



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Câu 1 : Sự ra đời cuả nhà nước Văn Lang và đời sống vật chất tinh
thần của cư dân Văn Lang - Âu Lạc ●
Theo bộ sử ký “Đại Việt sử ký toàn thư” của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15
Đế Minh (theo truyền thuyết thuộc dòng dõi Thần Nông) sinh ra Lộc Tục, tức Kinh
Dương Vương Lộc Tục lấy con gái Long Vương và đẻ ra Lạc Long Quân. Sau đó
Lạc Long Quân và Âu Cơ kết hôn, sinh được 100 người con trai, 50 người theo
cha về biển Đông 50 người theo mẹ Âu Cơ lên núi . Người con trai cả Lạc Long
Quân phong làm vua, lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước Văn Lang và đóng đô ở
Bạch Hạc – Phú Thọ (nay là Việt Trì, Phú Thọ). ●
Những nét chính về đời sống tinh thần của cư dân Văn Lang, Âu Lạc:
– Về mặt tín ngưỡng, cư dân Văn Lang – Âu Lạc có tục thờ cúng tiên và thờ các vịthần
trong tự nhiên như thần Sông, thần Núi, thần Mặt Trời, ..
– Người Việt cổ có tục xăm mình, nhuộm răng đen, ăn trầu, làm bánh chung, bánhgiầy.
– Tục cưới xin, ma chay, lễ hội khá phổ biển, nhất là hội mùa.
– Các lễ hội gần với nền nông nghiệp trồng lúa nước cũng được tổ chức thườngxuyên.
Những thành tựu về đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang – Âu Lạc đã
tạo nên nền văn minh đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, góp phần tạo dựng nền tảng cốt
lõi của bản sắc văn hoá dân tộc.
Câu 2 : Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch
sử dân tộc Việt
* Sơ lược về Ngô Quyền:
Ngô Quyền sinh năm 898 mất năm 944 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu
Đường Lâm, Ái Châu. Cha là Ngô Mân làm chức châu mục Đường Lâm. Ngô Quyền
được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng" (có thể bổ sung thêm trang 60)
* Chiến thắng Bạch Đằng:
Thời bấy giờ nhà Đường ở Trung Quốc cai trị nước Việt. Từ giữa thế kỷ IX, nhà Đường
phải đối phó với hai biến cố lớn là nông dân khởi nghĩa và phiên trấn cát cứ.
Năm 907, nhà Đường mất, Chu Ôn lập nên nhà Hậu Lương, bắt đầu cuộc loạn Ngũ Đại,
sử Trung Quốc gọi là Ngũ đại Thập quốc. Ở miền Nam Trung Quốc, Tiết độ sứ Quảng
Châu là Lưu Nham đã cát cứ và dựng nước Nam Hán.
Năm 905, nhân việc nhà Đường có loạn, một thổ hào người Việt là Khúc Thừa Dụ nổi
lên đánh đuổi người Trung Quốc, chiếm giữ phủ thành, xưng là Tiết độ sứ.
Năm 907, Khúc Thừa Dụ chết, con là Khúc Hạo lên thay. Khúc Hạo sai con là Khúc
Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang dò xét nhà Nam Hán. Năm 917, Khúc Hạo chết, Khúc
Thừa Mỹ lên thay, cho người sang nhà Lương lĩnh tiết việt, muốn lợi dụng sự mâu
thuẫn giữa nước Lương và Nam Hán để củng cố sự nghiệp tự cường của mình. Vua
Nam Hán là Lưu Cung tức giận, xua quân chiếm cứ Giao Chỉ. Năm 923, tướng Nam
Hán Lý Khắc Chính đem binh đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ, Lý Khắc Chính lưu lại Giao Chỉ.
Một hào trưởng người Ái Châu (thuộc Thanh Hóa ngày nay) là Dương Đình
Nghệ nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ khôi phục. Ngô Quyền lớn lên làm nha tướng cho
Dương Đình Nghệ, được Dương Đình Nghệ gả con gái cho và giao quyền cai quản Ái
châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Thanh Hóa ra lOMoAR cPSD| 22014077
Bắc đánh đuổi quân Nam Hán, đánh bại Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy,
chiếm giữ bờ cõi nước Việt, xưng là Tiết độ sứ. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là
Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối
cùng trong thời kì Tự chủ.Tháng 10 năm 938, Ngô Quyền từ vùng Châu Ái đem quân ra
đánh Kiều Công Tiễn. Nhưng Công Tiễn lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành
động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm
chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam
Hán. Đây là cơ hội rất thuận lợi để nhà Nam Hán thực hiện ý đồ xạm lược nước ta.
- Viết tiếp trang 61, 62 và đầu trang 63.
Câu 3: Nhà Lý và những đóng góp lịch sử đối với Việt Nam
Triều Lý (1009-1225) * Sơ lược về Lý Công Uẩn:
- Lý Công Uẩn (974-1028) là người sáng lập ra nhà Lý. Ông là người châu Cổ Pháp …. (viết tiếp trang 70)
* Những đóng góp lịch sử đối với Việt Nam:
1. Việc đổi mới đế đô :
Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ có một quyết định lịch sử, chọn thành Đại La kinh đô
cũ do Cao Biền xây dựng nằm ven sông Tô Lịch, làm kinh đô mới cho vương triều Lý.
Bởi kinh đô Hoa Lư ( Ninh Bình ) nằm trong miền núi non hiểm trở, mang tính phòng
thủ cao đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình trong buổi đầu dựng nước. Còn “…
thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng
cuộn hổ ngồi, đúng vị trí các hướng nam bắc đông tây, rất tiện cho sự nhìn sông dựa
núi, địa thế vừa rộng vừa bằng phẳng, đất đai lại cao và thoáng, dân cư khỏi chịu cảnh
khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt
ta, chỉ có nơi đây là “thắng địa”. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất
nước, xứng đáng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời” ( Trích Chiếu dời đô – vua Lý Công Uẩn ).
→ Đây là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình của vận mệnh dân tộc,
đánhdấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để
phòng thủ như các triều đại trước. Sự phát triển không ngừng của Đại La – Thăng
Long – Hà Nội hơn 1000 năm lịch sử đã minh chứng sự đúng đắn và sáng suốt cho
quyết định dời đô của vua Lý Công Uẩn 2. Về tư tưởng :
Đưa Phật giáo phát triển trở thành quốc giáo trong thiên hạ. Phật giáo thời kỳ này
giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó được giai cấp phong kiến Việt Nam sử
dụng vào việc ổn định trật tự xã hội, phát triển chế độ phong kiến, dựng nước và giữ nước.
Các vua Lý đều tôn sùng Phật giáo. Do nhận thấy được những giá trị mà Phật giáo
đã và sẽ đem lại cho đất nước nên ngay từ khi lên ngôi, vua Lý Công Uẩn đã cho xây
dựng một chính quyền sùng Phật và thân dân, đề cao tư tưởng từ bi, bác ái
Ông cho xây dựng chùa trong cả nước, độ dân làm sư, cử sứ thần sang nước Tống
xin kinh Tam tạng… Từ đó, các tín đồ Phật giáo phát triển cả về số lượng và chất
lượng, hình thành nhiều trung tâm Phật giáo lớn như Đại La, Hoa Lư.
Nhận thức được vai trò to lớn của những nhân sỹ Phật giáo nên các vị vua nhà Lý
luôn tìm cách để trọng dụng, tranh thủ đức tài của họ vào công cuộc trị nước. Những
vị như thiền sư Vạn Hạnh, Đa Bảo, Giác Hải, Mãn Giác, Viên Chiếu, Quốc sư Minh
Không,…không chỉ làm rạng danh Phật giáo đồ mà còn là những bậc quân sự lỗi lạc, lOMoAR cPSD| 22014077
phò trợ các bậc quân vương gìn giữ vương quyền chính thể, để lại tiếng thơm lưu danh
muôn đời. Chính vì vậy mà chùa chiền còn là nơi đào tạo trí thức của đất nước.
