



















Preview text:
LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC - PHÁP LUẬT THẾ GIỚI
Đọc thêm: Các Ls về PQTG
Chương 1: Nhà nước và pháp luật thế giới thời cổ đại
A. Quá trình hình thành nhà nước, pháp luật
Chuyên đề 1: CHIẾM HỮU NÔ LỆ
Cổ đại--- Trung đại----- Cận đại----- Hiện đại - Chiếm hữu nô lệ là
- Pháp luật là công cụ của giai cấp thống trị, sinh ra để thành khuôn mẫu chuẩn mực,
đ/c QHXH, do Nhà nước đặt ra (thành văn, bất thành văn -> Tập quán, Án lệ)
- Nhà nước (Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn độ, Trung, Hi Lạp – cái nôi NN) là một tổ chức
xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực
hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà
nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai
cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị (kinh tế,
chính trị, xã hội) thành lập nên nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ hoạt
động của xã hội trong một quốc gia do vậy nhà nước mang vai trò xã hội, trong đó
chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống trị. Nhà nước xuất hiện khi có
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xuất hiện những giai cấp đối kháng nhau do vậy
mà nó cần một tổ chức chính trị đứng ra để điều hòa những mâu thuẫn ấy và để quản lí xã hội.
• Ở Phương Đông: Ai Cập (Kênh đào Xuy – nê)(Sa mạc Nubian), Lưỡng
Hà (Bộ luật Hamurabi), Ấn độ, TQ
• Phương Tây: Hi Lạp, LA MÃ
1. Quá trình hình thành NN 2. Chế độ XH 3. Tổ chức BMNN
4. Các đặc trưng cơ bản của NN
1. Nguồn gốc Nhà nước
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc nhà nước.
Theo thuyết Thần học, cho rằng nhà nươc là do thượng đế sinh ra để quản lý xã hội, quyền lực nhà
nước là vĩnh cửu và vô tận nên việc phục tùng quyền lực ấy là cần thiết và tất yếu.
Theo thuyết khế ước xã hội, nhà nước là một sản phẩm của một bản hợp đồng(khế ước) giữa những
con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Khi đó, nhà nước phải phục tùng xã hội,
phục vụ mọi thành viên của xã hội. Khi nhà nước không thực hiện được chức năng của nó, các thành
viên trong xã hội sẽ huỷ bỏ khế ước cũ lập ra một khế ước mới, một nhà nước tiến bộ hơn sẽ ra đời.
Theo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước ra đời trên cơ sở của sự tan rã chế độ công xã
nguyên thuỷ. Có hai nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, đó là sự xuất hiện
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất (nguyên nhân kinh tế) và sự mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng
trong xã hôị, mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt đến mức không thể điều hoà được nữa (nguyên nhân xã hội).
Mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng trở nên gay gắt, làm cho chế độ công xã
nguyên thuỷ trước đây với thị tộc, bộ lạc không thể kiểm soát, quản lý xã hội được nữa, mà cần một tổ
chuác mới ra đời, đó chính là nhà nước. Nhà nước ra đời, đó là sự thay đổi hẳn về lượng. Đó là một bộ
máy bạo lức, gồm có quân đội, cảnh sát, nhà tù. .để đàn áp những người lao động.
b. Nguồn gốc pháp luật – Theo chế độ chính chủ tuyệt đối
- Được thần thánh hóa do hk gọi là VUA bth mà gọi là Thiên Tử
- Nắm nhiều nhánh quyền lực -
Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đó là một điều tất yếu khách quan. Xét về
phương diện chủ quan, pháp luật do nhà nước đề ra và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của mình, trở
thành một công cụ có hiệu quả nhất để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, nó quản lý xã
hội theo mục đích của nhà nước cũng tức là mục đích của giai cấp thống trị.
Trước khi pháp luật xuất hiện, tổ chức thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng những phong tục tập quán
với bản chất của nó là nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội. Khi nhà nước xuất hiện
cùng với việc các quan hệ trong xã hội phát triển vượt bậc cả về bề rộng và chiều sâu, các phong tục tập
quán này không còn có thể điều chỉnh được nữa mà cần một loại quy phạm xã hội mới đó chính là pháp luật.
Pháp luật được hình thành bằng nhiều cách với những hình thức khác nhau.
