Loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất là: Nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa| Tiểu luận biến chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất | Học viện Hành Chính Quốc Gia

Loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất là: Nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa| Tiểu luận biến chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất | Học viện Hành Chính Quốc Gia. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 20 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

PHẦN MỞ ĐẦU
Loài ngưi đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là: Nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, , bản chủ nghĩa hội chủ
nghĩa. duy phát triển, nhận thức của con người không dừng li một
chỗ. Từ khi sản xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt, trình độ khoa học kỹ
thut lạc hậu thì ngày nay trình độ khoa học đạt tới mc tột đỉnh. Không ít
các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đổ sức bỏ công cho các vấn đề này
cụ thể là nhận thức con ngưi, tronđó triết học. Với ba trường phái trong
lịch sử phát triển của mình chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy m trường
phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học
đó sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất
hội. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất được mác Ănghen khái quát thành qui luật vsphợp giữa
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Từ những luận trên đưa c -
Ănghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Không chỉ tn phương
din triết học mà cả chính trị kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Dưới những hình thức mức độ khác nhau, con người ý thức
mức độ khác nhau, con người ý thức được hay không tnhn thức
của hai ông về qui luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Biện chứng quan h sản xuất với lực ng sản xuất tạo điều kiện cho
sinh viên i chung i nói riêng được một nhận thức về sản xut
hội. Đồng thời mmang được nhiu lĩnh vực về kinh tế. Thy được vị trí, ý
nghĩa của nó. i mnh dạn đưa ra nhận định của mình về đề i "Quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. Sự vận dụng
của Đảng ta trong đường lối đổi mới Việt Nam"
Tuy nhiên do trình đnhận thức hiu biết về mọi mt còn hạn chế, nên
không tránh khỏi những sai sót mong thầy giáo góp ý để bài viết được
hoàn thiện hơn.
2
B. NỘI DUNG
Chương I
SỰ NHẬN THỨC VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN
XUẤT QUI LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH
CHT
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
I/ ĐÔI NÉT VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT QUAN HỆ SẢN
XUẤT.
1.
Lực lượng sản xuất ?
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do hội tạo ra,
trước hết là công c lao động những người lao động với kinh ngiệm
thói quen lao động nhất định đã sử dụng những liệu sản xuất đó để tạo ra
của cải vật chất cho xã hội.
Từ thực trạng đó lun về lực lượng sản xuất của hội được C.Mác
nêu n phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bcho bộ
"Tư bản" chính trong bộ "Tư bản" Mác đã trình bày hết sức ràng quan
đim của mình về các yếu tcấu thành lực lượng sản xuất của hội trong
đó bao gồm sức lao động tư liệu sn xuất. Đối với Mác cùng với tư liệu
lao động đối với lao động cũng thuộc về liệu sản xuất, còn trong liệu
lao động tức tất cả những yếu tố vật chất con người sử dụng để tác
động đối tượng lao đng như ng clao động, nhà xưởng, phương tiện
lao động, sở vật chất kho tàng... thì vai trò quan trọng hơn c thuộc v
công cụ lao động. ng cụ lao động yếu tố quan trọng nhất linh hoạt
nhất ca tư liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ sản xuất thì
phải dựa vào công clao động. Muón đánh giá sự phát triển của một hội
người ta nhìn vào hệ thóng công cụ lao động như máy móc, phương tiện...
Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính con
người cho dù những tư liu lao động được tạo ra từ trước sức mạnh đến
đâu đối tượng lao động phong phú như thế nào thì con người vẫn
bậc nhất.
Lịch sloài người được đánh dấu bởi c mốc quan trọng trong sphát
triển của lực lượng sản xuất trước hết công clao động. Sau bước ngoặt
sinh học, sự xuất hiện ng cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác
trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng n bắt hái lượm
sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên dần dần cải tạo tự
nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp ng nghệ lạc hậu chuyển lên khí hoá
sản xuất. Sự phát triển lực ng sn xuất trong giai đoạn này không chỉ
gii hạn việc ng một cách đáng kể số ng thuần tvới các công c
đã mà chủ yếu là việc tạo ra những công choàn toàn mới sdụng
bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc năng nhọc
cho máy móc điều kiện để phát huy c năng lực khác của mình.
nước ta từ trước tới nay nn kinh tế lấy ng nghiệp làm chủ yếu,
nên trình độ khoa học k thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta đang
trong tình trạng kế thừa những lực lượng sn xuất vừa nhỏ nhoi, vừa lạc
hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá
dài, những lực lượng ấy bị kìm m, phát huy tác dụng m. Bởi vậy Đại
hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mi năng lực
sản xuất hin có. Khai thác mọi khả năng tiềm ng của đất nước, sử dụng
hiu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất”.
Mặt khác chúng ta đang trong giai đoạn mi trong sự phát triển của ch
mng khoa học kỹ thuật đang chứng kiến những biến đổi cách mng trong
công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái
hin mt khác nhanh chóng tiếp thu cái mi do thời đại tạo ra nhm
dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong. Nếu phân tích một
4
cách khách quan thì ràng lực ng sản xuất của ta đang ứng với cả ba
giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất trong nền văn minh li người.