→ Có thể nói đây là đóng góp quan trọng nhất của vương triều Lý bởi đóng góp này
đã có nhiều tác động tích cực đến tất cả mọi lĩnh vực của đất nước ta từ chính trị - xã
hội đến kinh tế, văn hóa và quân sự 3. Về kinh tế :
Nông nghiệp
Kinh tế thời nhà Lý chủ yếu dựa vào nông nghiệp, vì thế trong suốt thời gian của
triều đại này, có nhiều việc làm của các vua hay các chiếu chỉ liên quan đến vấn đề bảo
vệ và phát triển nông nghiệp. Nhà Lý áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông” - cho binh
lính thay nhau về làm ruộng có tác dụng phát triển sản xuất nông nghiệp, sức lao động
không bị thiếu. Binh sĩ thay nhau nghỉ một tháng một lần về cày ruộng tự cấp Nhà
Lý khuyến khích nhân dân khai khẩn đất hoang, tăng gia sản xuất, tổ chức lễ “cày tịch
điền”; đại xá cho thiên hạ : “đốt giềng lưới, bãi ngục tụng”, “đốt hết hình cụ”, xuống
chiếu cho những kẻ trốn tránh phải về quê cũ làm ăn, những người mồ côi, góa chồng,
thiếu thuế lâu năm đều tha cho cả, để họ tập trung sản xuất, xóa thuế và tô hai đợt, mỗi
năm 3 đợt. Xóa cả thuế và tô là việc làm biểu hiện của một xã hội cực thịnh, một nền tài chính vững vàng.
Thủ công nghiệp:
Do những chính sách khuyến khích tăng cường sản xuất của các vua nhà Lý đã tạo
thêm điều kiện cho thủ công nghiệp phát triển.
Nhà nước có công xưởng gọi là “Cục bách tác”, chuyên chế tạo binh khí, đồ trang
sức, đóng thuyền, đúc tiền, đúc chuông, xây dựng cầu cống, cung điện chùa đền v.v…
Thợ làm trong các xưởng này đều tuyển lựa những tay thợ giỏi trong dân gian. Các thợ
chế tạo vũ khí cũng rất tài năng, đã chế tạo nhiều loại súng lớn nhỏ .
Nghề dệt lụa, nuôi tằm, ươm tơ vốn là nghề cổ truyền của dân tộc ta, những thợ dệt
giỏi, ngoài việc dệt lụa thường để cung cấp cho người dân dùng, đã dệt gấm vóc, thảm gấm.
Nghề làm đồ gốm cũng rất tinh xảo.
Nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc, thêu đan, đúc đồng, rèn sắt, nhuộm vải, làm
giấy, khắc bản in gỗ v.v… Nghề khai mỏ cũng được phát triển
Riêng nghề in sách ở nước ta phải chờ đến cuối thế kỷ XI do thiền sư Tín Học sáng thiết và thực hiện.
Thương nghiệp :
Thương nghiệp nước ta buổi ấy cũng rất phát đạt nhờ chính sách mở mang giao thông
vận tải thủy bộ của nhà Lý như đào vét sông ngòi, đắp đường, làm cầu.
Việc lưu thông hàng hóa và trao đổi sản phẩm nhờ đó được mở rộng. Thăng Long
ngay từ khi Lý Thái Tổ mới dời đô về đây, nó không chỉ là trung tâm chính trị - văn
hóa của cả nước mà đồng thời cũng là trung tâm kinh tế quan trọng, nơi cửa ngõ thu
hút người ở khắp bốn phương lũ lượt kéo về tụ họp buôn bán tấp nập ở chợ cửa Đông.
Tiền tệ :
Thời Lý đã xuất hiện việc trao đổi bằng tiền trong nội thương và ngoại thương, tiền tệ
đã có vai trò quan trọng trong xã hội.
4. Về chính trị :
Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp quản lí rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều
vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá nhân.
Chính sách đối nội :
Đối với dân : nhà Lý thực hiện chính sách vì dân, thương dân, gần dân và thương dân như con. lOMoAR cPSD| 22014077
Khi đang tại vị, Lý Thái Tổ - vị vua đầu triều nhà Lý đã cho xây cung Long Đức ở
phía đông thành Thăng Long, giữa khu vực dân cư sinh sống và buôn bán để Thái tử Lý
Phật Mã ở, tạo cho Thái tử có điều kiện tìm hiểu đời sống dân sinh, với mong muốn
người kế nghiệp tương lai gần sẽ gần dân, hiểu dân và sau này có những chính sách thân dân, vì dân.
Ngoài ra, vào lễ cày Tịch Điền, vua còn trực tiếp xuống cày ruộng để hòa mình vào
dân, làm gương cho dân chúng. Việc làm đó là một minh chứng cho chính sách thân
dân của vị vua thứ hai của nhà Lý.
Chính sách "nhu viễn" đối với các vùng dân tộc ít người như phong tước và gả công
chúa cho các từ trưởng bộ tộc ít người.
→ Nhà Lý có những chính sách thương dân, được nhân dân tin tưởng và tồn tại trong
thời gian khá dài.
Chính sách đối ngoại :
Thực hiện chính sách mềm dẻo, khéo léo nhưng kiên quyết giữ vững độc lập và chủ
quyền đối với các triều đại phương Bắc (triều cống đầy đủ nhưng sẵn sàng kháng chiến
nếu xâm phạm đến lãnh thổ Đại Việt).
Đối với các nước láng giềng phía tây và phía nam như Lan Xang, Cham-pa và Chân
Lạp, luôn giữ quan hệ thân thiện, mặc dù đôi lúc xảy ra chiến tranh.
5. Về pháp luật :
Nhà Lý được xác định là nhà nước đầu tiên ở Việt Nam chính thức có hệ thống pháp
luật từ khi giành độc lập sau thời Bắc thuộc mà thời nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê trước đó chưa có.
Có cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ hình và Thẩm hình viện
Năm 1042, Lý Thái Tông ban hành sách Hình thư, đây là sách Luật đầu tiên của một
triều đại Việt Nam, có thể coi như tổng hợp của luật dân sự, luật hình sự, luật tố tụng
hình sự và luật hôn nhân gia đình ngày nay. “Hình thư” gồm 3 quyển, đã bị thất truyền
sau thời kỳ phá hủy văn hóa Đại Việt của nhà Minh vào đầu thế kỷ 15. Trừ 10 tội
nặng gọi là thập ác ( bất trung, bất hiếu, bất kính, bất nghĩa,…) nhà Lý cho ban hành
thể lệ chuộc tội : những người già trên 70 tuổi, trẻ con dưới 15 tuổi, người có nhược
tật, những người họ nhà vua và người có công nếu phạm tội có thể chuộc tội bằng tiền,
tùy theo tội nặng nhẹ thì nộp tiền với mức độ nhiều ít khác nhau. → Việc ra đời của
Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được xem là bước tiến trong
việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý.
6. Về giáo dục :
Triều Lý là triều đại đầu tiên xây dựng trường học ở nước ta. Sự hưng thịnh của Phật
giáo song song với sự lớn mạnh dần của tư tưởng Nho giáo trong giáo dục, khoa cử
tuyển chọn quan lại ngày càng mở rộng. * Kháng chiến chống Tống:
Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta:
Từ giữa thế kỉ XI, nhà Tống (Trung Quốc) gặp phải những khó khăn chồng chất. Trong
nước, ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn. Nhân dân bị đói khổ,
nhiêu nơi nổi dậy đấu tranh. Vùng biên cương phía bắc của nhà Tống thường xuyên bị
hai nước Liêu – Hạ quấy nhiễu. Nhà Tống muốn dùng chiến tranh để giải quyết tình
trạng khủng hoảng nói trên, nên tiến hành xâm lược Đại Việt.
Để đánh chiếm Đại Việt, nhà Tống xúi giục vua Cham-pa đánh lên từ phía nam. Còn ở
biên giới phía bắc của Đại Việt, nhà Tống ngăn cản việc buôn bán, đi lại của nhân dân
hai nước, dụ dỗ các tù trưởng dân tộc ít người.
Diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý:
Trước âm mưu xâm lược nước ta của nhà Tống, sớm phát hiện được mưu đồ của kẻ
thù, vua tôi nhà Lý đã chủ động tiến hành các biện pháp chuẩn bị đối phó. Thái uý Lý lOMoAR cPSD| 22014077
Thường Kiệt được cử làm người chỉ huy, tổ chức cuộc kháng chiến. Lý Thường Kiệt
sinh năm 1019 tại phường Thái Hoà, Thăng Long (nay thuộc Hà Nội). Từ nhỏ, ông đã
tỏ ra là người có chí hướng, ham đọc bình thư và luyện tập võ nghệ. Năm 23 tuổi, được
tuyển vào trong triêu giữ chức quan nhỏ. Là người có cốt cách và tài năng phi thường,
trải qua mấy đời vua, ông được thăng dân nhiều chức quan trọng. Lý Thánh Tông phong ông làm Thái uý.
