Lịch sử ngành ngoại giao - Lịch sử ngoại giao Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với một nền ngoại giao tinh tế và hiểnhách, trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại khác nhau từ Vua Hùng, An Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và thời đạiHồ Chí Minh.

Thông tin:
6 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lịch sử ngành ngoại giao - Lịch sử ngoại giao Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với một nền ngoại giao tinh tế và hiểnhách, trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại khác nhau từ Vua Hùng, An Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và thời đạiHồ Chí Minh.

73 37 lượt tải Tải xuống
TÓM TẮT LỊCH SỬ NGÀNH NGOẠI GIAO VIỆT NAM
Nguồn: Báo Thế giới và Việt Nam
1. Khái quát lịch sử ngoại giao Việt Nam
Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với một nền ngoại giao tinh tế và hiển
hách, trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại khác nhau từ Vua
Hùng, An Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và thời đại
Hồ Chí Minh. Nền ngoại giao mới Việt Nam ra đời cùng với việc thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945, do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu, nay là nước CHXHCN Việt Nam. Lịch sử ngoại giao Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh có thể chia làm 5 giai đoạn chính.
- Giai đoạn 1945-1946: Đây thời kỳ cực kỳ khó khăn của của đất nước
nói chung ngoại giao Việt Nam nói riêng. Nhà nước độc lập non trẻ đứng
trước vàn thử thách (chính quyền vừa ra đời, kinh tế đình đốn, ngân sách
trống rỗng, chưa được nước nào công nhận, thiên tai liên miên, đặc biệt 30
vạn thù trong, ngoài ra còn giặc ngoài). thể nói nước ta trong hoàn cảnh
ngàn cân treo sợi tóc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay
Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã thực
hiện những sách lược hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh hoạt:
lúc hoà với Tưởng, tập trung sức chống Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với
Pháp với việc kết Hiệp định bộ ngày 6 tháng Ba 1946 để đuổi Tưởng về
nước, góp phần giữ vững Nhà nước độc lập non trẻ.
- Giai đoạn 1947-1954: Ngoại giao phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoại giao đã phối hợp với chiến trường, đấu
tranh chính trị chủ động triển khai hoạt động quốc tế, tranh thủ đồng tình ủng hộ
của nhân dân thế giới, đặc biệt là hình thành liên minh chiến đấu với Lào,
Campuchia chống kẻ thù chung; xây dựng quan hệ với Thái Lan, Miến Điện,
Indonesia, Ấn Độ…Tranh thủ thuận lợi do thắng lợi của chiến dịch biên giới
đưa lại, ngoại giao đã thành công thúc đẩy thế giới công nhận thiết lập quan
hệ ngoại với Việt nam. Đầu năm 1950, lần đầu tiên chúng ta đã thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức với Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân
châu Á, Đông Âu. Các nước hội chủ nghĩa đã trở thành chỗ dựa quan trọng
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phối hợp với mặt trận quân sự, Việt
nam đã tham gia Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, buộc các nước lớn
công nhận các quyền dân tộc bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông
00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
about:blank
1/6
Dương, giải phóng được miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai
đoạn mới.
- Giai đoạn 1954-1975: Ngoại giao phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược:
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc.
Ngoại giao đã trở thành mặt trận, đánh vào hậu phương quốc tế của Mỹ, mở
rộng hậu phương quốc tế của Việt Nam, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới
rộng lớn, nòng cốt Liên Xô, Trung Quốc, các nước hội chủ nghĩa, các
nước Đông dương ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước. Đồng thời, ngoại giao
đã phối hợp với chiến trường, đấu tranh chính trị, tiến hành đàm phán và kết
Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình Việt Nam
(27/1/1973). Hiệp định Paris thắng lợi to lớn của ngoại giao Việt Nam, đã
buộc Mỹ các nước liên quan rủt quân khỏi Việt Nam, chấm dứt hoạt động
chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc bản của nhân dân Việt Nam. Đó
điều kiện cùng thuận lợi dẫn đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng
hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc.
