








Preview text:
I. VẤN ĐỀ KHOA HỌC 1. Định nghĩa
Vấn đề khoa học (còn gọi là vấn đề nghiên cứu) là vấn đề đặt ra cho nghiên cứu
và trả lời. Muốn xác định được nó phải tìm được câu trả lời: Làm thế nào để giải
quyết vấn đề đó? Bản chất của vấn đề đó là gì?. . 2. Vai trò
Vấn đề khoa học là khởi điểm của mọi nghiên cứu khoa học. Điều đó có nghĩa
là, nhận ra được vấn đề khoa học thì sẽ có điều kiện để nghiên cứu khoa học.
Chẳng hạn, từ hiện tượng quả táo rơi, Niuton đã lấy đó làm cơ sở để nghiên cứu
và tìm ra định luật vạn vật hấp dẫn.
3. Cấu tạo của vấn đề khoa học
Vấn đề khoa học bao gồm hai lớp vấn đề:
– Vấn đề khoa học về bản thân sự vật mà người nghiên cứu quan tâm. Muốn
phát hiện ra nó phải đặt các câu về chúng, chẳng hạn: Nguyên tử là gì? Cấu tạo của nó như thế nào?
– Vấn đề khoa học về phương pháp nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ về lý thuyết,
thực tiễn những vấn đề thuộc lớp thứ nhất. Muốn phát hiện phải đặt các câu hỏi
về chúng để đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề nghiên cứu, chẳng hạn:
Làm thế nào để nghiên cứu được nguyên tử? Bằng cách nào tìm được cấu trúc nguyên tử?
4. Phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu
Muốn tiến hành nghiên cứu khoa học bắt buộc phải có vấn đề nghiên cứu. Muốn
có vấn đề nghiên cứu phải biết phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu, tức là
cách đi tìm các câu hỏi nghiên cứu. Có 6 phương pháp thường gặp để phát hiện vấn đề nghiên cứu.
Một là, phát hiện những chỗ yếu trong nghiên cứu của đồng nghiệp để làm vấn
đề nghiên cứu. Chẳng hạn: luận đề trái với các lý thuyết đã được thừa nhận; luận
đề phiến diện; luận cứ thiếu chính xác, không đủ tin cậy; luận chứng vi phạm
quy tắc chứng minh. Muốn thực hiện điều này, người nghiên cứu phải đặt câu
hỏi: Luận đề của nghiên cứu có chính xác không? Luận cứ có đủ tin cậy không?
Luận chứng của nghiên cứu có vi phạm quy tắc chứng minh không?. .
Hai là, nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học của các đồng
nghiệp để làm vấn đề nghiên cứu. Ở đây, người nghiên cứu thực hiện tương tự
như phương pháp trên để tìm ra vấn đề nghiên cứu. Để thực hiện phương pháp
này, người nghiên cứu phải đặt câu hỏi: Tại sao các nhà khoa học lại bất đồng về
khoa học? Họ bất đồng về vấn đề gì?. .
Ba là, nghĩ ngược lại với quan điểm thông thường. Trong lôgic học, sự suy nghĩ
này chính là việc tìm kiếm một khái niệm đối lập với khái niệm đang tồn tại.
Muốn thực hiện nó người nghiên cứu phải đặt câu hỏi: Vấn đề nghiên cứu có thể
khác không? Có thể ngược lại không?
Bốn là, nhận dạng những vướng mắc trong khoa học và hoạt động thực tiễn.
Đây là một phương pháp phổ biến vì trong khoa học và cuộc sống luôn có
những vướng mắc cần phải giải quyết. Muốn thực hiện phương pháp này, người
nghiên cứu cần đặt các câu hỏi như: Bản chất sự vật này là gì? Quy luật của sự
vật này ra sao?. . nhằm khám phá bản chất, quy luật của sự vật; và, với các câu
hỏi: Làm thế nào? Làm cách nào? Biện pháp gì sẽ được thực hiện? Với giải
pháp nào được đặt ra?. . nhằm tác động vào sự vật để giải quyết vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Năm là, những sự kiện xuất hiện ngẫu nhiên, bất chợt với người nghiên cứu
không phụ thuộc vào lý do, thời gian hay hoàn cảnh nào. Trường hợp này xuất
hiện khi người nghiên cứu đã có một quá trình tích lũy các sự kiện, đã quan sát
và đầu tư nhiều tư duy trong thực tế.
