng cố lực lượng. Tháng
10/1894, cuộc thương lượng giữa Pháp và nghĩa quân Yên Thế kết thúc. Với kết quả
là Pháp rút khỏi Yên Thế, nghĩa quân sẽ kiểm soát các vùng Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ, Hữu Thượng.
- Tuy nhiên Pháp đã bội ước, lại tổ chức tấn công. Đề Thám phải chia nghĩa quânthành
những toán nhỏ phân tán trong rừng và làng mạc để tránh xung đột lớn.
- Trước sự truy lùng, vây quét ráo riết, lực lượng nghĩa quân suy yếu. Đề Thám xingiảng
hòa lần 2. Và thực dân Pháp cũng muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác
thuộc địa. Tháng 12/1897, hiệp ước hòa hoãn được kí kết với những điều kiện ràng
buộc chặt chẽ hơn như: Nghĩa quân giao nộp cho Pháp tất cả vũ khí và phải bãi binh.
Đề Thám tuy ngoài mặt thể hiện sự phục tùng nhưng bên trong vẫn âm thầm củng cố lực lượng.
Giai đoạn thứ ba (1898 – 1908) lOMoAR cPSD| 22014077
- Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa quân Yên Thế vẫn giữ vững tinh thần chiến đầu
- Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa quân vừa sản xuất tự túc lương ăn, vừa tăng cườngsắm
sửa vũ khí, ra sức luyện tập
- Đề Thám còn mở rộng quan hệ giao tiếp với các nhà yêu nước ở Bắc và Trung Kì
- Năm 1906, Phan Châu Trinh cũng lên Yên Thế gặp Đề Thám
- Đề Thám còn lập một căn cứ gọi là đồn Tú Nghệ dành cho các nghĩa sĩ miền Trungra huấn luyện quân sự
- Về phía Pháp, tạo mọi điều kiện cần thiết để đánh đòn quyết định vào căn cứ nghĩaquân Yên Thế
Giai đoạn thứ tư (1909 – 1913)
- Giữa năm 1908, xảy ra vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội có sự tham gia của Đề Thám
- 1/1909, dưới quyền chỉ huy của đại tá Bataille, khoảng 15000 quân cả Pháp và
Ngụytấn công Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ vừa chuyển dần xuống Phúc Yên,
Vĩnh Yên, Bắc Ninh, rồi rút sang Tam Đảo, Thái Nguyên
- Đến cuối năm 1909, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, một số người ra hàng. Đếnđây,
phong trào coi như đã thất bại về cơ bản
- 10/2/1913, Đề Thám bị giết hại tại một khu rừng. Sự kiện này đánh dấu sự thất bạihoàn
toàn của phong trào nông dân Yên Thế
=> Khởi nghĩa Yên Thế trước sau là một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân.
Trong quá trình tồn tại, phong trào phần nào đã kết hợp được yêu cầu độc lập dân tộc
với nguyện vọng dân chủ, bước đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nông dân.
Khởi nghĩa Yên thế là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông dân trong những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sự tồn tại bền bỉ, dẻo dai của phong trào đã nói lên
tiềm năng, ý chí và sức mạnh to lớn của nông dân. Nhưng nông dân chỉ có thể trở thành
lực lượng cách mạng thực sự khi được giai cấp tiên tiến dẫn đường. lOMoAR cPSD| 22014077 * Nguyên nhân thất bại
- Thiếu sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến và đường lối lãnh đạo đứng đắn
- Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám (chủ hòa) không hợp với nhiều nghĩa quân (chủchiến)
- Nhiều nghĩa quân đã bị trói buộc vào tình trạng tá điền không công gây ra sự rạn
nứttrong nội bộ của nghĩa quân
- Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lòng dân do đôi khi nghĩa quân vẫn cướp bóc,sách nhiễu dân chúng
- Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để giữ một vùng đất nhỏ độc lập với chínhquyền
Pháp, chỉ phù hợp với nông dân lưu tán cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn hút được
các thành phần xã hội khác ở Việt Nam lúc đó
- Thiếu cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó
- Tương quan lực lượng giữa nghĩa quân và Pháp chênh lệch quá lớn, vũ khí thô sơ * Ý nghĩa
- Là phong đấu tranh lớn nhất của nông dân cuối thế kỷ XIX.- Khẳng định truyền thống
yêu nước, tinh thần bất khuất của nhân dân
- Thể hiện ý chí, sức mạnh của nông dân.
- Góp phần làm chậm quá trình xâm lược và bình định của thực dân Pháp.
- Khởi nghĩa Yên Thế đã trở thành biểu tượng rực rỡ của lòng yêu nước, ý chí quậtcường
chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, đóng góp nhiều kinh nghiệm vào kho tàng lịch
sử quân sự Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật về chiến tranh du kích, xây dựng lực
lượng, căn cứ làng xã chiến đấu liên hoàn trên một địa bàn rộng khắp.