Cuộc kháng chiến chống tống thời lý diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 với đường lối
kháng chiến của vua tôi nhà Lý là tiên phát chế nhân, thay vì việc “Ngồi yên đợi giặc,
không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc”. Do đó, Lý Thường Kiệt
đã gấp rút chuẩn bị cho cuộc tấn công vào những nơi tập trung quân lương của nhà
Tống, gần biên giới Đại Việt.; Xây dựng hệ thống phòng ngự vững chắc và áp dụng
chiến thuật “công tâm” đánh vào tâm lí địch. Bên cạnh đó đường lối kháng chiến của
vua tôi nhà Lý luôn chủ động tiến công khi thời cơ đến và kết thúc chiến sự bằng biện pháp mềm dẻo.
Cụ thể diễn biến cuộc kháng chiến chống tống thời lý bấy giờ như sau:
Tháng 10 – 1075, Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân thuỷ – bộ,
chia làm hai đạo tấn công vào đất Tống. Quân bộ do các tù trưởng, Thân Cảnh Phúc,
Tông Đản chỉ huy dân binh miễn núi đánh vào châu Ung (Quảng Tây). Lý Thường Kiệt
chỉ huy cánh quân đường thuỷ, đổ bộ vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông). Sau
khi tiêu diệt các căn cứ tập kết quân, phá huỷ các kho tàng của giặc, quân Lý Thường
Kiệt tiến về bao vây thành Ung Châu, căn cứ của quân Tống.
Kết quả cuộc kháng chiến sau 42 ngày chiến đấu, quân nhà Lý hạ được thành Ung
Châu, tướng Tô Giám nhà Tống phải tự tử. Đạt được mục tiêu, Lý Thường Kiệt chủ
động rút quân, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch ở trong nước. Trận tập kích này đã đánh
một đòn phủ đâu, làm hoang mang quân Tống, đẩy chúng vào thế bị động. Bài thơ
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà là bài thơ chưa rõ nguồn gốc tác giả mà nhiều tài liệu dân gian cho là
của ông đang đêm sai người tâm phúc đọc vang trong đền thờ Trương Hống, Trương
Hát (thuộc địa phận sông Như Nguyệt, khúc sông Cầu, huyện Yên Phong, lộ Bắc Ninh,
nay là huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập hùng
tráng đầu tiên trong lịch sử dân tộc để cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt
chống lại quân Tống lần thứ 2.
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên
thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm
phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử cuộc kháng chiến chống Tống: Về nguyên
nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống tống thời lý có thể thấy xuất phát từ tinh
thần đoàn kết, ý chí độc lập tự chủ, truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta.
Bên cạnh đó cuộc kháng chiến chống tống thời lý thắng lợi cũng nhờ có sự lãnh đạo
cùng chiến thuật tài tình của Lý Thường Kiệt. Nhà Tống đang trong thời kì khủng
hoảng, sức mạnh yếu nên khó có thể giành thắng lợi.
Chiến thắng của cuộc kháng chiến chống tống thời lý đã đập tan ý chí xâm lược của
nhà Tống đối với nước ta lúc bấy giờ. Đất nước bước vào thời kì thái bình. Không chỉ lOMoAR cPSD| 22014077
vậy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống tống thời lý đã thể hiện tinh thần chiến đấu
dũng cảm, kiên cường của các tầng lớp nhân dân. Đồng thời thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống tống thời lý góp phần làm vẻ vang thêm trang sử của dân tộc, để lại nhiều
bài học kinh nghiệm chống ngoại xâm cho các thế hệ sau.
Câu 4: Nhà Trần và những đóng góp lịch sử đối với Việt Nam
* Nhà Lý suy vong
- Nhà Lý đến thời vua Nhân Tông (1072 – 1127) đã đạt đến đỉnh cao của sự thịnh
trị. Nhưng từ thời Anh Tông (1138 – 1175) về sau thì chính sự dần sút kém.
- Từ năm 1207 – 1220 đất nước loạn lạc, bị chia sẻ bởi các thế lực hào trưởng,
chính quyền nhà lý càng suy yếu.
- Vua Huệ Tông (1210 – 1224) không có con trai.
- Tháng 7/1225, Huệ Tông nhường ngôi cho Chiêu Thánh – tức Lý Chiêu Hoàng
– tự mình làm Thái thượng hoàng. Quyền bính trong triều hoàn toàn nằm trong
tay quan Điện tiền Trần Thủ Độ.
- Ngày 12 tháng chạp năm Ất Dậu, tức ngày 11/1/1226, Lý Chiêu Hoàng nhường
ngôi hoàng đế cho Chồng là Trần Cảnh. Vương triều Lý chính thức chấm dứt
sau 216 năm cầm quyền với 9 đời vui nối nhau trị vì.
* Triều Trần (1226-1400) - Viết trang 76
1.Về giáo dục -
Sau khi thành lập không lâu, nhà Trần bắt đầu thực hiện chế độ khoa cử để chọn
người tài giúp nước. Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới giữ được các
chức quan cấp triều đình nhưng từ đời vua Trần Anh Tông, những người tài đức cũng
được tuyển dụng vào giữ các chức vụ quan trọng này. -
Lần đầu tiên Nhà nước thành lập Quốc sử viện chuyên lo việc biên soạn lịch sử
nước nhà. Sử kiện Sự kiện quan trọng nhất của Sử học đời Trần là việc Bảng nhãn Lê
Văn Hưu biên soạn bộ “ Đại Việt sử ký toàn thư” gồm 30 quyển, hoàn tất vào năm
1272. Đây là bộ sử đầu tiên của dân tộc ta.
2. Về pháp luật -
Kế thừa bộ luật Hình thư của triều Lý, đồng thời nghiên cứu pháp luật của Trung
Hoa, triều Trần đã xây dựng một nền pháp luật cho riêng mình. -
Năm 1203, Trần Thái Tông cho ban hành “Quốc triều thông chế”, sau vài lần bổ
sung lại cho ban hành “Quốc triều hình luật” (hay còn gọi là Hình Thư thời Trần) bộ
luật này do Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên soạn. Cơ quan pháp luật của
triều Trần được tăng cường và hoàn thiện hơn.
3. Về văn hóa - nghệ thuật - kiến trúc -
“Hịch tướng sỹ” được Trần Quốc Tuấn viết năm 1284, ngoài ý nghĩa của 1 áng
văn chính luận, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước, còn có ý nghĩa to lớn về tư liệu lịch sử. -
Văn học chữ Nôm xuất hiện và bắt đầu có đóng góp cho nền văn học nước ta. -
Triều Trần Phật giáo đã chi phối mạnh mẽ xã hội lúc bấy giờ. Vua Trần Nhân Tông là
người đã lập ra phái thiền Trúc Lâm yên tử.
4. Về khoa học, kỹ thuật, quân sự
4.1 Khoa học quân sự -
Nhà Trần nổi bật với các thành tựu khoa học quân sự mà đứng đầu là Trần Hưng
Đạo Vương “Binh thư yếu lược”, để lại cho đời sau một bài học vô giá về kinh nghiệm chống xâm lăng. lOMoAR cPSD| 22014077 -
Trong chiến tranh nhà Trần có thể tập hợp lực lượng đông đảo như vậy là do thực
hiện chế độ “Ngụ binh ư nông” có thể xem đây là sự kết hợp giữa kinh tế và quốc
phòng, kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và tổ chức vũ trang của thời đại đó. - Trong
giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long – kinh đô triều cũ,
tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Dưới triều Trần, lực
lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn
và đương đầu với quân đội các nước xung quanh.
-Chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có
quân đội tinh nhuệ là nền tảng lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được cuộc xâm
phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258, 1285 và
1287. Thời gian này xuất hiện một danh tướng kiệt xuất là Hưng Đạo đại vương Trần
Quốc Tuấn; người có vai trò quan trọng trong chiến thắng vào năm 1285 và 1287.
4.2 Khoa học Thiên văn và Lịch pháp
- Đặng Lộ là người đã chế tạo ra 1 dụng cụ để quan sát thiên văn và khảo sát khí tượng
gọi là “Lung linh nghi”.