Sáu là, lời phàn nàn của những người không am hiểu lĩnh vực mà người nghiên
cứu quan tâm khiến người nghiên cứu nảy sinh ý tưởng nghiên cứu. Trường hợp
này là hạn hữu, không nhiều nhưng nhiều khi nó lại là một ý tưởng nghiên cứu có giá trị. II. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 1. Định nghĩa
Nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi, khám phá bản chất, quy luật các sự vật, hiện
tượng và sáng tạo các giải pháp tác động trở lại các sự vật, hiện tượng nhằm
biến đổi chúng theo mục đích nhất định. Nói một cách khái quát, nghiên cứu
khoa học là một hoạt động xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới.
2. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học
Đặc điểm của nghiên cứu khoa học liên quan đến những vấn đề xử lý cụ thể về
phương pháp luận nghiên cứu và cách tổ chức nghiên cứu khoa học. Nó có 7 đặc điểm: 2.1. Tính mới
Đây là thuộc tính số 1 của nghiên cứu khoa học, vì nghiên cứu khoa học là tìm
tòi, sáng tạo, khám phá, tức là không lặp lại những cái đã có.
Để nhận dạng được thuộc tỉnh này, người nghiên cứu phải trả lời được các câu
hỏi: Nghiên cứu này đã có ai làm chưa? Có kết quả ra sao? Biểu hiện của thuộc
tính này ở chỗ, những kết quả của nghiên cứu khoa học đạt được là những điều
chưa từng có trước đó. 2.2. Tính tin cậy
Đây là tinh tất yếu của nghiên cứu khoa học, vì mục tiêu của nghiên cứu khoa
học là tìm ra bản chất của sự vật và các giải pháp để giải quyết vấn đề khoa học.
Đó phải là những bản chất và giải pháp đúng, vì cái đúng mới là cải đáng tin
cậy. Biểu hiện của thuộc tính này là một kết quả của nghiên cứu đạt được nhờ
một phương pháp nào đó phải cho kết quả tương tự nếu áp dụng phương pháp ấy
và lặp đi lặp lại nhiều lần. Một kết quả thu được ngẫu nhiên phù hợp với giả
thuyết đặt ra trước đó chưa thể xem là đủ tin cậy đối với giả thuyết đó. Muốn
nhận dạng thuộc tính này, người nghiên cứu phải đặt các câu hỏi để tìm câu trả
lời: Kết quả nghiên cứu ấy có chuẩn xác không? Có đúng không? 2.3. Tính thông tin
Đây là tính quy định của nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu khoa học có
nhiều sản phẩm ở nhiều dạng thức khác nhau (bài báo, tác phẩm, sản phẩm
mới. .), nhưng dù ở dạng sản phẩm nào nó cũng phải phản ánh được bản chất sự
vật, đưa ra các giải pháp đúng và phải được thể hiện bằng những hình thức nào
đó. Đó chính là các thông tin của nghiên cứu khoa học và biểu hiện của thuộc
tính này thường là các nguyên lý, quy luật, định luật, nguyên tắc, công thức,
định lý, các sản phẩm mới,. .Muốn nhận dạng được thuộc tính này phải trả lời
câu hỏi: Kết quả nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới hình thức gì? 2.4. Tính khách quan
Tính khách quan là bản chất của nghiên cứu khoa học, vì nó đi tìm bản chất sự
vật, các giải pháp đúng. Bản chất và giải pháp này luôn tồn tại khách quan và
không tuân theo ý muốn của người nghiên cứu. Biểu hiện của thuộc tính này là
các kết quả của nghiên cứu khoa học luôn luôn cho câu trả lời đúng sau những
lần kiểm chứng. Nó không chấp nhận một nhận định vội vàng theo cảm tính,
một kết luận thiếu các xác nhận bằng kiểm chứng.
Tính khách quan là một tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức của người nghiên cứu
và là một chuẩn mực giá trị của nghiên cứu khoa học. Nó là một công việc khó
khăn, luôn gặp rủi ro và nhiều trường hợp tiêu tốn rất nhiều sức lực, thời gian,
kinh phí mà không đi đến kết quả. Vì thế, đòi hỏi người nghiên cứu phải trung thực.
Để nhận dạng được thuộc tính này, người nghiên cứu phải đặt câu hỏi ngược lại:
Những kết luận đã được xác nhận có thể thay đổi không? Nếu nó đúng thì đúng
trong điều kiện nào? Còn phương pháp nào cho kết quả tốt hơn không? 2.5. Tính kế thừa
Đây là tính bắt buộc của nghiên cứu khoa học vì hầu như không có một công
trình nghiên cứu khoa học nào lại bắt đầu từ số “0” về kiến thức. Biểu hiện của
thuộc tính này là kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
khác, dù lĩnh vực khoa học đó rất xa với lĩnh vực khoa học đang nghiên cứu.