- Giai đoạn 1975-1986: Đây thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục
phát triển kinh tế sau chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến
tranh, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhấtcác
nước tư bản chủ nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia,
các tổ chức quốc tế nhằm khôi phục phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt
Nam gia nhập Liên Hợp Quốc (9/1977), tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế
(6/1978), Hiệp ước hữu nghị Hợp tác với Liên (11/1978). Tuy nhiên,
thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước không dài, Việt Nam đã buộc phải đưa quân
vào Campuchia, giúp nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng bảo vệ
an ninh, chủ quyền quốc gia. Khôi phục lại tình đoàn kết chiến đấu giữa ba nước
Đông Dương. Đó là nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) dẫn đến chiến tranh biên giới
với Trung Quốc (2/1979) việc Trung Quốc, các nước phương Tây, ASEAN
bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam.
- Giai đoạn 1986 đến nay: Với Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(12/1986), Việt Nam đã khởi đầu công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, trong
đó có đường lối, chính sách đối ngoạihoạt động ngoại giao. Lợi ích cao nhất
của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này "giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển kinh tế-xã hội". Đó cũng mục tiêu bao trùm của chính sách
đối ngoại Việt Nam. Nghị quyết 13 của Bộ chính trị (5/19988) đã tạo ra bước
ngoặt trong đường lối chính sách đố ngoại Việt Nam. Các Đại hội tiếp theo từ
Đại hội VII(1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) đến Đại hội X (2006)
đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới đã từng bước đước bổ sung,
00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
about:blank
2/6
hoàn chỉnh. Đó là đưòng lối đối ngoại "độc lập tự chủ, hoà bình , hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực" ( Văn kiện Đại hội X). Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại trên
đã đang gặt hái được những thành công quan trọng ý nghĩa lịch sử. Với
việc rút hoàn toàn quân đội khỏi Cămpuchia, vấn đề Campuchía được giải
quyết, Việt Nam đã phá được bao vây, cấm vận không ngừng mở rộng quan
hệ quốc tế theo hướng đa dạng hoáđa phương hoá; bình thường hoá từng
bước xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với tất cả các nước lớn, các
nước công nghiệp phát triển (cho đến nay Việt Nam quan hệ ngoại giao với
172 nước, trong đó tất cả các nước lớn, quan hệ kinh tế với hơn 220 thị
trường nước ngoài thành viên của nhiều tổ chúc diến đàn quốc tế như
Liên hợp quốc (1977), Phong trào Không liên kết (1976), Tổ chức Pháp ngữ
(1986), ASEAN (1995). Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM (1996), Diền đàn hợp
tác kinh tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương APEC ,1998...); giải quyết ổn
thoả nhiều tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hoà
bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ nhiều ODA, FDI,
mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại giao đa phương. Các sự kiện
lớn của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần đây là : Việt Nam đã tổ chức
thành công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ 1997), Hội nghị cấp cao
ASEAN VII (1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Á-ÂU V ( 2004), Hội
nghị thượng đỉnh APEC 14 (2006) Việt Nam trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thưong Thế giới WTO (11/2006) , Hoa Kỳ dành cho Việt Nam quy
chế thương mại bình thường vĩnh viễn (11/2006); Năm Chủ tịch ASEAN 2020;
Việt Nam Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ
2020 – 2021…
Nguyên nhânbản của những thành tựu đối ngoại Việt Nam có đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá đa dạng hoá quan hệ. Chủ động tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam bạnđối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
2. Đặc điểm nổi bật của chính sách đối ngoại, ngoại giao Việt Nam
Chính sách đối ngoại ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
có những đặc điểm chính sau đây:
00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
about:blank
3/6
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam, là con đường giải phóng
đúng dắn phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam và xu thế thời đại.
tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa hội chỉ đạo nhận thức hành
động trong triển khai đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam.
- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường; đồng thời tăng cường đoàn kết quốc tế
và mở rộng hợp tác quốc tế.