* 3 lần kháng chiến chống Mông Nguyên
– Cuộc kháng chiến lần 1 (1258):
Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định tấn công tiêu diệt Nam Tống. Trong đợt tấn công
này, một đạo quân gồm 3 vạn do Khađai chỉ huy được lệnh đánh vào Đại Việt, sau đó
đánh vào Quảng Tây và phối hợp với các đạo quân khác. Trước khi đánh vào nước ta,
tướng Mông Cổ cho sứ giả sang dụ hàng vua Trần nhưng đã bị vua Trần bắt trói. Chờ
mãi không thấy, quân Mông Cổ chia 2 đường dọc sông Thao tiến vào.
Đầu năm 1258, giặc kéo đến Bình Lệ Nguyên (Tam Đảo, Vĩnh Yên), cuộc giao chiến
xảy ra. Quân Trần rút về Phù Lỗ, quân giặc đuổi đến Đông Bộ Đầu. Nhà Trần chủ
trương rút khỏi kinh thành Thăng Long và cùng nhân dân thực hiện kế hoạch “vườn
không nhà trống”. Chiếm được kinh thành, quân Mông Cổ gặp nhiều khó khăn vì không
có lương thực. Lơi dụng cơ hội đó, quân Trần phản công, đánh bật quân giặc khỏi
Thăng Long, buộc chúng phải tháo chạy về Vân Nam. Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi.
– Cuộc kháng chiến lần 2 (1285):
Đầu năm 1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu lại ồ ạt kéo sang xâm
lược nước ta. Các trận đánh lớn diễn ra quyết liệt ở nhiều vùng biên giới. Thấy thế giặc
mạnh, Trần Hưng Đạo quyết định rút quân về Vạn Kiếp (Chí Linh – Hải Dương).
Quân nhà Trần lại thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” để chống giặc. Cùng thời
gian, cánh quân Toa Đô chỉ huy đánh vào Nghệ An, nhằm thực hiện chiến lược hai
gọng kìm, tiêu diệt quân Trần. Trần Quốc Tuấn và vua Trần lui ra các lộ ở miền biển
Thanh Hóa. Quân giặc rơi vào khó khăn vì thiếu đói và bệnh tật. Nhân cơ hội đó, Trần
Quốc Tuấn cho quân liên tục tấn công, tiêu diệt địch ở Tây Kết, Hàm Tử (Khoái Châu,
Hưng Yên), Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây), Thăng Long.
Tháng 6/1285, quân giặc tháo chạy, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát thân,
Toa Đô bị chém đầu ở Tây Kết. Đất nước sạch bóng quân xâm lược.
– Cuộc kháng chiến lần 3 (1287 – 1288): lOMoAR cPSD| 22014077
Thất bại nhục nhã ở Đại Việt khiến vua Nguyên hết sức căm giận. Vua Nguyên hạ lệnh
điều hàng chục vạn quân, hàng trăm chiến thuyền sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3.
Tháng 12/1287, quân Nguyên ồ ạt tràn vào nước ta. Cánh quân bộ do Thoát Hoan chỉ
huy đánh vào Lạng Sơn, rồi tiến xuống phía Nam đóng tại Vạn Kiếp. Cánh quân thủy
gồm 600 chiến thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy tiến vào cửa sông Bạch Đằng, để hội quân
với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp. Đoàn thuyền lương của giặc do Trương Văn Hồ chỉ huy
đã bị Trần Khánh Dư bố trí phục kích tại Vân Đồn. Số lương còn lại bị quân Trần chiếm.
Tháng 1/1288, Thoát Hoan cho quân tiến vào Thăng Long nhưng bị chống trả rất kịch
liệt. Quân giặc phần thì bị thiếu lương, phần thì bị ốm đau nên rơi vào cảnh khó khăn,
thiếu thốn, buộc phải rút về nước. Nhân cơ hội đó, quân dân nhà Trần đã đứng lên tiêu
diệt các đạo quân của giặc, giành thắng lợi nhanh chóng. 2.
Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân
Mông – Nguyên:
2.1. Nguyên nhân thắng lợi:
Với ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược, Quân và dân nhà Trần đã
làm nên những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng
của dân tộc. Thắng lợi đó là minh chứng hùng hồn, khẳng định sự chỉ đạo sáng
suốt, tài tình của vương triều Trần cùng tinh thần tự lực, tự cường, ý chí cố kết
cộng đồng và quyết tâm bảo vệ non sông, bờ cõi của quân, dân Đại Việt.
Sau khi chinh phục được nhiều quốc gia và xây dựng nên một đế chế hùng mạnh từ bờ
Đông biển Hắc Hải đến bờ Tây Thái Bình Dương, quân Mông Cổ tiếp tục tấn công
hòng chinh phục Nam Tống và đánh chiếm các nước ở khu vực Đông Á, Đông Nam
Á. Để thực hiện mưu đồ này, Đại hãn Mông Cổ cho quân đánh chiếm Đại Việt làm bàn
đạp tiến công Nam Tống và tiến hành “kế ở lâu dài” phát triển xuống khu vực Đông
Nam châu Á. Tháng 01 năm 1258, khoảng bốn vạn quân Mông Cổ do tướng Ngột
Lương Hợp Thai chỉ huy tiến hành xâm lược Đại Việt, tuy nhiên đội quân này đã bị
quân và dân nhà Trần đánh bại. Sau cuộc tiến công lần đầu không thành, năm 1285,
quân Mông – Nguyên tiến hành đánh chiếm nước ta lần thứ hai với quy mô lớn nhất
(khoảng 60 vạn quân), mức độ ác liệt hơn, song vẫn không giành được thắng lợi. Không
chấp nhận thất bại, năm 1288, quân Mông – Nguyên tiếp tục tiến công xâm lược lần
thứ ba với mục đích rửa “nỗi nhục” tại đất nước nhỏ bé này và một lần nữa chúng lại
phải cúi đầu khuất phục trước quân, dân Đại Việt.
Về phía Đại Việt, sau khi nắm quyền từ tay nhà Lý, nhà Trần tiếp tục đưa đất nước phát
triển mạnh mẽ, làm nên hào khí Đông A với những chính sách ưu việt, nổi bật là việc
chăm lo củng cố triều chính, binh bị, bố phòng đất nước, khoan thư sức dân, v.v.
Khi biết tin quân Mông – Nguyên chuẩn bị xâm lược nước ta, vua tôi nhà Trần đã đoàn
kết một lòng cùng với nhân dân cả nước khẩn trương làm công tác chuẩn bị để đánh
giặc giữ nước. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của vương
triều Trần, quân và dân Đại Việt đã ba lần đánh bại quân Mông – Nguyên xâm lược,
bảo vệ vững chắc giang sơn, bờ cõi. Có được chiến thắng trước đội quân xâm lược
hùng mạnh là do nhiều yếu tố hợp thành; trong đó, yếu tố cơ bản, quan trọng là “vua lOMoAR cPSD| 22014077
tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức” và sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt,
tài tình của Bộ Thống soái Đại Việt, đứng đầu là các vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
– Toàn dân đánh giặc, đoàn kết, quyết thắng: tất cả các tầng lớp nhân dân, các thànhphần
dân tộc đều tham gia đánh giặc, bảo vệ quê hương đất nước. Giặc đến đâu, nhân dân
theo lệnh triều đình cất giấu lương thảo, của cải, thực hiện “vườn không nhà trống”, tự
vũ trang đánh giặc, hăng hái tham gia các đội dân binh,…
– Chuẩn bị chu đáo của nhà Trần: chăm lo sức dân, nâng cao đời sống vật chất, tinhthần
của nhân dân bằng nhiều biện pháp để tạo nên sự gắn bó đoàn kết giữa triều đình với nhân dân.
– Quý tộc, vương hầu nhà Trần đoàn kết: chủ động giải quyết mối bất hòa trong nộibộ
vương triều, tạo nên hạt nhân của khối đoàn kết dân tộc mà Trần Quốc Tuấn là tiêu biểu.
– Quân đội nhà Trần tinh nhuệ, quả cảm, có tinh thần hy sinh, quyết thắng.
– Sự đóng góp của các danh tướng: Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần QuangKhải, Trần Nhật Duật.
– Nghệ thuật quân sự:
+ Thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”, “thanh dã”. + Tránh mạnh, đánh yếu
+ Buộc địch đánh theo cách đánh của ta
+ Buộc địch lâm vào bị động + Chớp thời cơ.
2.2. Ý nghĩa lịch sử:
– Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược Đại Việt của đế chế Nguyên. Bảo vệ vữngchắc độc lập dân tộc.
– Khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam nâng cao lòng tự hào, tự cường dântộc,
củng cố niềm tin cho nhân dân ta.
– Góp phần xây đắp nên truyền thống quân sự vẻ vang của dân tộc.
– Thắng lợi đó đã để lại bài học vô cùng quý giá: Củng cố khối đoàn kết toàn dân, dựavào dân để đánh giặc.
– Góp phần ngăn chặn cuộc xâm lược của quân Nguyên đối với Nhật Bản và các nướcphương Nam. lOMoAR cPSD| 22014077
Như vậy, trong cả ba cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, nhờ nắm chắc tình
hình, đánh giá đúng điểm mạnh, điểm yếu, sở trường, sở đoản của giặc, Bộ Thống soái
nhà Trần đã có những chỉ đạo chiến lược: thực hiện các cuộc rút lui nhằm bảo toàn lực
lượng; kéo dài thời gian kháng chiến để chuẩn bị phản công; tiến hành triệt để kế “thanh
dã”, cắt đứt nguồn cung cấp, tiếp tế lương thảo của giặc, qua đó, làm cho chúng rơi vào
tình cảnh khốn đốn, tinh thần hoang mang, ý chí chiến đấu giảm sút và không thực hiện
được ý định đánh nhanh, thắng nhanh. Sự chỉ đạo chiến lược của triều đình nhà Trần là
nhất quán, xuyên suốt trong ba cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên và là sách
lược duy nhất đúng trong cuộc đối đầu với đội quân hùng mạnh, thiện chiến, quen trận
mạc. Sự chỉ đạo chiến lược đó khẳng định tầm nhìn, tư duy sáng tạo, khả năng tổ chức
của Bộ Thống soái Đại Việt, đứng đầu là các vua Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc
Tuấn, đồng thời là bài học quý cần vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Câu 5: Những chính sách cải cách của Hồ Quý Ly
* Sơ lược về Hồ Quý Ly:
- Hồ Quý Ly (1336-1407) là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử
Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng đế từ năm 1400 đến năm 1401 tự xưng là Quốc Tổ
Chương Hoàng. Hồ Quý Ly được xem là một nhà cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam
và cũng là một nhân vật gây tranh cãi với những luồng ý kiến khen chê khác nhau. Các
sử gia hiện đại đánh giá ông là người có đầu óc mạnh dạn, muốn xoay chuyển thời thế,
nhưng phạm nhiều sai lầm chính trị, mất lòng dân dẫn đến hoạ mất nước. Hồ Quý Ly
để lại bài học cho lịch sử nhiều hơn là cái ông làm cho lịch sử.
* Triều Hồ (1400-1407) - Nhà Hồ thành lập:
Đến năm 1387 Nghệ Tông đưa Quý Ly lên nắm chức Dồng bình chương
sự, quyền như tể tướng cùng vua bàn việc nước.
Năm 1395, Nghệ Tông mất, quyền hành hầu như nằm trong tay Quý Ly.
Năm 1397, Quý Ly cho xây kinh đô mới ở An Tôn (Vĩnh Lộc – Thanh
Hóa) bắt vua dời vào đó, làm lễ nhường ngôi cho con (mới 3 tuổi) tức Thiếu Đế.
Đầu năm 1400, không chần chừ được nữa, Quý Ly truất ngôi vua Trần, tự
lập làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi sang họ Hồ và đổi quốc
hiệu là Đại Ngu. Nhà Hồ thành lập.
- Cải cách của Hồ Quý Ly:
Về Chính trị :
• Năm 1397, Quý Ly quy định cơ chế lv “lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi
huyện. Phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng đều làm gộp một số
của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét”.
• Năm 1400, sau khi lên ngôi, Quý Ly đặt lệ cử quan ở Tam quán và Nội
nhân đi về các lộ thăm hỏi đời sống nd và tình hình quan lại để thăng, giáng.
Về Kinh tế:
• Năm 1397, theo đề nghị của Quý Ly, vua Trần xuống chiếu hạn định số ruộng tư.
• Để kiểm tra việc thực hiện chủ trương hạn điền, năm 1398, Quý Ly cho
các quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất. lOMoAR cPSD| 22014077
Về Tài chính:
• Nổi bật là việc ban hành tiền giấy, thu hồi hết tiền đồng.
• Năm 1402, nhà Hồ định lại biểu thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ
đánh vào người có ruộng được chia.
Về Xã hội : Một chính sách có tầm qtrong lớn là hạn chế nô tì. Về VH- GD:
• Hồ Quý Ly là người có ý thức đề cao chữ Nôm.
• Năm 1396, Quý Ly cho sửa đổi c.độ khoa cử, đặt kì thi Hương ở địa
phương và thi Hội ở kinh thành
• Thời Hồ đã xuất hiện súng đại bác (thần cơ sang pháo), sự thực là những
thuyền chiến, người sáng chế là Hồ Nguyên Trừng con cả Quý Ly.
⇒ Hồ Quý Ly nhà cải cách lớn đầu tiên trong ls nước ta và có ý nghĩa mở
màn cho các cuộc cải cách tiếp theo.
- Cuộc xâm lược của nhà Minh và thất bại của nhà Hồ:
• Mùa hè năm 1406, nhà Minh phái 5000 quân kéo sang nước ta, lấy cớ là
hộc tống Trần Thiêm Bình về nước làm vua, nhưng bị quân nhà Hồ đánh tan.
• Cuối 1406, quân Minh vượt qua Lạng Sơn đánh về Thăng Long. Quân
nhà Hồ nhiều phen chống đỡ không nổi phải rút về Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh… và cuối cùng đã thất bại. Đất nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh.
• Nhà Hồ làm vua từ năm Canh Thìn (1400) – năm Đinh Hợi (1407) được
trọn 7 năm thì sụp đổ.
* Cuộc xâm lược của nhà Minh:
1. Cuộc xâm lược của quân Minh và sự thất bại của nhà Hồ -
Tháng 11 - 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh đã huy động một
lực lượng lớn gồm 20 vạn quân cùng với hàng chục vạn dân phu, do tướng Trương Phụ
cầm đầu, chia làm hai cánh tràn vào biên giới nước ta. -
Quân Minh lần lượt đánh bại quân nhà Hồ ở một số địa điểm thuộc Lạng Sơn. Hồ
Quý Ly phải lui về đóng ở bờ nam sông Nhị (sông Hồng), lấy thành Đa Bang (Ba Vì,
Hà Nội) làm trung tâm phòng ngự. -
Ngày 22 - 1 - 1407, sau khi đánh bại quân nhà Hồ ở Đa Bang, quân Minh đánh
chiếm Đông Đô (Thăng Long). Quân nhà Hồ phải lui về cố thủ ở thành Tây Đô. -
Tháng 4 -1407, quân Minh tấn công vào Tây Đồ, Hồ Quý Ly chạy vào Hà Tĩnh và
bị bắt vào cuối tháng 6 - 1407.
2. Nguyên nhân thất bại của nhà Hồ:
- Không đoàn kết được sức dân để tạo nên một cuộc chiến tranh nhân dân.
- Những chính sách của nhà Hồ không hợp lòng dân.
- Đường lối kháng chiến của nhà Hồ thiên về phòng thủ, bị động.
Câu 6: Chế độ quân chủ chuyên chế thịnh đạt dưới thời Lê sơ
Cuộc kháng chiến của nhân dân chống lại ách đô hộ của nhà Minh: Hơn 60
cuộc kn chống Minh. Đặc biệt ckn lớn nhất đã đi từ kn vũ trang phát triển thành
cuộc ctranh giải phóng vĩ đại, đó là ckn Lam Sơn (1408 – 1427). lOMoAR cPSD| 22014077
Khởi nghĩa Lam Sơn và nhà Hậu Lê thành lập:
• Nhờ vào tài tham mưu của Nguyễn Trãi đã giúp Lê lợi lãnh đạo toàn dân
trong ckn 10 năm chống quân Minh giành thắng lợi.
• Hàng loạt các chiến thắng như Tốt Động – Chúc Động (11/1426); Chi
Lăng – Xương Giang (8/10 – 3/11/1427) … đã đi vào lsdt, góp phần làm
nên thắng lợi của ckn Lam Sơn.