- Con đường thứ nhất là “luật pháp hoá”, “nhà nước hoá”. Nhà nước thừa nhận và nâng lên những
tập quán có lợi cho mình. Đó là “tập quán pháp”. Có tập quán được nhà nước chính thức thừa nhận và
đưa vào nội dung bột luật, nhưng cũng cõ những tập quán được nhà nước mặc niên thừa nhận. Như vậy
có tập quán pháp thành văn và tập quán pháp không thành văn. Điển hình là ở các nước phương Đông
như ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam. .
- Con đường thứ hai là do nhà nước ban hành mới. Do nhu cầu điều chỉnh những quan hệ ngày càng
phức tạp, phong phú, sâu và rộng mà tập quán pháp không thể điều chỉnh được hết. Pháp luật được tồn
tại dưới dạng thành văn và bất thành văn. Pháp luật thành văn ra đời ngay từ khi xuất hiện chữ viết.VD
như luật 12 bảng của La Mã cổ đại, bột luật Hammurabi của Lưỡng Hà cổ đại. .
c. Đặc điểm hình thành nhà nước ở phương Đông
Trong tất cả phạm vi các cộng đồng, tầng lớp quý tộc lúc ban đầu vốn thực hiện “chức năng xã hội”
đảm bảo lợi ích chung của cả cộng đồng, rồi chuyển sang “địa vị độc lập đối với xã hội” và cuối cùng
“vươn lên thành sự thống trị đối với xã hội”.
B. Nhà nước ở một số quốc gia tiêu biểu
1.1. Phương Đông cổ đại 1.1.1. Ai Cập:
1.1.1.1. Quá trình ra đời của nhà nước Ai Cập cổ đại (Sông Nin)
Qua những tài liệu và tư liệu khảo cổ học cũng như theo sự ghi chép của các sử gia Hy lạp
Herodotes, Diodore, Strabon và nhất là Manetho với tài liệu “Lịch sử Ai Cập” cho chúng ta thấy Ai Cập
là một trong những trung tâm văn minh lớn của nhân loại. Văn minh Ai Cập phát triển ở vùng Đông Bắc
châu Phi, trải qua 4 giai đoạn là Tảo vương quốc (3200 – 3000 TCN), Cổ vương quốc (3000 – 2200
TCN), Trung vương quốc (2200 – 1570 TCN) và Tân vương quốc (1570 – 1100 TCN). Xã hội có giai
cấp và Nhà nước xuất hiện vào thời kỳ đầu của Cổ vương quốc.
Trước khi Nhà nước hình thành, đất nước Ai Cập tồn tại các thiết chế chính trị đầu tiên gọi là
các châu (Nome), được hình thành do sự tan rã của các công xã thị tộc. Đứng đầu mỗi châu là thủ
lĩnh (nomarque), ông ta có quyền tổ chức chính quyền, quân đội, tụ hội nhân dân và xây dựng các công
trình thủy lợi để tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Năm 3200 TCN, bằng các cuộc chiến tranh
chính phục và thôn tính, vua Thượng Ai Cập là Menes đã đánh chiếm Hạ Ai Cập và sát nhập hai vùng
này thành một nhà nước thống nhất và đến thời Cổ vương quốc, chế độ chiếm hữu nô lệ hình thành.
Bước sang thời Trung – Tân vương quốc, nhà nước Ai Cập đã đạt đến sự phồn thịnh và trở thành một đế
quốc rộng lớn có lãnh thổ trải dài từ Bắc Phi sang tận Trung Đông, Nam Á. Thiết chế chính trị - xã hội
được hình thành với đầy đủ những đặc tính cơ bản của nó.
1.1.1.2. Tổ chức bộ máy nhà nước, quân đội (TW – địa phương)
Đứng đầu bộ máy nhà nước là Pharaoh. Ông có quyền lực rất lớn: bổ nhiệm hoặc bãi miễn chức
vụ của quan lại, quyết định các công việc quan trọng của quốc giaa. Pharaoh là người sở hữu tối cao về
ruộng đất, có quyền phân phát ruộng đất và của cải theo ý mình. Quyền lực tối thượng của ông ta được
tín ngưỡng hóa làm cho nó trở thành thứ siêu nhiên, huyền bí.
