







Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60776878
LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TIỀN TỆ TRÊN THẾ GIỚI:   
Lịch sử hình thành và phát triển của tiền tệ trải qua nhiều giai đoạn mà mỗi giai đoạn lại mang 
các đặc điểm khác nhau. 
Trong lịch sử phát triển của loài người, lúc đầu con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một 
cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân, chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có  tiền tệ. 
Tuy nhiên ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của của sự trao đổi. Lúc 
đầu trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị 
(tương đối) của một vật được xác định bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai  trò vật ngang giá. 
Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, hoạt động trao đổi diễn ra thường 
xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở rộng. 
Tham gia trao đổi bây giờ không phải là 2 loại hàng hóa mà là một loạt các loại hàng hóa khác 
nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với hình thái giá trị giản đơn.Phân công lao 
động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ 
các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau khi các người chủ của nó có 
ý cùng muốn trao đổi, ý muốn trùng khớp. Như vậy cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao 
đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho mâu thuẫn trong lao động, và phân hóa lao động 
ngày càng tăng. Do đó đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá 
chung tất ra từ tất cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó. 
Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai 
đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào trong 
những vùng khác nhau thì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá 
chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào. 
Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện thủ công nghiệp thoát khỏi nông nghiệp 
làm cho sản xuất hàng hóa phát triểnvà thị trường mở rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác 
dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị 
trường đòi hỏi phải thống nhất một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở 
một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó tất cả các loại hàng hóa được biểu hiện 
giá trị của nó trong một thứ hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung. 
Như vậy tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các hình thái  giá trị.      lOMoAR cPSD| 60776878
Khi nghiên cứu về quá trình hình thành của tiền tệ, C.Mác kết luận:“Trình bày nguồn gốc phát 
sinh của tiền tệ, nghĩa là phải khai triển cái biểu hiện của giá trị, biểu hiện bao hàm trong quan 
hệ giá trị của hàng hóa, từ hình thái ban đầu đơn giản nhất và ít thấy rõ nhất cho đến hình thái 
tiền tệ là hình thái mà ai nấy đều thấy”  - 
Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: 
Đây là hình thái phôi thai, ban đầu của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của sự trao đổi 
hàng hoá, khi đó việc trao đổi vẫn còn mang tính ngẫu nhiên nên người ta trao đổi trực tiếp vật  này lấy vật khác. 
Ví dụ : 1 con gà = 5 kg thóc  - 
Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: 
Khi sản xuất hàng hóa phát triển tiến thêm một bậc, số lượng hàng hóa của người dân có nhu 
cầu đem ra trao đổi nhiều hơn thì một hàng hóa có thể trao đổi được với nhiều hàng hóa 
khác. Đây là một phiên bản được nới rộng hơn của hình thái giá trị giản đơn Ví 
dụ: 1 con gà = 5 kg thóc = 15 kg khoai  - 
Hình thái chung của giá trị: 
Một khi trình độ sản xuất hàng hóa phát triển cao hơn, hàng hóa ngày càng đa dạng về chủng 
loại thì việc trao đổi trực tiếp sẽ trở nên không còn thực sự thích hợp. Đây chính là động lực 
thúc đẩy sự hình thành hình thái chung của giá trị. Ví dụ:  1 con gà  5 kg thóc  15 kg khoai  …   = 2 m vải 
Tuy rằng vậy, giữa các quốc gia hoặc các lãnh thổ khác nhau đều có thể có những quy ước khác 
nhau về vật ngang giá chung. Để khắc phục nhược điểm này, hình thái tiến bộ hơn được ra đời.  -  Hình thái tiền: 
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội có sự tiến triển hơn nữa, sản xuất hàng 
hóa và thị trường ngày càng được mở rộng thì sẽ xuất hiện nhiều mặt hàng làm vật ngang 
giá chung, làm cho trao đổi giữa các vùng gặp khó khăn hơn bao giờ hết. Do đó, điều này đòi 
hỏi cần phải có một vật ngang giá chung thống nhất giữa các vùng lãnh thổ. Và cuối cùng vàng 
được chỉ định trở thành vật ngang giá chung cho sự trao đổi hàng hóa. Vàng trở thành hình thái  tiền của giá trị.  7    Ví dụ:  1 con gà  5 kg thóc  15 kg khoai  2 m vải  …      lOMoAR cPSD| 60776878 = 0,2 gr vàng 
Tóm lại tiền tệ là một sản phẩm hình thành từ sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm 
của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn 
giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển 
của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa 
LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM: 
Tại Việt Nam, đồng tiền cũng không nằm ngoài xu hướng ra đời và phát triển chung của thế 
giới. Tuy nhiên, đồng tiền Việt Nam cũng có những cột mốc ra đời và phát triển riêng mang  nhiều nét đặc biệt. 