• Lê Lợi lên ngôi vua hiệu Lê Thái Tổ, đổi tên nước thành Đại Việt, đóng ở Đông Đô (Hà Nội). - Viết trang 117
Trong thời kỳ Lê Thánh Tông nắm quyền, nhà nước Đại Việt phát triển rực rỡ ở mọi
phương diện từ kinh tế, chính trị, quân sự đến giáo dục, văn hóa, xã hội chứ không chỉ
riêng kinh tế hay giáo dục. Đặc biệt trong thời kỳ này, lãnh thổ Đại Việt được mở rộng
đáng kể sau nhiều cuộc chiến với các nước xung quanh như Chiêm Thành, Ai Lao, Bồn Man.
Về quân sự, vừa lên ngôi, vua đã ra chỉ thị cho các vệ quân, phủ, trấn phải chỉnh đốn
đội ngũ, dạy cho quân lính không quên võ bị. Vua cho tổ chức lại quân đội một cách
hùng mạnh và tinh nhuệ hơn, tiếp tục cho thực hiện phép ngụ binh ư nông từ những đời
trước, đặt ra các chế độ trưng tập, huấn luyện, chế độ cấp pháp cho quân đội.
Về luật pháp, vua Lê Thánh Tông cho hoàn thiện một bộ luật đồ sộ, tư tưởng dùng luật
pháp để trị quốc đặc biệt thành công, đưa nước Đại Việt trở thành nhà nước hùng mạnh,
làm kiểu mẫu cho các đời vua sau noi theo.
Về hành chính, vua Lê Thánh Tông tổ chức lại bộ máy hành chính thành 6 bộ gồm
Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công với những chức năng riêng. Về phân chia chính quyền
các cấp, ông đã xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính cũ dưới thời Lê Thái Tổ, đổi từ 5
đạo thành 13 đạo thừa tuyên. Ngoài ra, Lê Thái Tông còn chỉ thị vẽ các tập bản đồ phục
vụ quản lý hành chính và việc học tập.
Về kinh tế, Lê Thánh Tông chủ trương trọng nông nghiệp, đẩy mạnh các chính sách
phát triển kinh tế. Mọi ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đều phát
triển rực rỡ giúp nền kinh tế Đại Việt nhanh chóng được phục hồi và phát triển.
Về giáo dục, Lê Thánh Tông đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài.
Ông cho mở rộng xây mới nhiều nhà học, kho chứa sách; thường xuyên tổ chức thi cử
lấy nhiều tiến sĩ và trạng nguyên; tích cực cải tổ giáo dục, ra những chính sách mới
nhằm tránh gian lận trong thi cử.
Về văn hóa, Nho học trở nên chiếm ưu thế. Vua chú trọng đến việc biên soạn lịch sử, sách, thơ văn.
Các thành tựu trong nước và ngoại giao của Lê Thánh Tông đã giúp Đại Việt trở thành
quốc gia lớn mạnh trong khu vực, được các nước láng giềng kiêng nể. Thời kỳ này
thường được gọi là Hồng Đức thịnh trị, vì diễn ra trong những năm Hồng Đức. lOMoAR cPSD| 22014077
Câu 7: Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn và hệ quả đối với tình
hình Đại Nam nửa cuối TK 19 - Viết trang 205
* Đối ngoại với Trung Quốc:
- Nhà Nguyễn chủ trương thần phục.
- Năm 1803, Gia Long cử xứ bộ sang Trung Quốc xin quốc hiệu và cầu phong. -
Năm 1804, nhà Thanh sai xứ sang phong vương cho Gia Long. Từ đó nhà Nguyễn
phải định kỳ cống nạp.
* Đối ngoại với Pháp:
“Cõng rắn cắn gà nhà”: Đại diện của Nguyễn Ánh ký Hiệp ước Versailles (1787) với
Pháp để lấy quân và phương tiện đánh nhà Tây Sơn, đổi lại phải cắt cửa biển Đà Nẵng
và đảo Côn Lôn cho Pháp kèm vô số điều khoản khác. Đây được coi là hiệp ước bán
nước đầu tiên của triều Nguyễn, xâm phạm tới chủ quyền lãnh thổ biển đảo ở Việt Nam.
Tuy hiệp ước không được thi hành vì cách mạng 1789 ở Pháp nổ ra, nhưng vẫn là một
hiệp ước mở đường cho xâm lược Việt Nam.
Minh Mạng lên nối ngôi sau khi vua Gia Long băng hà. Lúc đầu Minh Mạng sẵn sàng
tiếp khách ngoại quốc, về sau ông tuy một mặt tiếp Chaigneau (Lãnh sự của Pháp) song
đã cứng rắn hơn khi viết thư làm rõ thương ước được áp dụng lâu nay, không cần lập
thêm/riêng một thương ước nào khác vì đã có phần nghi ngại đối với việc tiếp xúc người
Pháp. Tàu Cléopâtre bị từ chối sau đó. Chaigneau hiểu rõ sự “đóng cửa” và thái độ dè
chừng của vua Minh Mạng nên về Pháp. Tàu Thetis và Esperance cập bến và tặng vật
phẩm, tuy nhiên vua lấy cớ để không ra tiếp. Tàu Thetis lén lút cử giáo sĩ Rogerot ở lại để truyền đạo.
“Dụ cấm đạo”: Ở Dụ cấm đạo đầu tiên, Minh Mạng nhấn mạnh “Đạo Phương Tây là
tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục cho nên phải nghiêm cấm để
người ta phải theo chính đạo”. Giáo sĩ phương Tây đẩy mạnh truyền đạo dẫn đến Dụ
cấm đạo lần 2 ra đời: yêu cầu từ quan tới dân nghèo phải thực lòng bỏ đạo, nếu không sẽ bị xử phạt nặng.
Ở các đời vua sau, nhà Nguyễn vẫn rất thận trọng với việc truyền đạo của thực dân
Pháp. Thời vua Triệu Trị, ông cấm người ngoại quốc giảng đạo, trị tội người theo đạo,
xây dựng thành lũy phòng thủ những nơi hiểm yếu sau khi hiểu được dã tâm xâm lược
của Pháp. Thời vua Tự Đức, lệnh Dụ cấm đạo được thi hành mạnh tay hơn, mở đầu thời
kỳ tàn sát giáo sĩ phương Tây mới và tạo thêm lý do Pháp mở rộng xâm lược Việt Nam.
Giai đoạn xâm lược và những văn kiện mang tính “bán nước”: Trong thời kỳ đầu Pháp
xâm lược Việt Nam, triều đình Huế vì muốn cố gắng duy trì nền phong kiến, đã ký hàng
loạt hiệp ước “bán nước” với Pháp, mở ra thời kỳ nô lệ của dân tộc dưới ách cai trị của
thực dân. Cụ thể là các hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Harmand (1883)
và Patenôtre (1884). Nền ngoại giao phong kiến từ đây cũng chấm dứt.
* Đối với các nước láng giềng:
Với Vạn Tượng, Chân Lạp: Các vua Nguyễn đã có một chiến lược ngoại giao nhằm
đảm bảo an ninh cho vùng biên giới phía tây và tây nam Tổ quốc, thể hiện vị thế của
một nước phong kiến vững mạnh trong khu vực, nâng cao thanh thế uy danh của đất
nước trong quan hệ khu vực lúc đó.
Với Xiêm La: Xiêm La là quốc gia quân bình với nước ta về nhiều mặt nên triều
Nguyễn phải có một đường lối đối ngoại đảm bảo quan hệ ngoại giao hòa bình lâu dài.
Nhà Nguyễn đã biết áp dụng khéo léo phương châm ngoại giao "không bỏ bạn tìm thù”
trong quan hệ với triều đình Xiêm La, đặt vấn đề đấu tranh ngoại giao lên hàng đầu.
Hai bên liên tục cử sứ đoàn thông hiếu, tặng quà cho vua hai nước. Có những tình huống lOMoAR cPSD| 22014077
buộc phải áp dụng biện pháp quân sự, nhưng về cơ bản tình hòa hiếu lân bang đã được
triều Nguyễn duy trì gìn giữ cho đến ngày thực dân Pháp gây chiến ở Việt Nam.
*Thời kỳ Pháp thuộc bắt đầu từ khi nào?
Pháp thuộc là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884
khi Pháp ép triều đình Huế kí Hòa ước Giáp Thân cho đến 1945 khi Pháp mất quyền
cai trị ở Đông Dương. Tuy nhiên, nhiều tài liệu khác cho rằng thời kỳ Pháp thuộc cần
được tính từ năm 1867 (tức là kéo dài gần 80 năm), khi Nam Kỳ Lục tỉnh bị nhà Nguyễn
cắt nhượng cho Pháp, trở thành lãnh thổ đầu tiên Pháp chiếm được trong quá trình Pháp xâm lược Đại Nam.