Thực tế hiện nay trong nhiu ngành sn xuất công cthủ công vẫn đang là
chủ yếu, lao động nng đang chiếm tlệ cao. Cần khẳng định một vn đề
tính quy luật trong lịch sử bao gicũng sự đan xen của trình độ phát
triển khác nhau trong từng yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên trên thực tế song song với tình trạng lạc hu trong phạm vi
hẹp nhất định, chúng ta đang dần dần đi lên với tự đng hoá, sdụng thành
thạo máy móc vi tính...Đó cách tốt nhất để đưa ớc ta ra khi lạc hu
nghèo nàn.
2.
Quan hệ sản xuất được hiểu ra sao:
Quan hệ sản xuất mối quan hệ giữa con người vi con người trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất của hội, trong quá trình sản xuất
con ngưi phải những quan hệ, con người không th tách khỏi cộng
đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự đã
vn đề tính qui luật rồi. Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm ba mặt.
- Chế độ sở hữu về liệu sản xut tức quan hệ giữa người đối với
liu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức quản sản xuất, kinh doanh, tức quan hệ giữa
người với người trong sản xuất trao đổi của cải vật chất như phân công
chuyên môn hoá hợp tác hoá lao động quan hệ giữa ngưi quản với
công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức quan hệ chặt chẽ với
nhau cùng một mục tiêu chung là sdụng hợp hiu quả liệu
sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy i sản
xuất mở rộng, ng cao phúc lợi người lao động. Đóng góp ngày càng
nhiu cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong cải tạo củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng đại hội
VI nhấn mnh phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ
quản chế độ phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt
lun, không nghi ngờ rằng: chế độ sở hữu nền tảng quan hệ sản xuất .
đặc trưng để phân biệt chẳng những các quan hệ sn xuất khác nhau
n các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như mức đã nói.
- Thực tế lịch sử cho thấy bất cứ một cuộc cách mng hi nào đều
mang một mục đích kinh tế nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất
điu kiện tiếp tục phát triển thuận lợi đời sống vật chất của con người
cũng được cải thiện. Đó tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển
biến giữa các hình thái kinh tế - hội trong qkhứ cũng tính lịch
sử tự nhiên của thời kỳ quá độ thình thái kinh tế - hội bản chủ nghĩa
sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định ttính
chất của s hữu cũng quyết định tính chất của quản phân phối. Mặt
khác trong mỗi hình thái kinh tế - hội nhất định quan hệ sản xuất thống
trị bao gicũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiu ci
biến chúng để chẳng những chúng khong đối lập còn phục vụ đắc lực
cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - hội mi.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế - xã hội nào
đã tồn tại kể từ trước đến nay chuẩn nhất. Trong mi hình thái kinh tế -
hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị, điển hình còn tồn tại những
quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như tàn dư của xã hội cũ. Ngay cả
các nước bản chủ nghĩa phát trin nht cũng không chỉ một quan h
sản xuất bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt
nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất không những giữa các
nước khác nhau mà n giữa các vùng và các ngành khác nhau của một
nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như C.Mác
6
nhận xét: "Không bao giờ xuất hin trước khi những điều kiện tồn tại vật
chất của những quan hệ đó chưa chín muồi..." phi một thời kỳ lịch sử
tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất trên.
3.
Nhận thức về phạm trù hình thái kinh tế - hội cộng sản.
Bắt nguồn từ nhn thức về qui luật phát triển của hội loài người
mt qtrình lịch stự nhiên, đồng thời xuất phát từ những điều kin mi
của thực tế lịch sử hin nay thể khẳng định các nước chậm phát triển
cũng khả năng tiến lên CNXH tùy theo hoàn cảnh khả năng của
mình. Khả ng qđộ lên CNXH y thường được gọi con đường quá
độ gián tiếp lên CNXH, con đường bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư
bản chủ nghĩa. Con đường phát triển theo khả năng này còn được gọi
con đường theo định ớng hội chủ nghĩa. Theo kinh nghiệm thực tế
của Lênin đây một con đường k lâu i phải qua nhiều bước trung
gian, phát trin qua đấu tranh giai cấp rất phức tạp. Sự đi lên phải sự
ủng hộ
giúp đỡ n ngoài. Trước hết trong nước đó cn một Đảng
của giai cấp sản lãnh đạo, một đảng quan hệ mật thiết "sống còn" với
dân. Từ đó tổ chức áp dụng lãnh đạo trong đó cả vận dụng qui lut sản
xuất phù hợp với nước đó một cách tích cực để không ngừng tiến bước.
II- QUI LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH
CHẤT TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1.
Quan hệ sn xuất lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay p hp.
Trong tác phẩm góp phần p phán khoa kinh tế - chính trị m 1859
C.Mác viết "Trong sự sản xuất hội ra đời sống của mình, con người ta
những quan hệ nhất định, tất yếu kng phụ thuộc ý muốn của họ, tức
những quan hệ sản xuất. Những qui luật này phợp với một trình độ phát
triển nhất định ca lực lượng sản xut. Những quan hệ này p hợp với
mt trình độ pt triển nhất định của lực lượng sản xuất vật cht của họ..."
Người ta thường coi tưởng này của Mác tưởng về "Qui luật quan hệ
sản xuất phợp với tính chất trình độ của lực ng sản xuất".