- Thể hiện khả năng cách mạng của giai cấp nông dân
3. Giai đoạn 1897 – 1918 (Kết thúc CTTG thứ nhất) (Chou Tứn)
- Tài liệu đã sử dụng:
+ Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập (Trương Hữu Quýnh - Chủ biên). lOMoAR cPSD| 22014077
+ Giáo trình lịch sử Việt Nam tập IV: Từ 1858 đến 1918 (Nguyễn Ngọc Cơ - Chủ biên).
+ Tiến trình lịch sử Việt Nam (Nguyễn Quang Ngọc - Chủ biên).
3.1. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 – 1914) a) Hoàn cảnh
- Hoàn thành bình định quân sự:
+ Sau khi cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 – 1896) do Phan Đình Phùng lãnh
đạo bị dập tắt, thực dân Pháp cơ bản hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam sau hơn 30 năm.
+ Thực dân Pháp bắt đầu thiết lập nền cai trị toàn diện nhằm khai thác tài nguyên
thiên nhiên và nhân lực phục vụ chính quốc.
- Bổ nhiệm Paul Doumer:
+ Ngày 22/3/1897, Paul Doumer (Bộ trưởng bộ tài chính) được cử làm Toàn quyền
Đông Dương, đại diện cao nhất của Pháp tại khu vực.
+ Doumer trình bày kế hoạch khai thác thuộc địa trong bản báo cáo gửi Bộ Hải quân Pháp, nhấn mạnh:
• Tập trung khai thác nhân lực và tài nguyên.
• Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác kinh tế.
• Đông Dương trở thành căn cứ mở rộng ảnh hưởng của Pháp tại Viễn Đông. - Nhu cầu tái thiết Pháp:
+ Sau chiến tranh Pháp – Phổ (1870 – 1871) và cuộc xâm lược Đông Dương, kinh tế Pháp bị kiệt quệ.
+ Đông Dương được coi là “con gà đẻ trứng vàng” nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách.
+ Pháp chịu thiệt hại nhiều về kinh tế trong công cuộc xâm lược và bình định Việt Nam.
=> Khai thác thuộc địa là mục tiêu chủ yếu của thực dân Pháp. lOMoAR cPSD| 22014077
=> Cần đẩy mạnh khai thác thuộc địa để bù đắp thiệt hại. -
Mục tiêu của thực dân Pháp khi tiến hành xâm lược Việt Nam là
mục tiêu kinhtế, để khai thác và bóc lột thuộc địa, tài nguyên thiên nhiên,
nhân lực để phục vụ cho chính quốc.
b) Nội dung chương trình khai thác thuộc địa đại quy mô lần thứ nhất của
thực dân Pháp ở Việt Nam trong những năm 1897 – 1914
* Quan điểm cai trị -
Việc thiết lập kỹ nghệ ở thuộc địa chỉ có thể được khuyến khích
giới hạn nókhông làm tổn hại gì cho kỹ nghệ ở chính quốc. Kỹ nghệ chính
quốc phải được bổ sung chứ không phải bị phá sản bởi kỹ nghệ thuộc địa.
=> Quan điểm thực dân rất rõ của giới cầm quyền Pháp ở Đông Dương: Các ngành
kỹ nghệ, công nghiệp ở thuộc địa không được phép phát triển hơn và cạnh tranh đối với
các ngành công nghiệp chính quốc. -
Quan điểm bao trùm của thực dân Pháp: thực dụng, vụ lợi và ích kỷ.
+ Thiết lập bộ máy chính quyền cai trị dân sự dựa trên hai học thuyết: chia để trị
và “dùng người Việt trị người Việt”.
+ Chia để trị: chia rẽ giữa 3 nước Đông Dương, chia rẽ Việt Nam thành 3 kỳ, chia
rẽ giữa các vùng trong 1 kỳ (giữa người thượng với người Kinh) ...
+ Dùng người Việt trị người Việt: được thực hiện bằng cách tận dụng tầng lớp vua
quan phong kiến và các địa chủ tay sai, biến họ thành công cụ đàn áp nhân dân.
+ Thực hiện chính sách “ngu dân” thông qua hạn chế phát triển giáo dục nhằm
ngăn chặn sự thức tỉnh dân tộc để dễ bề cai trị.
+ Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm: Triệt để khai thác, bóc lột về kinh tế.
+ Triệt để mọi sự kháng cự => Thiết lập bộ máy đàn áp dưới hình thức tăng cường
bộ máy quân sự, cảnh sát, và hệ thống nhà tù để trấn áp các phong trào yêu nước. • Chính trị