Trong thời kỳ này, Pháp thôn tính Việt Nam, Campuchia và Lào. Mất chủ quyền, Việt
Nam bị chia cắt thành 3 xứ riêng biệt với ba cơ cấu hành chính riêng: xứ thuộc địa Nam
Kỳ và hai xứ bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Cao Miên (Campuchia), Ai Lao cũng chịu sự
cai trị của Pháp, và nhượng địa Quảng Châu Loan tiếp theo bị gom vào Liên bang Đông Dương.
Tháng 9 năm 1945, Pháp đem quân trở lại Việt Nam. Tuy người Pháp đã thừa nhận Việt
Nam là nước tự do trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp nhưng chiến
tranh Đông Dương vẫn bùng nổ và Pháp đã thất bại sau 9 năm chiến tranh. Pháp buộc
phải công nhận nền độc lập của Việt Nam (cũng như Lào và Campuchia), chính thức
chấm dứt thời kỳ Pháp thuộc, đồng thời kéo theo sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của Pháp
và các nước thực dân khác trên khắp thế giới vào thập niên 1950 – 1960.
→ Hòa ước Giáp Thân (1884), ký kết giữa nhà Nguyễn và Pháp, mở đầu thời Pháp
thuộc hoàn toàn của Việt Nam
Câu 8: Những biến chuyển của xã hội VN dưới tác động của cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp * Những chuyển biến về
cơ cấu kinh tế:
- Nông nghiệp: xuất hiện các đồn điền trồng lúa, cao su nông nghiệp quy mô lớn.
- Xuất hiện một số cơ sở công nghiệp: công nghiệp khai mỏ, công nghiệp phục vụ đời sống.
- Giao thông vận tải: hình thành các tuyến đường sắt, đường bộ, cầu cảng lớn.
- Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu được du nhập vào Việt Nam, tồn tại
song song với phương thức bóc lột phong kiến. * Những chuyển biến xã hội:
- Tính chất: chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. - Cơ cấu xã hội:
+ Các giai cấp cũ: địa chủ phong kiến, nông dân bị phân hoá.
+ Xuất hiện các tầng lớp, giai cấp mới: công nhân, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị,
tạo điều kiện cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo xu hướng mới.
- Mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt
- Xem cuộc khai thác thuộc địa lần 1 (tờ đề cương giữa kì) lOMoAR cPSD| 22014077
Câu 9: Sự ra đời và hoạt động của Hội VN Cách mạng thanh niên Ra đời
Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt Nam được Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng 6
năm 1925 từ 9 thành viên của Tâm Tâm xã đã được ông giác ngộ. Nguyễn Ái Quốc là
người lãnh đạo Hội. Trong số các thành viên lớp đầu có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn,
Lê Hồng Phong, Vương Thúc Oánh, Trương Vân Lĩnh, Lưu Quốc Long, Lâm Đức Thụ,
Nguyễn Thanh Phúc. Trụ sở của Hội đặt tại Quảng Châu.
Theo Chánh mật thám Pháp là Louis Marty, Nguyễn Ái Quốc ngay sau khi đến Quảng
Châu đã nghiên cứu tính cách của từng cá nhân của tất cả những người Việt Nam ở
Quảng Châu từng theo Phan Bội Châu (Tâm Tâm xã,...) và chọn ra những người nói
trên để thành lập Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt Nam . Tôn chỉ
Điều lệ của Hội Thanh Niên Cách Mạng Việt Nam nêu: "Hội Thanh Niên Cách Mạng
Việt Nam phấn đấu để thu phục lấy đại bộ phận thợ thuyền, dân cày và binh lính, dẫn
đạo cho quần chúng bị lao khổ ấy liên hiệp với vô sản giai cấp thế giới để một mặt đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, chế độ phong kiến; một mặt tham gia vào cuộc thế giới
cách mạng sản trừ tư bản chủ nghĩa cả thế giới đặng thực hiện chủ nghĩa cộng sản".
Trong cuốn Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc viết rằng: "Nói tóm lại là phải theo
chủ nghĩa Mã Khắc TưMarx và Lênin".
Hoạt động chính
Tuần báo Thanh niên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với chức năng tuyên
truyền và vận động.Bìa tập Đường Kách mệnh, là tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái
Quốc tại các lớp bồi dưỡng chính trị do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức.
Sau khi thành lập, Hội đã phái người về nước để tuyển người sang Trung Quốc dự các
lớp huấn luyện ở Quảng Châu hay để gửi sang Liên Xô học tại Trường Đại học Phương
Đông. Đồng thời, Hội tiến hành lập các chi bộ các cấp ở trong nước. Từ đầu năm 1925
đến tháng 9 năm 1927, Hội đã tổ chức được 10 khóa đào tạo cho các học viên được
tuyển mộ. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các học viên sau đó được tập hợp lại
thành tập sách Đường kách mệnh.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Hội xuất bản tuần báo tiếng Việt Thanh
niên từ tháng 6 năm 1925 phát hành trong số những người Việt Nam sống ở miền Nam
Trung Quốc cũng như đưa về nước và đưa sang Xiêm. Báo này vừa tuyên truyền đường
lối cách mạng của Hội vừa phê phán những tồn tại ở các tổ chức cách mạng khác như
Việt Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng.
Hội cũng tuyển người đi học quân sự để sau này thành lập một lực lượng vũ trang cách
mạng ở Việt Nam. Lê Hồng Phong được gửi tới Leningrad học về không quân. Một số
khác được gửi tới Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 2 năm 1927, Hội lại ra tờ Lính
Cách mệnh để tuyên truyền giác ngộ binh lính Việt Nam.
Năm 1927, các kì bộ lần lượt ra đời, sau đó là tỉnh bộ, thành bộ và cuối cùng là huyện
bộ. Năm 1929, cơ cấu tổ chức của Hội gồm 5 cấp được thiết lập và phát triển khắp đất
nước. Số lượng hội viên lên tới 1.700 người và có cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm ( Thái
Lan). Hội đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong
nhân dân và trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân chống Pháp.
Năm 1928, Hội chủ trương "vô sản hóa", tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao
ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân càng phát triển mạnh, lOMoAR cPSD| 22014077
trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước, nổ ra tại các trung tâm kinh tế, chính trị.
Năm 1927, Tưởng Giới Thạch tổ chức bắt bớ những người Cộng sản Trung Quốc. Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng bị đàn áp. Nguyễn Ái Quốc phải lánh sang Liên
Xô. Nhiều đảng viên ưu tú của Hội như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Duy Điếm,
Trần Văn Cung, Trương Vân Lĩnh, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Thanh Phúc v.v... bị bắt.
Tổng bộ Hội phải di tản sang Ung Châu, (Quảng Tây) rồi lại sang Hồng Kông.
Ở trong nước, các chi bộ Hội phát triển mạnh. Theo tổng kết của mật thám Pháp, ở
trong nước Hội có khoảng 1000 đảng viên và cảm tình, có kỳ hội ở cả ba miền. Tuy
nhiên các chi bộ này cũng bị chính quyền thực dân lùng bắt ráo riết. Ở Nam Kỳ, tháng
12 năm 1928, Ngô Thiêm bị bắt và bị tử hình. Tôn Đức Thắng bị kết án chung thân.
Phạm Văn Đồng bị đày đi Côn Đảo. Ở Bắc Kỳ, Nguyễn Văn Lân bị bắt và bị tử hình.
Cuối tháng 3 năm 1929, tại Hà Nội một nhóm Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
gồm 7 người đã họp nhau tự lập tổ chức Cộng sản đầu tiên trong nước. Nhóm này đặt
ra mục tiêu vận động chuyển Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thành Đảng Cộng
sản nhân dịp Đại hội lần thứ nhất của Hội dự kiến họp ở Hồng Kông vào tháng 5 năm 1929.
Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội, 3 đại biểu của nhóm Cộng sản mới thành lập do Trần
Văn Cung (bí danh là Quốc Anh) dẫn đầu nêu vấn đề đã dự định, nhưng bị Tổng bộ Hội bác bỏ
Sau Đại hội lần thứ nhất, Hội lên kế hoạch thành lập Đảng Cộng sản vào cuối năm
1930. Nhưng trước tình hình, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập vào tháng 6
năm 1929 và tình hình Hội bị đàn áp trong nước, Tổng bộ Hội cho rằng Việt Nam Cách
mạng Thanh niên "... không thể và không nên tồn tại nữa, nên đã cử các đồng chí về
nước tổ chức và liên kết các chi bộ cộng sản lại để thành lập Đảng Cộng sản". Sau khi
Đại hội toàn quốc của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội bế mạc, 6 ủy
viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm,
Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Văn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng
sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương
này, những cộng sản đoàn còn lại trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội
đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ
còn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc).