Độc lập tự chủ thể hiện trong nhận thức, trong quyết sách thực hiện
đường lối, chính sách. Độc lập tự chủ, đảm bảo lợi ích chính đáng của dân tộc là
nguyên tắc nhiện vụ hàng đầu của ngoại giao Việt Nam. Sự giúp đỡ hợp tác
quốc tế là quan trọng.
Độc lập tchủ, tự lực tự cường, không nghĩa biệt lập với bên ngoài;
ngược lại trên cơ sở độc lập tự chủ, cần phải mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế,
xử lý đúng đắn các vấn đề liên quan giữa dân tộcthời đại, giữa Việt Nam
thế giới. Trong hoạt động đối ngoại chú ý vấn đề tập hợp lực lượng quốc tế, tạo
thêm thế lực. Mặt khác thành tựu đấu tranh xây dựng bảo vệ Tổ quốc của
Việt Nam, thúc đẩy thế giới tăng cường hợp tác với Việt Nam. Ngoài ra, tiếp
nhận sự giúp đỡ của quốc tế phải đi liền với làm nghĩa vụ quốc tế.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại.
Cách mạng tháng Mười Nga mở thời ra đại mới- thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước đầu
tiên đặt cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Sau chiến tranh thế giới
II, trên thế giới xuất hiện điều kiện thuận lợi cho các dân tộc phát huy sức mạnh
của mình, kết hợp với sự giúp đỡ quốc tế. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, Việt Nam đã kết hợp được sức mạnh dân tộc và thời đại. Đó chính
là một trong các nhân tố thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc.
Sức mạnh dân tộc tinh thần, truyền thống, lịch sử, quân sự, kinh tế, văn hóa,
trước hết là sức mạnh đoàn kết toàn dân. Sức mạnh thời đại là các xu thế như hoà
bình, hợp tác, phát triển. Cách mạng khoa KHCN, … toàn cầu hoá. Phải kết hợp
được sức mạnh dân tộc và thời đại trong sự nghiệp đổi mới.
- Xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước láng
giềng; quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn.
00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
about:blank
4/6
Việt Nam câu "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Láng giềng gần
liên quan chặt chẽ đến an ninhphát triển của Việt Nam nên quan hệ với láng
giềng luôn là hướng ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính
sách của chúng ta láng giềng thân thiện bình đẳng, hợp tác cùng lợi, tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Những bất đồng được giải quyết bằng thương lượng.
Trong thời đại toàn cầu hoá, Việt Nam chú trọng đẩy mạnh liên kết kinh tế quốc
tế, liên kết khu vực, duy trì phát triển quan hệ láng giềng ổn định. Việt Nam đẩy
mạnh hợp tác trong ASEAN, với các tam, tứ giác phát triển trong khu vưc….
Các nước lớn vai trò, vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế. Cho nên
quan hệ với nước lớn cũng ưu đối ngoại của Việt Nam. Chính vậy, Việt
Nam đã chú trọng phát triển quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn
Độ, với Liên minh châu Âu…
- Coi trọng phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh
tế, văn hoá ở các cấp, ở trung ương và địa phương.
Có kết hợp mới tạo sức mạnh tổng hợp. Đóquy luật của đấu tranh dựng
nước và giữ nước của Việt Nam. Bên cạnh kết hợp giữa các ngành, còn phải kết
hợp các binh chủng ngoại giao như: ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Đảng,
ngoại giao nhân dân.
- Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại
của Việt Nam.
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao hệ thống những nguyên lý, quan
điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới, thời đại, về đường lối quốc tế, chiến
lược, sách lược, chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ hiện
đại. tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Nội dung bản tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: các quyền dân tộc
bản; độc lập dân tộc chủ nghĩa hội; độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn
liền với đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; hòa bình, chống
chiến tranh; hữu nghị, hợp tác với láng giềng; coi trong quan hệ với các nước
lớn; ngoại giao một mặt trận. Ngoài tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để
lại phương pháp, phong cách nghệ thuật ngoại giao. Đó phương pháp: dự
báo nắm bắt thời cơ; ngoại giao tâm công; bất biến, ứng vạn biến. Phong
cách ngoại giao: tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; phong cách ứng xử linh hoạt;
phong cách nói giản dị, dễ cảm hoá thuyết phục; phong cách viết ngắn gọn,
00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
about:blank
5/6
hàm súc, dễ hiểu. Nghệ thuật: vận dụng nhuần nhuyễn năm cái biết ( Biết mình;
biết người; biết thời, biết thế; biết dừng biết biến); nhân nhượng nguyên
tắc; lợi dụng mâu thuẫn đối phương.