Dựa trên những thông tin, hiện vật đáng tin cậy và qua nghiên cứu. Các nhà khảo cổ cho rằng, 
điểm xuất phát của lịch sử tiền tệ Việt Nam được bắt đầu với sự xuất hiện của đồng tiền Thái 
Bình Hưng Bảo do vua Đinh Tiên Hoàng (968-979) cho đúc và lưu hành, đánh dấu sự lên ngôi 
trị vì của một nhà nước, quốc gia độc lập, tự chủ. Đây là mốc son của việc hình thành lịch sử 
văn hóa tiền tệ Việt Nam vì đó là những đồng tiền do chính nhà nước phong kiến Việt Nam đúc  và lưu hành. 
Từ thời điểm ấy, qua các thời kỳ lịch sử, đồng tiền Việt Nam đã trải qua một quá trình hình 
thành và phát triển dài lâu, hết sức phong phú, đa dạng. Đồng tiền kim loại đầu tiên có hình 
tròn, lỗ vuông, có minh văn chữ Hán được kéo dài qua các triều đại kế tiếp Tiền Lê, Lý, Trần, 
Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn; tiến đến loại tiền kim loại hình tròn, không lỗ, tiền thỏi nén, tiền 
thưởng... với các mỹ tự phong phú, sâu sắc. Đến thời Hồ đã xuất hiện các đồng tiền giấy, các 
loại tiền giấy với đủ kích thước, màu sắc, hoa văn trang trí và chữ in... 
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia 
Việt Nam. Kể từ thời điểm này, lưu thông tiền tệ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã 
chuyển từ chế độ tiền tệ quốc khố do Bộ Tài chính phụ trách sang chế độ tiền tệ tín dụng do 
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đảm nhiệm. Đồng tiền tài chính đã được thay thế bằng giấy bạc 
ngân hàng với đơn vị tiền tệ là đồng. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là cơ quan nhà nước quản 
lý phát hành và tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ. 
Kể từ đó cho đến nay, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (sau này là NHNN Việt Nam) đã thu đổi 
tiền cũ và tiến hành 6 lần phát hành tiền mới. Lần phát hành tiền mới gần đây nhất là tháng 
12/2003 khi NHNN Việt Nam đưa vào lưu thông hệ thống tiền mới trên chất liệu polymer. Hệ 
thống tiền mới polymer được tiếp tục lưu thông trên thị trường cả nước từ đó đến nay, với nhiều 
mệnh giá; trong đó tờ có mệnh giá cao nhất là 500.000 đồng.      lOMoAR cPSD| 60776878   1.HÓA TỆ:    10   
Mãi đến sau này khi lực lượng sản xuất phát triển, con người khai thác được những khoáng sản 
như than, sắt, bạc, vàng,… thì những kim loại quý hiếm này được công nhận như là những loại 
tiền tệ. Tuy nhiên, việc trao đổi mang tính bộc phát này lại ẩn chứa nhiều nhược điểm. 
Nó diễn ra trong phạm vi hẹp, bị giới hạn về mặt lãnh thổ, không gian khá nhiều. 