Thứ hai sau Pharaoh là Tể tướng (Vizier) và tăng lữ cấp cao (high priest). Tể tướng là là vị quan
có quyền thứ hai sau Pharaoh, thay mặt vua quản lý đất nước, chịu trách nhiệm về tổ chức hệ thống các
quan lại trong triều đình, các hoạt động về nông nghiệp. Tăng lữ cấp cao nắm giữ nhiều tài sản lớn như
nhà thờ, ruộng đất và đồ tế tự và là lực lượng quan trọng của hoàng gia Ai Cập cổ. Thứ ba là quý
tộc (royal overseers). Họ là lực lượng chủ yếu của hoàng gia, có sức mạnh kinh tế và chính trị lớn và là
trụ cột của triều đình Ai Cập cổ đại. Cuộc đấu tranh giành giật quyền lợi về chính trị - kinh tế giữa hai
giai cấp quý tộc – tăng lữ chi phối sự thăng trầm của lịch sử Ai Cập.
Thứ tư là các tỉnh trưởng quản lý các tỉnh (district governors - thường là các quốc gia bị Pharaoh
chinh phục và biến thành tỉnh). Thứ năm là thư lại (Scibes). Họ là những người có học thức, biết chữ. Họ
chuyên ghi chép tài liệu, bảo quản sổ sách, tài liệu của hoàng gia, thường được tuyển chọn trong các kỳ
thi chọn quan lại. Thứ sáu là những nghệ nhân (artisans) chuyên về xây dựng đền đài, chạm khắc các
hoa văn tinh xảo. Cuối cùng là nông dân công xã (Farmers) và nô lệ (labourer). Nông dân công xã trong
xã hội Ai Cập chiếm 90% dân số và là lực lượng sản xuất chính nuôi sống xã hội. Họ sống trong những
công xã thị tộc mà ở đó, các hộ nông dân được phân chia ruộng đất (hằng năm, 3 năm/lần) để cày cấy và
họ phải nộp một phần sản phẩm cho lãnh đạo công xã. Trong công xã, quyền quản lý thuộc về Hội đồng
trưởng lão và các công xã thị tộc tồn tại dai dẳng cho đến khi xã hội có giai cấp xuất hiện. Đến thời Tân
vương quốc, Pharaoh Ahmose I và những người kế vị đã thành lập một chính quyền mạnh, gia tăng sự
can thiệp của Nhà nước vào các công xã nói chung và các thành viên công xã nói riêng. Nhà nước một
mặt kiểm soát chặt chẽ thi hoạch mùa màng của nông dân, mặc khác lại cung cấp giống và gia súc cho
các thành viên công xã theo định mức nhất định. Nô lệ là lực lượng khá đông đảo trong xã hội, họ bị coi
như tài sản và có quyền mua bán, chuyển nhượng. Số lượng nô lệ ngày càng tăng chủ yếu là các thành
viên công xã bị phá sản hay bị bần cùng hóa.
Bộ máy nhà nước tuy tương đối cồng kềnh, nhưng hoạt động một cách hiệu quả và chặt chẽ.
Ngoài những quy định trong tuyển chọn quan lại theo thứ bậc, nhà nước ban hành nhiều quy định về
hoạt động, thẩm quyền của các bộ phận từ trung ương đến địa phương, ban bố những sắc lệnh quy định về sự trừng phạt.
1.1.1.3. Luật pháp (Ma’at), ý nghĩa
Người đứng đầu hệ thống pháp luật là Pharaoh, người chịu trách nhiệm thi hành pháp luật, thực
thi công lý, duy trì pháp luật và trật tự, một khái niệm được người Ai Cập cổ đại gọi là Ma'at[1]. Mặc dù
không có bộ luật nào từ thời Ai Cập cổ đại còn tồn tại, thư liệu của tòa án cho thấy luật pháp Ai Cập
được dựa trên một cái nhìn chung về ý thức đúng và sai mà nhấn mạnh tới việc đạt được thỏa thuận và
giải quyết xung đột thay vì tôn trọng đúng một tập hợp quy chế phức tạp. Thời Cổ - Trung vương quốc,
quyền xét xử tối cao thuộc về Pharaoh. Dưới ông là một số bồi thẩm đoàn do các quan đại thần đứng
đầu. Đến thời Tân vương quốc quyền xét xử được phân thành tòa án cấp trung ương và tòa án cấp địa
phương (vùng và khu). Tòa án trung ương gồm 30 người. Tòa án địa phương (Kenbet) chịu trách nhiệm
về phán quyết trong các phiên tòa liên quan đến các vụ kiện nhỏ và tranh chấp nhỏ. Trường hợp nghiêm
trọng hơn liên quan đến giết người, giao dịch đất lớn, và cướp mộ được đưa đến Đại Kenbet, mà tể
tướng hoặc pharaoh chủ trì. Nguyên đơn và bị đơn dự kiến sẽ đại diện cho bản thân và phải thề một lời
tuyên thệ rằng họ đã nói sự thật. Ngoài tòa án Nhà nước, ở Ai Cập còn có cả tòa án Tôn giáo.