Các mi quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau
mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất dạng
những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những mối lien hệ chủ yếu
bản là mối liên h giữa quan h sản xuất với tính chất trình độ của lực
lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai u tố bản này gì? Phù
hợp hay không p hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác
định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
- Phù hợp sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay "sự
yên tĩnh" giữa các mặt.
- Phù hợp một xu hướng những dao động không n bằng sẽ đạt
tới.
Trong phép biện chứng sự n bằng chỉ tạm thời sự không cân
bằng tuyệt đối. Mâu thuấn đôi khi là động lực của sựphát triển . Ta biết
rằng trong phép biện chứng i tương đối không tách khỏi i tuyệt đối
nghĩa giữa chúng không mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn
nhận một cách khác thể hiểu sự n bằng như một sự đứng im, còn s
không n bằng thể hiểu như sự vận động. Tức sự n bằng trong sn
xuất chỉ tạm thời n không n bằng không phợp giữa chúng tuyệt
đối. Chỉ thquan nim được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận
tính cn vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vậy chỉ có thể quan nim
được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát
triển trong u thuẫn ca lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất chừng
nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
Từ những luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với qtrình phát
triển lịch s lâu i của mình từ thời kđồ đá đến thời văn minh hin đại.
Nước ta đi từ sự không phợp hay sự lc hậu từ
nền văn minh lúa nước.
8
Tuy nhiên quá trình vận động phát triển của sản xuất qtrình đi t
sự không phợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ stạm
thi, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất ti tự nhiên, thủ tiêu cái kng thủ tiêu
được, tức là sự vận động.
Tóm lại, thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất quan hệ sản xuất qui luật mâu thuẫn. Sphợp giữa
chúng chỉ một cái trục, chỉ trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận
động, dao động smâu thuẫn vĩnh viễn chỉ khái niệm u thuẫn mới
đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới thể cho ta hiểu được
sự vận động của qui luật kinh tế.
2.
Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất hai
mặt hợp thành của phương thức sản xuất tác động qua lại biện chứng với
nhau. Việc đẩy quan hsản xuất lên qxa so vi tính chất trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là mt hiện tượng tương đối phổ biến nhiều
nước xây dựng hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của ng sai lầm y
bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn nhanh chủ nghĩa xã hội thun nhất bất
chấp qui luật khách quan. Về mặt pơng pháp luận, đó chủ nghĩa duy
vật siêu hình, q lạm dụng mối quan hệ tác động ngược li của quan hệ
sản xuất đối với sphát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu
hin "Nhà nước chuyên chính sản khả năng chủ động tạo ra quan
hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất".
Nhưng khi thực hin ngưi ta đã quên rằng sự "chủ động" không đồng
nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện, con người không thể tự do tạo ra bất c
hình thức nào của quan hệ sản xuất mình muốn có. Ngược li quan hệ
sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngt bởi trạng thái của lực
9
lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát triển của
lực ng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ th mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển khi được hoàn thiện tất cả v nội dung của nó,
nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất lực
lượng sản xuất.
+ Lực ng sn xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan h
sản xuất: lực lượng sản xuất cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong
sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất
cao phi luôn tìm cách cải tiến công clao động. Chế tạo ra ng cụ lao
động mới. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ
sản xuất ki quan hệ sản xuất kng thích ứng với trình độ, tính chất của lực
lượng sản xuất t kìm m thậm cphoại lực lượng sản xuất thì
kìm m thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hsản xuất đối với lực lượng sn xuất.
Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì độc lập tương đối vi lực
lượng sản xuất và trở thành những sở những thể chế xã hội
không thể biến đổi đng thời đối với lực lượng sản xuất. Tng lạc hậu so
với lực lượng sản xuất nếu quan h sản xuất phù hợp với trình độ sản
xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất tạm thời thì
kìm m sự phát trin
của lực lượng sản xuất. Sở quan hệ sản xuất
thtác đng mnh mẽ trở li đối với lực lượng sản xuất qui định mục
đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản sản xuất quản
hội, qui định phương thức phân phối phần của cải ít hay nhiều người
lao đng được hưởng. Do đó nh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng
lao đng. tạo ra những điều kiện hoặc ch thích hoặc hạn chế sphát
triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thut vào sản xuất
hợp tác phân công lao động quốc tế.
10
Chương II
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐƯỜNG LỐI
ĐỔI MỚI VIỆT NAM
I/ SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY NƯỚC TA.
Sau khi giành được chính quyền từ tay đế quốc Pháp nn kinh tế nước
ta đi lên theo nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, nền sản xuất nh trình
độ khoa học m phát triển, quan hệ giữa lực lượng sản xuất vi trình độ
sản xuất rời rạc, tẻ nhạt. Đánh thắng đế quốc Pháp t giặc Mỹ lại xâm
chiếm đánh pnước ta. Thế rồi non sông v một mối cả nước đi lên chủ
nghĩa hội với một lực ng sản xuất lớn và tiềm ng mọi mặt n non
trẻ đòi hỏi nước ta phải một chế độ kinh tế phợp với nước nhà do
đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời. Nhìn thẳng vào sự thật
chúng ta thy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan
hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu quan
hệ khác, do quên mất điều bản ớc ta quá độ đi lên chủ nghĩa hội
từ một hội tiền bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ ng hữu với chủ
nghĩa hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá tập thể hoá. Không thấy
các ớc đi tính qui luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến
hành ngay cuộc cải tạo hội chủ nghĩa đối vi nền kinh tế quốc n và
xét về thực chất theo đường lối "đẩy mạnh ci tạo hội chủ nghĩa, đưa
quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát trin.