00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
about:blank
6/6
| 1/6

Preview text:

00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
TÓM TẮT LỊCH SỬ NGÀNH NGOẠI GIAO VIỆT NAM
Nguồn: Báo Thế giới và Việt Nam
1. Khái quát lịch sử ngoại giao Việt Nam
Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với một nền ngoại giao tinh tế và hiển
hách, trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại khác nhau từ Vua
Hùng, An Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và thời đại
Hồ Chí Minh. Nền ngoại giao mới Việt Nam ra đời cùng với việc thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945, do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu, nay là nước CHXHCN Việt Nam. Lịch sử ngoại giao Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh có thể chia làm 5 giai đoạn chính.
- Giai đoạn 1945-1946: Đây là thời kỳ cực kỳ khó khăn của của đất nước
nói chung và ngoại giao Việt Nam nói riêng. Nhà nước độc lập non trẻ đứng
trước vô vàn thử thách (chính quyền vừa ra đời, kinh tế đình đốn, ngân sách
trống rỗng, chưa được nước nào công nhận, thiên tai liên miên, đặc biệt là 30
vạn thù trong, ngoài ra còn có giặc ngoài). Có thể nói nước ta trong hoàn cảnh
ngàn cân treo sợi tóc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là
Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã thực
hiện những sách lược hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh hoạt:
lúc hoà với Tưởng, tập trung sức chống Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với
Pháp với việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng Ba 1946 để đuổi Tưởng về
nước, góp phần giữ vững Nhà nước độc lập non trẻ.
- Giai đoạn 1947-1954: Ngoại giao phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoại giao đã phối hợp với chiến trường, đấu
tranh chính trị chủ động triển khai hoạt động quốc tế, tranh thủ đồng tình ủng hộ
của nhân dân thế giới, đặc biệt là hình thành liên minh chiến đấu với Lào,
Campuchia chống kẻ thù chung; xây dựng quan hệ với Thái Lan, Miến Điện,
Indonesia, Ấn Độ…Tranh thủ thuận lợi do thắng lợi của chiến dịch biên giới
đưa lại, ngoại giao đã thành công thúc đẩy thế giới công nhận và thiết lập quan
hệ ngoại với Việt nam. Đầu năm 1950, lần đầu tiên chúng ta đã thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức với Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân ở
châu Á, Đông Âu. Các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành chỗ dựa quan trọng
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phối hợp với mặt trận quân sự, Việt
nam đã tham gia Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, buộc các nước lớn
công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông about:blank 1/6 00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
Dương, giải phóng được miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.
- Giai đoạn 1954-1975: Ngoại giao phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược:
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ngoại giao đã trở thành mặt trận, đánh vào hậu phương quốc tế của Mỹ, mở
rộng hậu phương quốc tế của Việt Nam, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới
rộng lớn, mà nòng cốt là Liên Xô, Trung Quốc, các nước Xã hội chủ nghĩa, các
nước Đông dương ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước. Đồng thời, ngoại giao
đã phối hợp với chiến trường, đấu tranh chính trị, tiến hành đàm phán và ký kết
Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam
(27/1/1973). Hiệp định Paris là thắng lợi to lớn của ngoại giao Việt Nam, đã
buộc Mỹ và các nước liên quan rủt quân khỏi Việt Nam, chấm dứt hoạt động
chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Đó là
điều kiện vô cùng thuận lợi dẫn đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng
hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc.