Bộ máy tư pháp hình thành khá sớm, đồ sộ nhưng thẩm quyền của nó chưa tách bạch với hành
pháp. Sự mờ nhạt về ranh giới giữa quản lý hành chính và quyền xét xử là đặc trưng của chế độ chiếm
hữu nô lệ chuyên chế. Quyền tư pháp chỉ là bộ phận đặc thù của quyền hành pháp.
1.1.2. Lưỡng Hà: ( rất khác với Ai cập về đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa)
1.1.2.1. Quá trình ra đời của nhà nước Lưỡng Hà cổ đại
Người Sumer từ xa xưa đã định cư ở vùng Mesopotamie (Lưỡng Hà, nắm giữ hai sông Tigris và
Euphrates). Vào giữ thiên niên kỷ IV TCN, người Sumer chuyển dần từ công xã nguyên thủy sang xã
hội có nhà nước. Nhiều quốc gia đầu đã ra đời ở Lưỡng Hà dưới dạng thành bang như Ur, Lagash, Kish,
Nippur…, tồn tại độc lập với nhau. Đứng đầu các thành bang này là Pateshi và sau ông là cả bộ máy nhà
nước tương đối hoàn chỉnh. Về sau, do tranh giành quyền lực liên miên giữ các thành bang nên người
Sumer không giữ nổi quyền cai trị ở vùng đất này và phải nhường lại cho người Akkad, một tộc người
thuộc tộc Semites rất mạnh ở phía Bắc Lưỡng Hà. Vào thế kỷ XXIV TCN, người Akkad đánh bại các
thành bang Sumer và thống trị Lưỡng Hà. Thời kỳ Akkad (2369 – 2253 TCN) là thời kỳ thịnh trị của
người Semites. Tuy nhiên, do các nguyên nhân chính trị - kinh tế, đặc biệt là chiến tranh liên miên giữa
Akkad với các dân khác làm Đế quốc Akkad suy yếu và sụp đổ. Vương triều III của Ur cũng có thống
nhất Lưỡng Hà, nhưng nó không bền vững và chẳng bao lâu sau thì sụp đổ.
Lợi dụng sự suy yếu của Lưỡng Hà, người Elam và Amorites bằng nỗ lực của mình đã tạo ra
những quốc gia rất hùng mạnh như Larsa, Isin, Assyria, Babylon…, trong đó vương quốc Baby lon xuất
hiện vào năm 1895 TCN là quốc gia hùng mạnh nhất. Thời Hammurabi (1792 – 1750 TCN), vương
quốc này đã đánh bại các vương quốc khác của người Elam, đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - chính
trị - quân sự. Khi đế quốc này suy yếu, nó bị người Kassites, Assyria đánh chiếm, rồi được người
Chaldea phục hồi một thời gian (vương quốc Tân Babylon, 626 – 538 TCN) để rồi cuối cùng bị ngoại bang tiêu diệt.
1.1.2.2. Tổ chức bộ máy nhà nước, quân đội (TW – địa phương)
Vào thiên niên kỷ IV TCN, khi người Sumer thành lập các quốc gia (hoặc thành bang), họ đã tổ
chức một bộ máy nhà nước tương đối chặt chẽ. Đứng đầu các quốc gia này là Pateshi. Ông là người có
quyền tối cao (nắm vương quyền – thần quyền), nắm giữ ruộng đất và tư liệu sản xuất, được truyền giữ
thế tập. Ngoài Pateshi ra còn có Hội đồng trưởng lão, Hội nghị nhân dân và các quan chức bộ máy chính
quyền, quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia. Về cấu trúc xã hội, người Sumer (và các tộc
người kế tiếp) chia xã hội thành các tầng lớp như quý tộc, tăng lữ, quan lại, quan binh chuyên nghiệp,
nông dân công xã (hay dân tự do), thợ thủ công và nô lệ. Đến thời Babylon, bộ máy nhà nước được củng
cố từ trung ương đến địa phương. Vua là hiện thân của thần linh, đứng đầu vương quyền – thần quyền và
có quyền lực vô hạn. Sau vua có cả một bộ máy quan lại cồng kềnh. Ở địa phương thì vua chia thành các
tỉnh và cử Thống đốc đến cai trị. Vua nắm quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp và là quan tòa tối cao ở
Babylon; dưới Vua là bồi thẩm được bầu từ những người già cả và có danh tiếng; tăng lữ chỉ tham gia
các phiên tòa khi họ làm lễ tuyên thệ cho các nhân chứng.