Thiết lập chế độ ng hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn n
tập thể". Quan niệm cho rằng thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo
địa n rộng i, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. S
phát triển của lực ng sản xuất hội này đã mâu thuẫn với những i
phân tích trên. Trên con đường tìm i lối thoát của mình từ trong lòng nền
12
hội đã nảy sinh những hin tượng trái với ý muốn chủ quan của chúng ta
nhiu hiện tượng tiêu cực nổi lên trong đời sống kinh tế như quản
m, tham ô,... Nhưng thực ra mâu thun giữa yêu cầu phát triển lực lượng
sản xuất với những hình thức kinh tế - hội xa lạ được áp đặt một cách
chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mi ny sinh
phát triển. Khắc phục những hin tượng tiêu cực trên cần thiết về mặt
này trên thực tế chúng ta chưa làm hết nhim vụ mình phải m. Phải giải
quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất từ
đó khắc phục những kkhăn tiêu cực của nn kinh tế. Thiết lập quan
hệ sản xuất mới với những hình thức bước đi phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất luôn luôn thúc đâỷ sản xuất phát triển với hiệu
quả kinh tế cao. Trên sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà
nước cách mạng. Cho phép phục hồi phát triển chủ nghĩa bản buôn
bán tự do rộng i lợi cho sự phát trin sản xuất. Quan điểm đổi mi từ
đại hội VI cũng đã khẳng định không nhưng khôi phục thành phần kinh tế
bản nhân kinh tế cả thế phải phát triển chúng rộng i theo
chính sách ca Đảng N nước. Nhưng điều quan trọng phải nhn
thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để
thực hin vai trò này một mặt nó phải thông qua snêu gương về các mặt
năng suất, chất lượng hiệu quả. Thực hiện đầy đđối với nhà nước. Đối
với thành phần kinh tế bản nhân kinh tế thể thực hin chính ch
khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế y phi
những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phợp với tính cht
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ qđộ. như
thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
II/ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT P HỢP
VỚI TÍNH CHẤT TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH NG NGHIỆP HOÁ, TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất vận động không ngi biện
chứng nội tại của phương thức sản xuất, vn đề công nghiệp hoá gn chặt
với hiện đại hoá, trước hết phải được xem xét tduy triết học. Trước khi
đi vào công nghiệp hoá - hin đại hoá muốn thành công trên đất nước thì
phải có tiềm lực vkinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một
yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải sphù hợp giữa quan hsản xut với
tính chất trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mi nhân tố
bản nhất.
Đất nước ta đang trong q trình ng nghiệp h - hiện đại h với
tim năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo kinh nghiệm lao
động nhưng ng c của chúng ta n tsơ. Nguy tụt hậu của đất nước
ngày ng được khắc phục. Đảng ta đang trin khai mạnh mẽ một svn đề
của đất ớc về ng nghiệp h- hiện đại hoá trước hết trên sở mt
cấu sở hữu hp quy luật gắn lin với một cấu các thành phần kinh tế hợp
qui luật, cũng như cấu một hội hợp giai cấp. Cùng vi thời lớn,
những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghip công
nghiệp h - hiện đại hoá đất nước n giàu nước mạnh ng bằng văn
minhhãy n phía trước mà nội dung bản trong việc thực hiện phải
nhận thức đúng đắn vqui luật quan hsản xuất p hợp vi tính cht và
trình độ phát trin của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hin nay của
nước ta.
III. HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - HỘI
SỞ LUẬN CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN
ĐẠI HOÁ NƯỚC TA.
Chúng ta đều biết rằng, từ trước đến nay, công nghiệp hoá - hin đại
hoá khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Đối với nước ta, từ
mt nn kinh tế tiu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hu, nhanh
chóng đạt tời trình độ của mt nước phát triển tất yếu phải đẩy mnh sự
14
nghiệp ng nghiệp hoá như một cuộc cách mạng toàn diện sâu sắc.
Đại hội đại biểu ln thứ VIII của Đảng đã khng định "Xây dựng nước ta
thành một ớc công nghiệp sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sn xut, đời sng vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh hội công bằng n minh". Theo quan
đim của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lịch sử sản xuất vật chất của
nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan phổ biến: Một mặt con
người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan
hệ này được biểu hiện lực lượng sản xuất mặt khác con ngưi phải quan
hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện quan h
sản xut. Lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất 2 mặt đối lập nhau
bin chứng của một thể thống nhất không thể tách rời. Tuy nhiên nếu lực
lượng sản xuất
cái cấu thành của toàn bộ lch sử nhân loại tquan hệ
sản xuất cải tạo thành sở kinh tế của hội, sở hiện thực của
hoạt động sản xuất tinh thần những thiết chế tương ứng trong hội.