Tính kế thừa có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu khoa học vì nó giúp cho
người nghiên cứu tiết kiệm được thời gian, công sức và kinh phí khi nghiên cứu.
Muốn thực hiện được thuộc tính này của nghiên cứu khoa học, người nghiên
cứu cần nắm vững các quy luật, biết cách tìm kiếm và sử dụng các quy luật
trong nghiên cứu khoa học. 2.6. Tính rủi ro
Rủi ro là tính đương nhiên của nghiên cứu khoa học, vì khi đi tìm, khám phá cái
mới luôn luôn gặp những khó khăn dẫn đến thất bại. Sự thất bại này có các
nguyên nhân chính là: Thiếu thông tin cần thiết, tin cậy, tức là cơ sở xây dựng
luận cứ không đầy đủ và chuẩn xác.
– Trình độ, thiết bị quan sát hoặc thực nghiệm thấp, khiến thông tin không đầy đủ, thiếu tin cậy.
– Năng lực xử thông tin của người nghiên cứu bị hạn chế, làm cho các thông tin
dù có đầy đủ và đáng tin cậy cũng không được sử dụng tốt để chứng minh đưa đến luận đề đúng.
- Giả thuyết khoa học đặt ra sai lầm làm cho kết quả nghiên cứu khoa học sai.
Kết quả nghiên cứu được thực nghiệm thành công nhưng vẫn có thể gặp rủi ro
(do chưa khả thi trong áp dụng thực tế; sự tác động của các yếu tố không gian,
thời gian, môi trường, tài chính, dư luận. .). Để khắc phục thuộc tính này cần
nắm vững các nguyên nhân để tránh các rủi ro xảy ra. 2.7. Tính cả nhân
Đây là tinh phổ biến của nghiên cứu khoa học vì trong nghiên cứu khoa học, tư
duy cá nhân, chủ kiến cá nhân luôn luôn được thể hiện. Ngay trong một công
trình nghiên cứu khoa học do một tập thể thực hiện thì vai trò cá nhân trong
nghiên cứu vẫn có tính quyết định vì mỗi cá nhân đều có nhiệm vụ riêng trong công trình đó.
Để thực hiện được thuộc tính này, người nghiên cứu cần đánh giá đúng năng lực
nghiên cứu khoa học của mình, nhận những đề tài khoa học phủ hợp với khả
năng, đem lại kết quả nghiên cứu tốt.
3. Phân loại nghiên cứu khoa học
3.1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu khoa học 3.1.1. Nghiên cứu mô tả
Nghiên cứu mô tả là trình bày bằng ngôn ngữ, hình ảnh chung nhất về hình thái,
cấu trúc, động thải, tương tác, quy luật vận động của sự vật. Mục đích của
nghiên cứu là đưa ra một hệ thống tri thức về sự vật. Trong loại nghiên cứu này
có mô tả định tính (biểu hiện và biến đổi tính chất của sự vật) và mô tả định
lượng (những biểu hiện và biến đổi về số lượng của sự vật). Ví dụ, mô tả hình
thái đất hoặc các châu lục là mô tả định tính; nêu diện tích Trái Đất, độ dài kinh
tuyến, xích đạo là mô tả định lượng.
Nghiên cứu mô tả giúp cho con người có được một công cụ nhận dạng thế giới
và phân biệt sự vật này với sự vật khác. Để nhận dạng loại nghiên cứu này, phải
trả lời câu hỏi là loại nghiên cứu này có thể hiện những quan sát về sự vật và có
tác dụng phân biệt nó với các sự vật khác không?
3.1.2. Nghiên cứu giải thích
Nghiên cứu giải thích là việc làm rõ nguyên nhân dẫn đến hình thành vấn đề
nghiên cứu và quy luật vận động của sự vật. Loại nghiên cứu này nhận dạng sự
vật không chỉ ở bên ngoài mà còn ở thuộc tính bên trong của sự vật. Điều này
làm cho khoa học phát triển thêm một bước. Nghiên cứu giải thích bao gồm:
— Giải thích cấu trúc của sự vật. Ví dụ, cấu tạo hệ tiêu hóa của con người. –
Giải thích nguồn gốc sự vật là giải thích sự vật được hình thành từ đâu và thế
nào? Ví dụ, nguồn gốc Trái Đất.