Về xã hội, vua giữ nguyên cấu trúc như thế, chỉ thay đổi bằng cách chia dân tự do thành hai loại:
Avilum và Mushkenu. Tầng lớp Avilum được coi là người có quyền lợi chính trị - pháp luật, nhất là
quyền sở hữu tài sản, thừa kế. Còn dân Mushkenu có địa vị thấp hèn hơn và bị phân biệt đối xử với
người Avilum. Chẳng hạn, khi hai loại người này bị phạm tội thì người Mushkenu bị phạt nặng hơn; nếu
cả hai bị ai đó gây hại thì người Avilum được bồi hoàn nhiều hơn. Về địa vị xã hội, người Mushkenu
chịu thiệt thòi hơn. Luật Hammurabi quy định, nếu người Mushkenu tát một người Avilum có địa vị cao
hơn minh thì anh ta bị đánh trước sự có mặt của dân chúng, còn đánh người ngang địa vị mình thì chỉ
nộp phạt. Về nô lệ, luật Hammurabi bảo vệ quyền sở hữu nô lệ một cách tuyệt đối. Nếu kẻ nào làm mất
dấu cho nô lệ thì bị chặt tay, kẻ nào giúp đỡ hay chứa chấp nô lê thì bị tử hình. Về địa vị nô lệ, luật cho
phép người Mushkenu và nô lệ cung đình được lập gia đình, có nhà cửa và tài sản. Nếu con nợ thiếu nợ
mà không có khả năng chi trả thì bị phạt làm công cho chủ nợ 3 năm. 1.1.2.3. Luật pháp
a. Luật thành Ur (luật của vua Urnammu)
Luật thành Ur được xem là bộ luật sớm nhất của Lưỡng Hà cổ đại. Nó ra đời vào thế kỷ XXI
TCN dưới thời vua Urnammu, có 40 điều khoản (hiện dịch được 32 điều). Bộ luât là sự tổng hợp thành
tựu luật học của các thời kỳ trước, phân chia rõ 4 lĩnh vực là hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình và tố tụng hình sự.
+ Về hình sự, luật quy định: các hành vị phạm tội như giết người, cướp, đưa ra bằng chứng giả
mạo, ngoại tình… đều bị tử hình. Ngoài ra, luật quy định các hình phạt khác như tù giam (điều 3) và
phạt tiền (điều 8, 9, 10). Các trường hợp gây thương tích người khác (làm mù mắt, gẫy chân, tàn phế…)
sẽ bị phạt tiền: làm mù mắt người khác bị phạt 30 schekel (điều 18); làm gẫy chân bị phạt 10 schekel
(điều 19); trong lúc ẩu đả, nếu làm người kia tàn phế và không lao động được thì bị phạt 60 schekel (điều 20).
+ Về dân sự, luật đã đặt ra vấn đề bồi thường tài sản (điều 31, điều 32); quyền sở hữu tài sản
(điều 30) và hợp đồng thuê mướn (điều 32). Điều 30 Bộ luật Urnammu qui định: “ Người lén lút trồng
cây trên thửa đất của người khác thì hoa lợi trên đất đó sẽ không thuộc về anh ta. ” hay Điều 31 qui định:
“Người làm ngập úng đồng lúa mạch của người khác, người đó sẽ bị phạt phải bồi thường. ”; Điều 32:
“Nếu một người đã thuê người khác cày cấy, nhưng người này đã không thực hiện đúng nghĩa vụ cam
kết mà bỏ hoang cánh đồng ấy, anh ta sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và bị phạt”.