C.Mác đã đưa ra kết luận rằng hội loài người phát triển trải qua
nhiu giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mi giai đoạn của sự phát triển đó
mt hình thái kinh tế - hội nhất định - rằng tiến bộ hội svận động
theo ng tiến lên của các hình thái kinh tế - hội khác mà gốc rễ sâu xa
của nó sự phát triển không ngừng của lực ng sản xuất. Rằng sự vn
động phát triển của các hình thái kinh tế - hội là do tác động của các
qui luật khách quan. Mác Ănghen đã đưa ra nhiều luận, nhiều
tưởng. Những luận tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình ti
kinh tế - hội chính sở luận cho phép chúng ta khẳng định s
nghiệp công nghiệp hoá - hin đại h theo định ng XHCN nước ta
hin nay là phù hợp với qui luật khách quan trong quá trình phát triển của
dân tộc ta, của thời đại. Đối với nước ta để phù hợp vi lực lượng sản xuất
quan hệ sản xuất đảng ta đã u ng nghiệp hoá phải đi đôi với hiện
đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự v công nghệ với việc tranh th
những hội đi tắt, đón đầu, hình tnh những mũi nhọn phát triển theo
trình độ tiên tiến của khoa học ng ngh thế giới. Mặt khác chúng ta phải
chú trọng xây dựng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiu thành phần,
vận nh theo chế thị trường, có sđiều tiết của nhà nước theo định
hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ được thực hin đồng thời. Chúng luôn
tác động thúc đẩy htrợ lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghip
hoá - hiện đại hoá tạo nên lực lượng sn xut cần thiết cho chế độ hội
mi tviệc y dựng nền kinh tế nhiều thành phần chính để xây dựng
hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp đưa nước ta tiến lên từng ngày như
Đảng và Nhà nước ta mong muốn đa và đang thực hiện.
16
C- KẾT LUẬN
Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất qui luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào lúc nào cũng không thể có được s
phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xut với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải
pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên chính bản
thân các quan hệ sản xuất lại mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng sản
xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp.
Đặc biệt quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất li có nhiu
ln xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển các phương thức sn
xuất tức là quá trình "Đa dạng hoá" cụ thể hơn là quá trình "phù hợp hoá"
các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hin nay của nước ta.
Nếu chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh
cùng với các nước phát triển tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá -
hin đại hoá đã chọn.
Qua i viết này phần nào i hiểu biết được tình hình kinh tế nước
nhà. Những i, những điều kiện Đảng nhà nước ta đang làm để phát
triển đất nước.
Từ đó tôi đôi lời kiến nghị sau:
- Không ngừng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc nhanh chóng
đưa các tiến bộ k thuật của những ớc đi trước ng cường công tác
giáo dục, hướng dần cho người lao động th tiếp thu được những công
nghệ mới.
- Bình thường hoá quan hệ sản xuất, cách nhìn đúng đắn giữa người
làm thuê với ông chủ của mình. Đây một yếu tố quan trng ảnh hưởng
đến chất ng của sản phẩm m ra. Quan hệ sản xuất tốt ngưi lao động
được hưởng mọi quyền lợi họ s ch cực làm việc từ đó ng suất và sản
phẩm không ngừng ng.
Đó đôi lời kiến nghị của tôi, mong rằng góp một phần nhỏ
cùng đất ớc đi lên theo con đường ng nghiệp hoá hiện đại hoá hiện
nay./.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Lênin toàn tập - tập 38 - NXB Matxcơva 1977
2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc ln thứ 7.
3. Tạp c cộng sản số 13 tháng 6 năm 1996
4. Tạp chí phát triển kinh tế
"Công nghiệp hoá nhìn từ biện chng giữa lực ng sản xuất quan
hệ sản xuất". PTS. Lưu Hà Vi.
19
MỤC LỤC
Trang
A/ PHẦN MỞ ĐẦU 1
B/ NỘI DUNG 2
Chương I: Sự nhận thức về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất 2
qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với nh chất trình độ
phát triển ca lực lượng sn xuất
I/ Đôi nét về lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất 2
1. Lực lượng sản xuất ? 2
2. Quan hệ sản xuất
được hiểu ra sao? 3
3. Nhận thức về phạm trù hình thái kinh tế - hội cộng sản. 4
II/ Quy luật quan hệ sản xut phù hợp với tính chất trình độ phát 5
triển của lực lượng sản xuất
1. Quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp 5
2. Qui luật quan hệ sản xuất phợp với tính chất trình độ phát 6
triển của lực lượng sản xuất
Chương II: Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới 8
Việt Nam
I/ Sự hình thành phát triển nền kinh tế nhiều tnh phần trong giai 8
đoạn hiện nay ớc ta.