Trong thời kì này, để thống nhất một loại tiền để thanh toán trao đổi, những người dân đã chọn 
vàng làm vật ngang giá chung. Lịch sử đã chứng kiến sự thống trị đặc biệt lâu dài của vàng bởi 
vì nó có những lợi thế hơn hẳn những kim loại khác. Đặc tính về lý hóa của vàng hoàn toàn có 
thể đáp ứng được tiêu chuẩn để làm tốt vai trò tiền tệ. Nếu xét trong bảng tuần hoàn hóa học, 
các loại khí và chất lỏng hoàn toàn phi thực tế khi dùng chúng là tiền để trao đổi. Các nguyên 
tố nhóm Lantan và actinides đều là những nguyên tố có khả năng bị phân hủy và trở thành 
những chất phóng xạ gây nguy hiểm cho chính bản thân bạn và những người xung quanh. Kim 
loại kiềm và kiềm thổ nằm phía trái của bảng tuần hoàn nên chúng có thể phản ứng cao ở áp 
suất và nhiệt độ thích hợp, thậm chí là ở nhiệt độ phòng và có khả năng bốc cháy. Nguyên tố 
bạc cũng đã từng được sử dụng như một loại tiền tệ nhưng do đặc tính bị xỉn màu theo thời 
gian nên nó đã bị loại bỏ. Nguyên tố vàng với nhiệt độ nóng chảy phù hợp, dễ uốn, tạo hình, 
chia được thành khối lượng nhỏ nên đã được sử dụng làm tiền. Nhưng do bên cạnh những ưu 
điểm vốn có thì càng theo thời gian, vàng đã lộ ra những nhược điểm khó khắc phục. Giá trị 
của vàng ngày một lớn hơn, đến nỗi khó có thể chia nhỏ nó ra để mua bán trao đổi thông thường      lOMoAR cPSD| 60776878
được nữa. Khi những thương nhân mua bán những món hàng lớn ở phạm vi rộng xuyên quốc 
thì việc thanh toán bằng tiền vàng sẽ gặp không ít trắc trở như nạn cướp bóc.  11   
Cộng với việc khai thác vàng ngày càng trở nên khó khăn và lượng cung vàng không còn đáp 
ứng đủ nên người dân hoàn toàn không thể có đủ khối lượng vàng để đưa vào lưu thông nữa.  2.TÍN TỆ:    
Chính vì để khắc phục được những trở ngại của đồng tiền vàng, tiền xu đã ra đời. Những đồng 
xu đầu tiên được làm bằng đồng và sau đó là sắt, vì những vật liệu này khá cứng nên chúng có 
thể được sử dụng để chế tạo vũ khí, đồng xu rất tiện lợi vì người dùng có thể đếm chúng thay 
vì tính theo trọng lượng. Giá trị kim loại đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền 
không có một sự liên kết nào cả, có thể gắn cho mỗi loại đồng xu một giá trị riêng biệt là được. 
Bên cạnh sự xuất hiện của tiền xu, tiền giấy lần đầu tiên xuất hiện tại Trung Quốc trong những 
năm 600 đến 1455, chủ yếu lưu hành ở thời nhà Tống. Những tờ giấy bạc gọi là Jiaozi 
đã được sử dụng từ thế kỷ 7 sau Công nguyên. Đây có thể coi là bước tiến vượt bậc trong xã 
hội loài người khi nói về lịch sử hình thành tiền tệ. Tiền giấy có hai loại: tiền giấy khả hoán và 
tiền giấy bất khả hoán. 
Tiền giấy khả hoán được ông Palmstruck - người sáng lập ra ngân hàng Stockholm của 
Thụy Điển tạo nên đầu tiên vào thế kỷ 17. Đây là một tờ giấy được in và lưu hành thành tiền, 
thay thế cho tiền vàng hoặc bạc mà người dân gửi vào ngân hàng. Người sở hữu tờ tiền này có 
thể đến ngân hàng để đổi với số lượng vàng hoặc bạc bằng giá trị ghi trên giấy hoặc dùng làm 
tiền nếu cần. Tiền giấy bất khả hoán là tiền giấy bắt buộc lưu hành và mọi người không thể 
mang chúng đến ngân hàng để đổi lấy vàng hoặc bạc. Là loại tiền giấy được các quốc gia trên 
thế giới sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Ở Việt Nam, tiền giấy ra đời từ thế kỷ 15 dưới thời      lOMoAR cPSD| 60776878
Hồ Quý Ly. Tại Pháp, tiền giấy trở nên bất khả hoán vào năm 1720, từ năm 1848 đến năm 
1850, từ năm 1870 đến năm 1875, từ năm 1914 đến năm 1828, và cuối cùng là từ 01-10-1936 
cho đến ngày nay. Nhiều quốc gia đã phát hành tiền giấy bất khả hoán trong cuộc nội 
chiến 1862-1863. Sau khi nội chiến kết thúc, nó lại trở về khả hoán từ năm 1879. Cũng có thể 
nói, Chiến tranh thế giới thứ nhất và cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là nguyên nhân 
chính dẫn đến việc sử dụng rộng rãi tiền giấy không chuyển nhượng ( bất khả hoán) ở 
nhiều quốc gia. Sự ra đời của tín tệ, đặc biệt là tiền giấy bất khả hoán đánh dấu sự thay thế cho 
tiền đủ giá (tiền vàng) giúp khắc phục được tình trạng thiếu phương tiện trong lưu thông (do 
vàng ngày càng khan hiếm trong tự nhiên, mà khối lượng hàng hóa lưu thông, trao đổi ngày 
càng lớn). Đồng thời, việc sử dụng các loại tín tệ cũng làm giảm đáng kể chi phí lưu thông. 