- Giai đoạn 1975-1986: Đây là thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục và
phát triển kinh tế sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến
tranh, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các
nước tư bản chủ nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia,
các tổ chức quốc tế nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt
Nam gia nhập Liên Hợp Quốc (9/1977), tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế
(6/1978), ký Hiệp ước hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô (11/1978). Tuy nhiên,
thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước không dài, Việt Nam đã buộc phải đưa quân
vào Campuchia, giúp nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng và bảo vệ
an ninh, chủ quyền quốc gia. Khôi phục lại tình đoàn kết chiến đấu giữa ba nước
Đông Dương. Đó là nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) dẫn đến chiến tranh biên giới
với Trung Quốc (2/1979) và việc Trung Quốc, các nước phương Tây, ASEAN
bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam.
- Giai đoạn 1986 đến nay: Với Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(12/1986), Việt Nam đã khởi đầu công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, trong
đó có đường lối, chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao. Lợi ích cao nhất
của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này là "giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển kinh tế-xã hội". Đó cũng là mục tiêu bao trùm của chính sách
đối ngoại Việt Nam. Nghị quyết 13 của Bộ chính trị (5/19988) đã tạo ra bước
ngoặt trong đường lối chính sách đố ngoại Việt Nam. Các Đại hội tiếp theo từ
Đại hội VII(1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) đến Đại hội X (2006)
đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới đã từng bước đước bổ sung, about:blank 2/6 00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
hoàn chỉnh. Đó là đưòng lối đối ngoại "độc lập tự chủ, hoà bình , hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực" ( Văn kiện Đại hội X). Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại trên
đã và đang gặt hái được những thành công quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Với
việc rút hoàn toàn quân đội khỏi Cămpuchia, vấn đề Campuchía được giải
quyết, Việt Nam đã phá được bao vây, cấm vận và không ngừng mở rộng quan
hệ quốc tế theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá; bình thường hoá và từng
bước xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với tất cả các nước lớn, các
nước công nghiệp phát triển (cho đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với
172 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị
trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chúc và diến đàn quốc tế như
Liên hợp quốc (1977), Phong trào Không liên kết (1976), Tổ chức Pháp ngữ
(1986), ASEAN (1995). Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM (1996), Diền đàn hợp
tác kinh tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương APEC ,1998...); giải quyết ổn
thoả nhiều tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hoà
bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ nhiều ODA, FDI,
mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại giao đa phương. Các sự kiện
lớn của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần đây là : Việt Nam đã tổ chức
thành công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ 1997), Hội nghị cấp cao
ASEAN VII (1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Á-ÂU V ( 2004), Hội
nghị thượng đỉnh APEC 14 (2006) … Việt Nam trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thưong Thế giới WTO (11/2006) , Hoa Kỳ dành cho Việt Nam quy
chế thương mại bình thường vĩnh viễn (11/2006); Năm Chủ tịch ASEAN 2020;
Việt Nam là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020 – 2021…
Nguyên nhân cơ bản của những thành tựu đối ngoại là Việt Nam có đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ. Chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
2. Đặc điểm nổi bật của chính sách đối ngoại, ngoại giao Việt Nam
Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
có những đặc điểm chính sau đây: about:blank 3/6 00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam, là con đường giải phóng
đúng dắn phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam và xu thế thời đại.
Tư tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội chỉ đạo nhận thức và hành
động trong triển khai đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam.
- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường; đồng thời tăng cường đoàn kết quốc tế
và mở rộng hợp tác quốc tế.