II/ ng nghiệp hoá
vận dụng tuyệt vi qui luật quan hệ sản xuất phù 9
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
sự nghiệp đổi mi ở nước ta hiện nay
III/ Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - hội, sở lun của sự 10
nghiệp CNH - HĐH
C. KẾT LUẬN 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
20
| 1/19

Preview text:

PHẦN MỞ ĐẦU
Loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là: Nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, , tư bản chủ nghĩa xã hội chủ
nghĩa. Tư duy phát triển, nhận thức của con người không dừng lại ở một
chỗ. Từ khi sản xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt, trình độ khoa học kỹ
thuật lạc hậu thì ngày nay trình độ khoa học đạt tới mức tột đỉnh. Không ít
các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đổ sức bỏ công cho các vấn đề này
cụ thể là nhận thức con người, tronđó có triết học. Với ba trường phái trong
lịch sử phát triển của mình chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và trường
phái nhị nguyên luận. Nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học
đó là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản
xuất như thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất
xã hội. Tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất được mác và Ănghen khái quát thành qui luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Từ những lý luận trên đưa Mác -
Ănghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Không chỉ trên phương
diện triết học mà cả chính trị kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức và
mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì nhận thức
của hai ông về qui luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho
sinh viên nói chung và tôi nói riêng có được một nhận thức về sản xuất xã
hội. Đồng thời mở mang được nhiều lĩnh vực về kinh tế. Thấy được vị trí, ý
nghĩa của nó. Tôi mạnh dạn đưa ra nhận định của mình về đề tài "Quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. Sự vận dụng
của Đảng ta trong đường lối đổi mới Việt Nam"
Tuy nhiên do trình độ nhận thức hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế, nên
không tránh khỏi những sai sót mong thầy cô giáo góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. 2
B. NỘI DUNG Chương I
SỰ NHẬN THỨC VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT, QUAN HỆ SẢN
XUẤT QUI LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
I/ ĐÔI NÉT VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT QUAN HỆ SẢN XUẤT.
1. Lực lượng sản xuất gì?
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra,
trước hết là công cụ lao động và những người lao động với kinh ngiệm và
thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra
của cải vật chất cho xã hội.
Từ thực trạng đó lý luận về lực lượng sản xuất của xã hội được C.Mác
nêu lên và phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ
"Tư bản" và chính trong bộ "Tư bản" Mác đã trình bày hết sức rõ ràng quan
điểm của mình về các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất của xã hội trong
đó bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất. Đối với Mác cùng với tư liệu
lao động đối với lao động cũng thuộc về tư liệu sản xuất, còn trong tư liệu
lao động tức là tất cả những yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác
động và đối tượng lao động như công cụ lao động, nhà xưởng, phương tiện
lao động, cơ sở vật chất kho tàng... thì vai trò quan trọng hơn cả thuộc về
công cụ lao động. Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt
nhất của tư liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ sản xuất thì
phải dựa vào công cụ lao động. Muón đánh giá sự phát triển của một xã hội
người ta nhìn vào hệ thóng công cụ lao động như máy móc, phương tiện...
Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con
người cho dù những tư liệu lao động được tạo ra từ trước có sức mạnh đến
đâu và đối tượng lao động có phong phú như thế nào thì con người vẫn là bậc nhất.
Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát
triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt
sinh học, sự xuất hiện công cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác
trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lượm
sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự
nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp công nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá
sản xuất. Sự phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn này không chỉ
giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lượng thuần tuý với các công cụ
đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những công cụ hoàn toàn mới sử dụng cơ
bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc năng nhọc
cho máy móc có điều kiện để phát huy các năng lực khác của mình.
Ở nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu,
nên trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta đang ở
trong tình trạng kế thừa những lực lượng sản xuất vừa nhỏ nhoi, vừa lạc
hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá
dài, những lực lượng ấy bị kìm hãm, phát huy tác dụng kém. Bởi vậy Đại
hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực
sản xuất hiện có. Khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng
có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất”.
Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách
mạng khoa học kỹ thuật đang chứng kiến những biến đổi cách mạng trong
công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái
hiện có mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời đại tạo ra nhằm
dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong. Nếu phân tích một 4
cách khách quan thì rõ ràng lực lượng sản xuất của ta đang ứng với cả ba
giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất trong nền văn minh loài người.
Thực tế hiện nay trong nhiều ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là
chủ yếu, lao động nặng đang chiếm tỉ lệ cao. Cần khẳng định một vấn đề có
tính quy luật là trong lịch sử bao giờ cũng có sự đan xen của trình độ phát
triển khác nhau trong từng yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên trên thực tế song song với tình trạng lạc hậu trong phạm vi
hẹp nhất định, chúng ta đang dần dần đi lên với tự động hoá, sử dụng thành
thạo máy móc vi tính...Đó là cách tốt nhất để đưa nước ta ra khỏi lạc hậu nghèo nàn.
2. Quan hệ sản xuất được hiểu ra sao:
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình sản xuất
con người phải có những quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng
đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã
là vấn đề có tính qui luật rồi. Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm ba mặt.
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư
liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa
người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công
chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với
nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu
sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản
xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Đóng góp ngày càng
nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà đại hội
VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ
quản lý và chế độ phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý
luận, không nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất .
Nó là đặc trưng để phân biệt chẳng những các quan hệ sản xuất khác nhau
mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như mức đã nói.
- Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều
mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất có
điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người
cũng được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển
biến giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch
sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa
sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính
chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt
khác trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống
trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải
biến chúng để chẳng những chúng khong đối lập mà còn phục vụ đắc lực
cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế - xã hội nào
đã tồn tại kể từ trước đến nay là chuẩn nhất. Trong mỗi hình thái kinh tế -
xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị, điển hình còn tồn tại những
quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở cả
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt
nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất không những giữa các
nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một
nước. Việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như C.Mác 6
nhận xét: "Không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật
chất của những quan hệ đó chưa chín muồi..." phải có một thời kỳ lịch sử
tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất trên.