– Giải thích động thái của sự vật. Ví dụ, quá trình phát triển của cây trồng. –
Giải thích tương tác giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Ví dụ, tương tác giữa xuất
khẩu và nhập khẩu trong ngành ngoại thương.
– Giải thích tác nhân vận động của sự vật là giải thích nguyên nhân tạo ra vận
động của sự vật. Ví dụ, nguyên nhân vận động của Trái Đất.
– Giải thích tác nhân vận động của sự vật là giải thích nguyên nhân tạo ra vận
động của sự vật. Ví dụ, nguyên nhân vận động của Trái Đất.
- Giải thích hậu quả của tác động vào sự vật và các hoạt động của sự vật. Ví dụ,
hậu quả của nạn phá rừng.
– Giải thích quy luật chung chi phối quá trình vận động của sự vật. Vi dụ, quy
luật mâu thuẫn trong triết học.
Để nhận dạng loại nghiên cứu này, phải giải đáp được câu hỏi: loại nghiên cứu
này có trả lời đúng câu hỏi tại sao, vì sao, nguyên nhân,. . vật không? về sự 3.1.3. Nghiên cứu dự báo
Nghiên cứu dự bảo là nhìn trước quá trình hình thành và phát triển, triển vọng
của sự vật cũng như sự vận động và trạng thái của sự vật tron tương lai. Với sự
hỗ trợ của phương tiện, công cụ và phương pháp nghiên cứu, nhiều dự báo có độ
chính xác cao về các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Trong nghiên cứu dự báo,
phải chấp nhận sự sai lệch, đặc biệt là các dự báo về xã hội.
Nghiên cứu dự báo giúp định hướng được công việc nghiên cứu trong tương lai.
Để nhận dạng loại nghiên cứu này, phải trả lời câu hỏi: Loại nghiên cứu này có
nêu được tình hình sự vật trong tương lai không?
3.1.4. Nghiên cứu sáng tạo
Nghiên cứu sáng tạo có chức năng làm ra một sự vật mới chưa từng có. Loại
nghiên cứu này tạo ra các giải pháp tác nghiệp trong hoạt động thực tiễn (Các
giải pháp giải quyết các vấn đề về công nghệ, vật liệu, năng lượng. . và về tổ
chức, quản lý). Nó là tất yếu của phát triển khoa học vì khoa học không bao giờ
chịu dừng lại ở mô tả, giải thích. Để nhận dạng loại nghiên cứu này, phải trả lời
câu hỏi: loại nghiên cứu này có đưa ra giải pháp chưa từng có hay không?
3.2. Phân loại theo phương pháp thu thập thông tin
3.2.1. Nghiên cứu thư viện (còn gọi là nghiên cứu tài liệu)
Muốn nhận dạng loại nghiên cứu này phải trả lời câu hỏi: Nghiên cứu này có
dựa vào tài liệu để tìm luận đề, luận cứ và luận chứng không?
3.2.1. Nghiên cứu thư viện (còn gọi là nghiên cứu tài liệu)
Muốn nhận dạng loại nghiên cứu này phải trả lời câu hỏi: Nghiên cứu này có
dựa vào tài liệu để tìm luận đề, luận cứ và luận chứng không?
3.2.2. Phương pháp điền dã
Đây là phương pháp phi thực nghiệm dựa trên quan sát trực tiếp ngoài hiện
trường hoặc gián tiếp qua các phương tiện ghi âm, ghi hình hoặc thực hiện bằng
các hình thức giao tiếp, phỏng vấn, điều tra. Trong phương pháp này, người
nghiên cứu không gây bất cứ biến đổi nào trên đối tượng nghiên cứu.
Để nhận dạng loại nghiên cứu này, phải trả lời câu hỏi: Loại nghiên cứu này có
dựa trên quan sát sự vật trực tiếp hoặc gián tiếp không? Và trong quá trình quan
sát, các đối tượng nghiên cứu có bị làm thay đổi không? 3.2.3. Nghiên cứu la bộ
Là phương pháp nghiên cứu trong đó người nghiên cứu chủ ý gây tác động làm
biến đổi một số yếu tố, trạng thái của đối tượng nghiên cứu để tiến hành nghiên
cứu. Phương pháp này thực hiện trong các phòng thí nghiệm nhưng cũng có thể
tiến hành ngoài hiện trường.