Độc lập tự chủ thể hiện trong nhận thức, trong quyết sách và thực hiện
đường lối, chính sách. Độc lập tự chủ, đảm bảo lợi ích chính đáng của dân tộc là
nguyên tắc và nhiện vụ hàng đầu của ngoại giao Việt Nam. Sự giúp đỡ hợp tác quốc tế là quan trọng.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, không có nghĩa là biệt lập với bên ngoài;
ngược lại trên cơ sở độc lập tự chủ, cần phải mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế,
xử lý đúng đắn các vấn đề liên quan giữa dân tộc và thời đại, giữa Việt Nam và
thế giới. Trong hoạt động đối ngoại chú ý vấn đề tập hợp lực lượng quốc tế, tạo
thêm thế và lực. Mặt khác thành tựu đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
Việt Nam, thúc đẩy thế giới tăng cường hợp tác với Việt Nam. Ngoài ra, tiếp
nhận sự giúp đỡ của quốc tế phải đi liền với làm nghĩa vụ quốc tế.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại.
Cách mạng tháng Mười Nga mở thời ra đại mới- thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước đầu
tiên đặt cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Sau chiến tranh thế giới
II, trên thế giới xuất hiện điều kiện thuận lợi cho các dân tộc phát huy sức mạnh
của mình, kết hợp với sự giúp đỡ quốc tế. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, Việt Nam đã kết hợp được sức mạnh dân tộc và thời đại. Đó chính
là một trong các nhân tố thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc.
Sức mạnh dân tộc là tinh thần, truyền thống, lịch sử, quân sự, kinh tế, văn hóa,
trước hết là sức mạnh đoàn kết toàn dân. Sức mạnh thời đại là các xu thế như hoà
bình, hợp tác, phát triển. Cách mạng khoa KHCN, … toàn cầu hoá. Phải kết hợp
được sức mạnh dân tộc và thời đại trong sự nghiệp đổi mới.
- Xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước láng
giềng; quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn. about:blank 4/6 00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
Việt Nam có câu "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Láng giềng gần
liên quan chặt chẽ đến an ninh và phát triển của Việt Nam nên quan hệ với láng
giềng luôn là hướng ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính
sách của chúng ta là láng giềng thân thiện bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau. Những bất đồng được giải quyết bằng thương lượng.
Trong thời đại toàn cầu hoá, Việt Nam chú trọng đẩy mạnh liên kết kinh tế quốc
tế, liên kết khu vực, duy trì phát triển quan hệ láng giềng ổn định. Việt Nam đẩy
mạnh hợp tác trong ASEAN, với các tam, tứ giác phát triển trong khu vưc….
Các nước lớn có vai trò, vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế. Cho nên
quan hệ với nước lớn cũng là ưu đối ngoại của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt
Nam đã chú trọng phát triển quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn
Độ, với Liên minh châu Âu…
- Coi trọng phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh
tế, văn hoá ở các cấp, ở trung ương và địa phương.
Có kết hợp mới tạo sức mạnh tổng hợp. Đó là quy luật của đấu tranh dựng
nước và giữ nước của Việt Nam. Bên cạnh kết hợp giữa các ngành, còn phải kết
hợp các binh chủng ngoại giao như: ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Đảng, ngoại giao nhân dân.
- Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là hệ thống những nguyên lý, quan
điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới, thời đại, về đường lối quốc tế, chiến
lược, sách lược, chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ hiện
đại. Tư tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Nội dung cơ bản tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: các quyền dân tộc cơ
bản; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn
liền với đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; hòa bình, chống
chiến tranh; hữu nghị, hợp tác với láng giềng; coi trong quan hệ với các nước
lớn; ngoại giao là một mặt trận. Ngoài tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để
lại phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Đó là phương pháp: dự
báo và nắm bắt thời cơ; ngoại giao tâm công; dĩ bất biến, ứng vạn biến. Phong
cách ngoại giao: tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; phong cách ứng xử linh hoạt;
phong cách nói giản dị, dễ cảm hoá và thuyết phục; phong cách viết ngắn gọn, about:blank 5/6 00:46 7/8/24
1631073490537 Lịch sử ngành ngoại giao
hàm súc, dễ hiểu. Nghệ thuật: vận dụng nhuần nhuyễn năm cái biết ( Biết mình;
biết người; biết thời, biết thế; biết dừng và biết biến); nhân nhượng có nguyên
tắc; lợi dụng mâu thuẫn đối phương. about:blank 6/6