+ Về hôn nhân – gia đình, luật Urnammu bảo về quyền lợi của người đàn ông (cụ thể là người
chồng). Điều 11 qui định: “Nếu một người đàn ông mà ngủ với một người phụ nữ góa bụa, anh ta sẽ
không bị nộp phạt.”, ngược lại “nếu một người phụ nữ đã kết hôn mà ngoại tình đi theo một người đàn
ông khác thì người phụ nữ đó sẽ bị giết và người đàn ông được trả tự do ” (Điều 7). Ngoài ra, bộ luật
cũng bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Luật quy định người chồng được quyền ly hôn, nhưng người chồng
đó phải nộp cho người vợ một khoản tiền rất lớn. Điều 9 qui định: “Nếu một người đàn ông mà muốn ly
dị người vợ đầu tiên của mình, anh ta phải trả cho người vợ đó 60 schekel ” hay Điều 10 qui định: “Nếu
một người đàn ông mà muốn cưới lại người vợ mà mình đã ly dị, anh ta sẽ phải trả người phụ nữ đó 30 schekel.”.
+ Về xét xử - tố tụng, luật có nhiều quy định (nhưng mang tính tôn giáo nhiều hơn). Về tố tụng thì
dùng hình thức thử tội (ordeal). Điều 13 qui định: “Nếu một người bị cáo buộc là dùng tà đạo ma thuật,
anh ta phải chịu thử tội bằng hình thức ném xuống sông. Nếu anh ta vô tội (không bị chết), anh ta sẽ
được tha.” Điều 14 qui định: “Nếu một người đàn ông bị cáo buộc là đã thông dâm với vợ của người
đàn ông khác, anh ta sẽ phải chịu thử tội bằng hình thức ném xuống sông. Nếu qua thử tội cho thấy anh
này vô tội thì người đã cáo buộc anh ta thông dâm phải trả anh ta 20 schekel”. Về xét xử thì những vị
tăng lữ chính là thẩm phán xét xử. Họ xét xử công khai ở cổng ra vào của các thành thị để người dân ý
thức pháp luật và coi trọng công lý. Về nô lệ, luật quy định nô lệ là người tự do, họ có tài sản riêng, được
giao kết hợp đồng (Điều 32), được quyền kết hôn, thậm chí được quyền kết hôn với người tự do (Điều 5).
b. Luật Eshnunna (hay luật Bilalama)
Nó là bộ luật thứ hai của Lưỡng Hà sau luật Urnammu. Bộ luật được các nhà khảo cổ học tìm thấy
vào năm 1982 ở Iraq. Luật có 60 điều khoản, quy định cụ thể các vấn đề trong đất nước Eshnunna. Bộ
luật bảo vệ quyền lợi giai cấp thống trị, quy định hình phạt với dân thường: Avilum và Mushkenu, nếu
phạm tội thì bị trừng phạt. Về hình sự, luật quy định có 5 loại hành vi vi phạm pháp luật: trộm cắp, tịch
biên giả mạo, tội phạm tình dục, tội cố ý gây thương tích; bị thương do bò, chó cắn. Phần lớn các loại tội
phạm phải chịu hình phạt bằng tiền (một lượng bạc nhất định), nhưng một số tội phạm nguy hiểm như
trộm đêm, giết người, một số tội phạm tình dục bị xử tử hình.
Ở bộ luật này, nó phân chia xã hội thành nhiều giai cấp khác nhau: awilum – những người đàn ông
và đàn bà tự do; muškenum; nô lệ (nam và nữ), các giai cấp khác như: ubarum, apþarum, mudum (không
được xác lập chắc chắn là gì).
c. Luật Hammurabi ( Luật thành văn đầu tiên của nhân loại)
Luật Hammurabi là bộ luật tiêu biểu nhất của Lưỡng Hà cổ đại. Bộ luật được các nhà khảo cổ Pháp
phát hiện ở Susa (Đông Babylon) vào năm 1901. Luật Hammurabi gồm 282 điều, được khắc trên cột đá
bazan cao 2,25 m, đường kính đáy 2 m. Bộ luật được các nhà soạn luật soạn vào thế kỷ XVIII TCN, tuy
nhiên chưa phân định rõ ràng giới giữa hình luật, dân luật, luật tố tụng hay hôn nhân gia đình.
Về nguồn gốc, bộ luật là sự kết tinh các quy định do vua Hammurabi và Tòa án cấp cao để lại.