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tan rã từ đây. Song các đảng viên của Hội đã
thành lập và tham gia các Đảng Cộng sản trong nước mà sau này hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 10: Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản VN Bối cảnh
Trong nước
Tình hình đầu thế kỉ XX hết sức biến động, đặc biệt sau Thế chiến thứ 1, Pháp là quốc
gia thắng trận nhưng kinh tế gần như bị sụp đổ; để khôi phục nền kinh tế, Pháp ra sức
gia tăng bóc lột các quốc gia thuộc địa để làm giàu cho chính quốc. lOMoAR cPSD| 22014077
Các phong trào cứu quốc trong nước đã chuyển từ giai cấp phong kiến sang giai cấp tư
sản, hàng loạt các tổ chức chính trị bí mật ra đời. Nhiều tờ báo có chủ trương cứu quốc
cũng được thành lập tại khắp cả nước.
Đầu năm 1930, cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Quốc
dân Đảng, đồng thời đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam. Tổ chức Cộng sản
Trước năm 1929 tổ chức Cộng sản đầu tiên là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
(thường gọi là Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội) được thành lập tại Trung
Quốc, tuyên truyền quảng bá con đường đấu tranh trong nước đồng thời truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lê. Nhưng tới đầu năm 1929 các đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên phân rã một cách sâu sắc về đường lối chính tr
Ngày 1 tháng 5 năm 1929, Đại hội toàn quốc Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp
ở Hương Cảng (Hồng Kông), đoàn đại biểu Bắc Kỳ do đại biểu Ngô Gia Tự ra đề nghị
giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng. Đề nghị đó không được Đại hội chấp nhận nên đoàn đại biểu Bắc Kỳ
bỏ hội nghị ra về; đến ngày 17 tháng 6 năm 1929 thì Đông Dương Cộng sản Đảng được
thành lập bởi Kỳ bộ Bắc Kỳ.
Tháng 8 năm 1929, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Nam Kỳ họp Đại
hội tuyên bố giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và thành lập An Nam Cộng
sản Đảng. Sau khi thành lập, hai đảng phê phán và chia rẽ nhau.
Tháng 9 năm 1929, bộ phận đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt thành lập Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn, hoạt động chủ yếu tại Trung Kỳ.
Được nghe báo cáo về tình hình không thống nhất giữa các tổ chức cộng sản ở trong
nước và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị tan rã, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm tới
Trung Quốc vào ngày 23-12-1929. Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công ngày 6-1-1930 để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930. Ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960 quyết nghị "từ nay trở đi
lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng".
Để chỉ đạo Hội nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tự phê bình
và phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình trạng xung
đột, công kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó và thành thật hợp tác để
thống nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam và thảo luận thông qua Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc
thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
Những ý kiến chỉ đạo đó của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.
Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã
phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm
của họ. Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện công lOMoAR cPSD| 22014077
nhận đảng viên chính thức quá khắt khe, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học
sinh hội cũng quá khắt khe.
Đông Dương Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện công nhận
đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức,
đảng có tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt.
Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản.
Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thông
qua kế hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thống
nhất cách cử Ban Chấp hành Tung ương lâm thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có năm ủy viên
do Đông Dương Cộng sản Đảng cử, Nam Kỳ có hai ủy viên do Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng cử. Như vậy, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời
có tổng số bảy ủy viên.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Hội nghị
quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội phản đế. Theo
đó, Công hội và Nông hội sẽ thu hút những công nhân và nông dân không thể kết nạp
vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản vào Hội Phản đế. Hội nghị xác định rõ thái
độ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là cử
cán bộ vào Nam Kỳ để lãnh đạo và đưa tổ chức này vào Hội Phản đế, đối với Tân Việt
thì không giải tán và cũng đưa vào Hội Phản đế, kết nạp những người ưu tú trong tổ
chức đó vào Đảng. Đảng chủ trương tranh thủ Quốc dân Đảng, thu nạp đảng viên của
Đảng này vào Hội Phản đế. Để thực hiện chủ trương đoàn kết các tố chức cách mạng
trong Mặt trận phản đế, "Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm họp đại biểu tất
cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh,
v.v. để thành lập Mặt trận phản đế và về sau cá nhân hoặc tổ chức đều có thể gia nhập".
Đảng sẽ thành lập Hội Cứu tế do những đảng viên được Đảng cử ra phụ trách và tuyên
truyền phát triển hội viên. Hội Cứu tế làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị bảo vệ những
chiến sĩ cách mạng, giúp đỡ họ và gia đình họ về vật chất khi họ bị chính quyền thực
dân bắt bớ, kết án và tù đày…
Về báo chí của Đảng, Hội nghị thành lập Đảng quyết định bỏ những tờ báo của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng xuất bản trước đây. Xuất bản một
tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là mốc son đánh dấu sự trưởng thành của
phong trào cách mạng Việt Nam, là bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó
là thành quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Chánh cương văn tắt, Sách lược văn tắt của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn
tắt của Đảng. lOMoAR cPSD| 22014077
Chánh cương vắn tắt của Đảng chủ trương làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cuộc cách mạng ấy, về phương diện xã hội thì làm sao cho dân chúng
được tự do, nam nữ bình quyền và phổ thông giáo dục theo công nông hóa; về phương
diện chính trị: đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, làm cho nước
Việt Nam hoàn toàn độc lập, tổ chức ra chính phủ công nông binh và quân đội công
nông; về phương diện kinh tế thì phải thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp
lớn của đế quốc Pháp giao cho Chính phủ công nông binh quản lý, thu hết ruộng đất
chia cho dân nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày mở mang công nghiệp và nông nghiệp,
thi hành luật ngày làm tám giờ.
Sách lược vắn tắt của Đảng ghi rõ: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Đảng phải tập hợp được đại bộ phận giai cấp và làm cho giai cấp lãnh đạo được dân
chúng. Đảng phải đoàn kết được đại đa số nông dân, phải dựa vững vào nông dân nghèo,
phải hết sức lãnh đạo nông dân nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ đại địa chủ và
phong kiến, Đảng phải "hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên,
Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận không khi nào nhượng một chút lợi
ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp". Hơn nữa khi tuyên truyền khẩu hiệu
"nước An Nam độc lập", Đảng phải đồng thời nêu khẩu hiệu đoàn kết chặt chẽ với các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Chánh cương vắn tắt của Đảng, sách lược vắn tắt của Đảng là cương lĩnh cách mạng
đầu tiên vạch ra con đường đi cho cách mạng Việt Nam. Chánh cương, Sách lược vắn
tắt có giá trị vô cùng to lớn - là một trong những nền tảng quan trọng xây dựng nên
đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta.
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời nhưng chưa có lực lượng, tổ chức, chánh cương
không cụ thể, chưa phải là một đoàn thể Bônsơvích chân chính "nhưng có tinh thần
cộng sản" và muốn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Xét nguyện vọng chính đáng
của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, ngày 24-2-1930, hai đồng chí thay mặt cho đại
biểu của Quốc tế Cộng sản (tức Nguyễn Ái Quốc) là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu,
hai đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hạ Bá Cang (tức Hoàng
Quốc Việt) và Phạm Hữu Lầu cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời Chấp ủy
Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ đã họp Hội nghị, chấp nhận sự sáp nhập của Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết chỉ rõ Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cử một người tham gia Lâm thời
Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ; đồng thời, Lâm thời Chấp ủy của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Chấp ủy Liên đoàn phải thông báo để cho các đồng
chí trong Đảng biết Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 22014077
Câu 11: Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân
dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
1. Bối cảnh lịch sử và diễn biến cuộc Tổng khởi nghĩa
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân
Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một
loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít
Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân
Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu
hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các
nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông
Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng
minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này
cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong
chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng
cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm
đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào
cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ
động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu
tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống
nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng
bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị
thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về
nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn
Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày
4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban
chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu
toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho
ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền
từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba
nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23
giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi
nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách
lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca;
thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước
tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn
quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.