Mục đích của phương pháp này là để kiểm chứng giả thuyết qua khống chế các
biến trong điều kiện nghiên cứu và phát hiện mối quan hệ giữa biến độc lập và
biến phụ thuộc.Để nhận dạng loại nghiên cứu này, phải trả lời câu hỏi: Nghiên
cứu này có chủ ý biến đổi các đối tượng nghiên cứu để quan sát không?
3.3. Phân loại theo các giai đoạn của nghiên cứu khoa học 3.3.1. Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản là nghiên cứu phát hiện thuộc tính, cấu trúc, trạng thái, vận
động, tương tác. . của sự vật. Nghiên cứu cơ bản có thể thực hiện trên các cơ sở
thực nghiệm hoặc trên lý thuyết (Ví dụ, trong toán học).
Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản có thể là các phát minh, phát hiện dẫn đến việc
hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng quát, ảnh hưởng đến một hoặc
nhiều lĩnh vực khoa học. Đó là các lý thuyết về quy luật gồm các quy luật, định
luật, định lý, hình thái, cấu trúc, động thái, tương tác.
Có hai loại nghiên cứu cơ bản:
Nghiên cứu cơ bản thuần túy (còn gọi là nghiên cứu cơ bản tự do, không định
hướng) là những nghiên cứu về bản chất sự vật để nâng cao nhận thức mà chưa
bàn đến ý nghĩa ứng dụng. Để nhận dạng loại nghiên cứu này phải trả lời câu hỏi:
Loại nghiên cứu này có nghiên cứu bản chất vật để nâng cao hiểu biết không? sự
– Nghiên cứu cơ bản định hướng là những nghiên cứu về bản chất sự vật đã định
trước mục đích ứng dụng. Để nhận dạng phải trả lời câu hỏi: Loại nghiên cứu
này để làm gì? Kết quả có sử dụng được không? Trong nghiên cứu này có hai loại nghiên cứu:
+ Nghiên cứu cơ bản nền tảng là nghiên cứu quy luật tổng thể hệ thống sự vật.
Để nhận dạng loại nghiên này, phải trả lời câu hỏi: Đối tượng nghiên cứu của
loại nghiên cứu này có mang tính chất tổng thể một hệ thống không?
3.3.2. Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng là những nghiên cứu vận dụng quy luật được phát hiện từ
nghiên cứu cơ bản để giải thích sự vật, tạo ra những nguyên lý mới về giải pháp
và ứng dụng chúng vào đời sống xã hội.Thành tựu khoa học ứng với nghiên cứu
ứng dụng là các nguyên lý ứng dụng gồm các giải pháp, công thức, quy trình,
công nghệ, công cụ, nguyên lý, quy tắc.
Muốn nhận dạng loại nghiên cứu này phải trả lời câu hỏi: Loại nghiên cứu này
có đưa ra giải pháp mới? Có cách giải thích sự vật mới? Có cách giải thích mới
về sự vật? Kết quả của nghiên cứu ứng dụng chưa thể ứng dụng ngay được. Để
ứng dụng nó, phải tiến hành một loại nghiên cứu khác là triển khai. 3.3.3. Triển khai
Đây là giai đoạn vận dụng các lý thuyết (quy luật của nghiên cứu cơ bản,
nguyên lý của nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra các hình mẫu mang tính khả thi
về kỹ thuật, tức là không còn xác suất về mặt kỹ thuật trong áp dụng. Nếu muốn
áp dụng vào một điều kiện kinh tế nào đó thì còn phải tiến hành nghiên cứu các
điều kiện khả thi như tài chính, môi trường, chính tri,. .
Muốn nhận dạng hoạt động này phải trả lời câu hỏi: Hoạt động này có tạo ra
hình mẫu mang tính khả thi về kỹ thuật hay không? Nghiên cứu triển khai có 3 giai đoạn:
- Giai đoạn tạo mẫu là giai đoạn thực hiện nhằm tạo ra được sản phẩm, chưa
quan tâm đến quy trình sản xuất và quy mô áp dụng.
– Giai đoạn công nghệ là giai đoạn tìm kiếm và thử nghiệm công nghệ để sản
xuất ra sản phẩm theo mẫu đã thành công ở giai đoạn tạo mẫu,
-- Giai đoạn sản xuất nhỏ là giai đoạn kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ trên
quy mô nhỏ, gọi là quy mô sản xuất bản đại trà. Thành tựu khoa học ứng dụng
với hoạt động triển khai là hình mẫu khả thi về kỹ thuật gồm mô hình thí điểm,
hình mẫu, sản phẩm chế thử.