3. Nhận thức về phạm trù hình thái kinh tế - hội cộng sản.
Bắt nguồn từ nhận thức về qui luật phát triển của xã hội loài người là
một quá trình lịch sử tự nhiên, đồng thời xuất phát từ những điều kiện mới
của thực tế lịch sử hiện nay có thể khẳng định các nước chậm phát triển
cũng có khả năng tiến lên CNXH tùy theo hoàn cảnh và khả năng của
mình. Khả năng quá độ lên CNXH này thường được gọi là con đường quá
độ gián tiếp lên CNXH, con đường bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư
bản chủ nghĩa. Con đường phát triển theo khả năng này còn được gọi là
con đường theo định hướng hội chủ nghĩa. Theo kinh nghiệm thực tế
của Lênin đây là một con đường khá lâu dài phải qua nhiều bước trung
gian, phát triển qua đấu tranh giai cấp rất phức tạp. Sự đi lên phải có sự
ủng hộ và giúp đỡ bên ngoài. Trước hết trong nước đó cần có một Đảng
của giai cấp vô sản lãnh đạo, một đảng có quan hệ mật thiết "sống còn" với
dân. Từ đó tổ chức áp dụng lãnh đạo trong đó có cả vận dụng qui luật sản
xuất phù hợp với nước đó một cách tích cực để không ngừng tiến bước.
II- QUI LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH
CHẤT TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1. Quan hệ sản xuất lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp.
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm 1859
C.Mác viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta
có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức
những quan hệ sản xuất. Những qui luật này phù hợp với một trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với
một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ..."
Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Qui luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất".
Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau
mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng
những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những mối lien hệ chủ yếu cơ
bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù
hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác
định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
- Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay "sự
yên tĩnh" giữa các mặt.
- Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân
bằng là tuyệt đối. Mâu thuấn đôi khi là động lực của sựphát triển . Ta biết
rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối
nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn
nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng im, còn sự
không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự cân bằng trong sản
xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt
đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận
tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm
được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát
triển trong mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng
nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát
triển lịch sử lâu dài của mình từ thời kỳ đồ đá đến thời văn minh hiện đại.
Nước ta đi từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ nền văn minh lúa nước. 8
Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ
sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm
thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu
được, tức là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa
chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận
động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới
đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu được
sự vận động của qui luật kinh tế.
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai
mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với
nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều
nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là
bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất
chấp qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy
vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ
sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu
hiện ở "Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra quan
hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất".
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự "chủ động" không đồng
nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện, con người không thể tự do tạo ra bất cứ
hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ
sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực 9
lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó,
nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ
sản xuất: lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong
sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất
cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao
động mới. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ
sản xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực
lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó
kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực
lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó
không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so
với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản
xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có
thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó qui định mục
đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã
hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người
lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng
lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát
triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất
hợp tác phân công lao động quốc tế. 10 Chương II
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐƯỜNG LỐI
ĐỔI MỚI VIỆT NAM
I/ SỰ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY NƯỚC TA.
Sau khi giành được chính quyền từ tay đế quốc Pháp nền kinh tế nước
ta đi lên theo nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ trình
độ khoa học kém phát triển, quan hệ giữa lực lượng sản xuất với trình độ
sản xuất rời rạc, tẻ nhạt. Đánh thắng đế quốc Pháp thì giặc Mỹ lại xâm
chiếm đánh phá nước ta. Thế rồi non sông về một mối cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội với một lực lượng sản xuất lớn và tiềm năng mọi mặt còn non
trẻ đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp với nước nhà và do
đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời. Nhìn thẳng vào sự thật
chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan
hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan
hệ khác, do quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ
nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Không thấy
rõ các bước đi có tính qui luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến
hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và
xét về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa
quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và
tập thể". Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo
địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái
phân tích trên. Trên con đường tìm tòi lối thoát của mình từ trong lòng nền 12
xã hội đã nảy sinh những hiện tượng trái với ý muốn chủ quan của chúng ta
có nhiều hiện tượng tiêu cực nổi lên trong đời sống kinh tế như quản lý
kém, tham ô,... Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng
sản xuất với những hình thức kinh tế - xã hội xa lạ được áp đặt một cách
chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh
và phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết về mặt
này trên thực tế chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải
quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất từ
đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan
hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất luôn luôn thúc đâỷ sản xuất phát triển với hiệu
quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà
nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và buôn
bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất. Quan điểm đổi mới từ
đại hội VI cũng đã khẳng định không nhưng khôi phục thành phần kinh tế
tư bản tư nhân và kinh tế cả thế mà phải phát triển chúng rộng rãi theo
chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận
thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để
thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt
năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước. Đối
với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách
khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải có
những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như
thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
II/ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TÍNH CHẤT TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện
chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá gắn chặt
với hiện đại hoá, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi
đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá và muốn thành công trên đất nước thì
phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một
yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với
tiềm năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao
động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước
ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề
của đất nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trước hết trên cơ sở một cơ
cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp
qui luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn,
những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vì dân giàu nước mạnh công bằng văn
minhhãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải
nhận thức đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
III. HỌC THUYẾT MÁC VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - HỘI
SỞ LUẬN CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN
ĐẠI HOÁ NƯỚC TA.