Tuy nhiên, việc lưu thông tín tệ, vì bản chất không có giá trị nội tại như vàng bạc,… nên tín tệ 
không có khả năng tự điều tiết và do đó, nếu đơn vị phát hành không quản lý điều tiết tốt, việc 
lưu thông tín tệ dễ rơi vào bất ổn. Một ví dụ minh chứng rõ ràng nhất cho điều này đó 
chính là siêu lạm phát ở Zimbabwe, bên cạnh đó một số tín tệ như tiền giấy còn có nguy cơ 
bị các đối tượng trục lợi làm giả hàng loạt.  3.BÚT TỆ:    13  4.TIỀN ĐIỆN TỬ:   
Tiền điện tử là tiền đã được số hóa, tức là tiền ở dạng các bit kỹ thuật số. Giống như tiền 
giấy, nó có chức năng như một phương tiện trao đổi và tích lũy giá trị. Tiền điện tử chỉ có thể 
được sử dụng trong môi trường điện tử để thanh toán điện tử thông qua hệ thống thông tin bao      lOMoAR cPSD| 60776878
gồm mạng máy tính và Internet. Loại tiền điện tử phổ biến hiện nay được sử dụng thông qua 
một hệ thống thanh toán tự động được gọi là hộp ATM (Máy rút tiền tự động). 
Đó là hệ thống máy tính nối mạng với toàn bộ hệ thống ngân hàng trung gian và hòm chuyển 
tiền của ngân hàng. Khi chúng tôi đến Ngân hàng Trung Quốc để gửi tiền, ngoài xác nhận gửi 
tiền, ngân hàng còn đưa cho chúng tôi một thẻ nhựa có mã hóa điện tử và mật khẩu. Thẻ này 
được coi là tiền tệ, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về việc thẻ này có phải là một dạng tiền 
tệ hay không, vì có một số ý kiến cho rằng nó chỉ là một phương tiện thanh toán. 
5.TIỀN KỸ THUẬT SỐ:   
Tiền kỹ thuật số hay còn được gọi là Cryptocurrency, là một loại tiền mã hóa hay crypto được 
tạo ra bởi các thuật toán mật mã phức tạp dựa trên phần mềm mã nguồn mở. Có hơn một nghìn 
loại tiền điện tử khác nhau, trong đó nổi bật nhất vẫn là Bitcoin (BTC). Loại tiền này có thể 
được trao đổi và mua bán trực tiếp thông qua các thiết bị kết nối Internet, không thông qua một 
tổ chức tài chính trung gian và không chịu sự quản lý của bất kỳ cá nhân, tổ chức hay nhà nước 
nào. Giao dịch này hoàn toàn có thể được thực hiện ngay tức thì và ẩn danh. Nhưng bên cạnh 
những ưu điểm, tiền kỹ thuật số cũng tồn tại một số nhược điểm như: không được nhiều người 
sử dụng, hơi khó sử dụng; do tính ẩn danh nên tội phạm, tin tặc và các hoạt động rửa tiền tràn 
lan. Vì vậy, có lẽ chúng ta nên đồng ý rằng giá trị của tiền kỹ thuật số giống như Bitcoin không 
nằm ở tiền tệ về mà nó là công nghệ, là một tài sản đầu tư đầy hứa hẹn nhưng cũng tiềm ẩn 
nhiều rủi ro khó lường.  15    MỤC LỤC  LỜI CẢM ƠN      lOMoAR cPSD| 60776878
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT..........................................................1 
1.KHÁI NIỆM TIỀN TỆ..........................................................................1 
2.VAI TRÒ & Ý NGHĨA CỦA TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ.......1 
CHƯƠNG 2: LỊCH SỬ RA ĐỜI........................................................................4 
2.1.LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TIỀN TỆ TRÊN THẾ GIỚI.......................4 
2.2.LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TIỀN TỆ TẠI VIỆT NAM.........................7 
CHƯƠNG 3: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN..............................................................8 
3.1. GIAI ĐOẠN 1: HOÁ TỆ...................................................................8 
3.2. GIAI ĐOẠN 2: TÍN TỆ...................................................................10 
3.3. GIAI ĐOẠN 3: BÚT TỆ..................................................................11 
3.4. GIAI ĐOẠN 4: TIỀN ĐIỆN TỬ.....................................................12 
3.5. GIAI ĐOẠN 5: TIỀN KỸ THUẬT SỐ...........................................13 
KẾT LUẬN.......................................................................................................14 
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................15