Chúng ta đều biết rằng, từ trước đến nay, công nghiệp hoá - hiện đại
hoá là khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Đối với nước ta, từ
một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, nhanh
chóng đạt tời trình độ của một nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh sự 14
nghiệp công nghiệp hoá như là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc.
Đại hội đại biểu lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định "Xây dựng nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Theo quan
điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lịch sử sản xuất vật chất của
nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan phổ biến: Một mặt con
người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó, quan
hệ này được biểu hiện ở lực lượng sản xuất mặt khác con người phải quan
hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở quan hệ
sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là 2 mặt đối lập nhau
biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời. Tuy nhiên nếu lực
lượng sản xuất là cái cấu thành của toàn bộ lịch sử nhân loại thì quan hệ
sản xuất là cải tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của
hoạt động sản xuất tinh thần và những thiết chế tương ứng trong xã hội.
C.Mác đã đưa ra kết luận rằng xã hội loài người phát triển trải qua
nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định - rằng tiến bộ xã hội là sự vận động
theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội khác mà gốc rễ sâu xa
của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Rằng sự vận
động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các
qui luật khách quan. Mác và Ănghen đã đưa ra nhiều lý luận, nhiều tư
tưởng. Những lý luận tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay là phù hợp với qui luật khách quan trong quá trình phát triển của
dân tộc ta, của thời đại. Đối với nước ta để phù hợp với lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất đảng ta đã nêu công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện
đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ
những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo
trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ thế giới. Mặt khác chúng ta phải
chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước và theo định
hướng XHCN. Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời. Chúng luôn
tác động thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ "nếu công nghiệp
hoá - hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội
mới thì việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng
hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp đưa nước ta tiến lên từng ngày như
Đảng và Nhà nước ta mong muốn đa và đang thực hiện. 16
C- KẾT LUẬN
Chúng ta cần phải hiểu và vận dụng một cách tốt nhất qui luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Trên thực tế bất cứ ở đâu và vào lúc nào cũng không thể có được sự
phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Nhưng phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải
pháp phù hợp. Trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
nói chung cũng có sự ràng buộc xuất phát từ chúng. Tuy nhiên chính bản
thân các quan hệ sản xuất lại có mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng sản
xuất. Vấn đề đặt ra là ta sử dụng mối quan hệ ấy như thế nào cho phù hợp.
Đặc biệt quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lại có nhiều
lộn xộn trong việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển các phương thức sản
xuất tức là quá trình "Đa dạng hoá" cụ thể hơn là quá trình "phù hợp hoá"
các loại phương thức sản xuất vào điều kiện thực tế hiện nay của nước ta.
Nếu chúng ta sử dụng đúng các qui luật trên cộng với điều hoà quan hệ lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì không lâu sau nước ta sẽ tiến nhanh
cùng với các nước phát triển tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đã chọn.
Qua bài viết này phần nào tôi hiểu và biết được tình hình kinh tế nước
nhà. Những cái, những điều kiện mà Đảng và nhà nước ta đang làm để phát triển đất nước.
Từ đó tôi đôi lời kiến nghị sau:
- Không ngừng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc nhanh chóng
đưa các tiến bộ kỹ thuật của những nước đi trước và tăng cường công tác
giáo dục, hướng dần cho người lao động có thể tiếp thu được những công nghệ mới.
- Bình thường hoá quan hệ sản xuất, có cách nhìn đúng đắn giữa người
làm thuê với ông chủ của mình. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến chất lượng của sản phẩm làm ra. Quan hệ sản xuất tốt người lao động
được hưởng mọi quyền lợi họ sẽ tích cực làm việc từ đó năng suất và sản phẩm không ngừng tăng.
Đó là đôi lời kiến nghị của tôi, mong rằng nó góp một phần nhỏ bé
cùng đất nước đi lên theo con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay./. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Lênin toàn tập - tập 38 - NXB Matxcơva 1977
2. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7.
3. Tạp chí cộng sản số 13 tháng 6 năm 1996
4. Tạp chí phát triển kinh tế
"Công nghiệp hoá nhìn từ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất". PTS. Lưu Hà Vi. 19 MỤC LỤC Trang A/ PHẦN MỞ ĐẦU 1 B/ NỘI DUNG 2
Chương I: Sự nhận thức về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất 2
qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
I/ Đôi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 2
1. Lực lượng sản xuất là gì ? 2
2. Quan hệ sản xuất được hiểu ra sao? 3
3. Nhận thức về phạm trù hình thái kinh tế - xã hội cộng sản. 4
II/ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát 5
triển của lực lượng sản xuất
1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp 5
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát 6
triển của lực lượng sản xuất
Chương II: Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới 8 Việt Nam
I/ Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai 8
đoạn hiện nay ở nước ta.
II/ Công nghiệp hoá vận dụng tuyệt vời qui luật quan hệ sản xuất phù 9
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
III/ Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội, cơ sở lý luận của sự 10 nghiệp CNH - HĐH C. KẾT LUẬN 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 20
Document Outline

  • B. NỘI DUNG
  • CHẤT
  • Chương II
  • C- KẾT LUẬN
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • MỤC LỤC