Đồng thời, luật có sự kế thừa các bộ luật của người Sumer; luật Lipitistar của Nippur và luật Eshnunna
(thế kỷ XX TCN). Bộ luật thể hiệ tư tưởng chính trị của Vua muốn thông qua luật pháp để hạn chế, xoa
dịu mâu thuẫn xã hội ở Babylon, củng cố và phát triển kinh tế - xã hội thông qua mua bán nhà cửa,
ruộng vườn, gia súc, vay mượn… phát triển đa dạng
+ Chế định hợp đồng, vay mượn: luật quy định muốn thực hiện hợp đồng phải có 3 điều kiện: (1)
tài sản chưa lưu thông; (2) người bán là chủ sở hữu; (3) việc ký kết hợp đồng có sự làm chứng của một
số người. Về hợp đồng mua bán, luật quy định: người bán nếu bị người làm chứng tổ cáo là mình bán đồ
của người khác sẽ bị tử hình; chủ đồ vật không chứng minh cho người làm chứng biết đồ bị mất là của
mình cũng bị tử hình (tội vu khống, điều 9; 11)
+ Chế độ lĩnh canh ruộng đất. Luật quy định mức tô thường là 1/3 đến ½ sản phẩm; mức tô vườn
cây ăn quả chiếm 2/3 sản phẩm (điều 41). Có thiên tai xảy ra, người lĩnh canh chịu thiệt hại nhiều nhất:
trả trước không vì thế được bồi hoàn (điều 45; 46); không trả đúng hạn thì phải trả lại cả nợ lẫn lãi suất
(điều 48). Mức lãi suất khá cao: 20% nếu là vay tiền, 33,3% nếu là vay lương thực. Luật cho phép chủ
nợ bảo lãnh bằng bất động sản của con nợ và gia đình con nợ.
+ Hôn nhân – gia đình. Luật quy định người chồng là chủ trong gia đình, có toàn quyền kinh tế - xã
hội, bán vợ đợ con cho người khác dưới hình thức con nuôi (điều 185; 188). Vợ vô sinh thì chồng được
ly hôn, vợ có thể lấy lẽ và ở lại nhà chồng. Quyền ly hôn của phụ nữ bị hạn chế. Phụ nữ được ly hôn nếu
chồng ngoại tình, bỏ nhà ra đi, vu cáo vợ ngoại tình.
+ Thừa kế tài sản. Luật quy định 2 hình thức thừa kế: theo luật và di chúc. Khi người quá cố để lại
tài sản mà không di chúc thì tài sản thuộc về người thừa kế. Thừa kế theo di chúc có xuất hiện nhưng rất
hạn chế. Luật quy định thêm nếu con trai không mắc tội nặng thì cha được thừa kế tài sản của con. Con
trai – con gái thừa kế ngang nhau, con nô tì cũng được thừa kế nếu người cha nhận làm con mình.
+ Hình luật trong luật Hammurabi khắc nghiệt. Hầu hết các quy định về hình sự đều cho phép áp
dụng hình thức “báo thù”, “trả nợ máu”, mức hình phạt luôn tương xứng với mức tội ác: giết người thì
xử tội chết, làm chết con người khác thì con của phạm nhân cũng phải chết, nếu bị vu cáo giết người thì
phải tự tử…. Khi xã hội phân giai cấp thì hình luật thay đổi. Người Mushkenu tát một người Mushkenu
khác bị phạt 84 g bạc. Luật cũng quy định phạt vạ: cả công xã phải trả phạt cho người bị cướp tài sản
nếu không tìm ra thủ phạm, người bị hại chết thì công xã nộp phạt thêm. Những loại tội phạm đặt biệt
nghiêm trọng như giết người, cướp của (30 loại theo luật Hammurabi) sẽ bị xử tử. Hình thức xử tử khắc
nghiệt: đốt trên giàn lửa, đóng cọc, dìm xuống nước…
+ Phân biệt đẳng cấp. Luật quy định, kẻ nào giúp đỡ nô lệ chạy trốn hay xâm phạm tài sản riêng bị
phạt. Kẻ nào ăn cắp gia súc hay thuyền bè bị phạt nặng từ 10 – 30 lần so với giá trị tài sản đó, nếu kẻ đó
không thể bồi hoàn thì bị giết. Quản lý làm thất thoát tài sản của gia chủ thì bị phanh thây bằng bò kéo.
+ Luật tố tụng thời Hammrabi chưa có hình thức cụ thể. Việc xét xử được thực hiện công khai lúc
bị hại khởi tố. Các chứng cứ, bằng chứng là điều kiện xác nhận kẻ đúng và người sai. Đối với các vụ
việc nghiêm trọng thì các bên buộc phải tuyên thệ trước thần linh. Các quan tòa không được thay đổi án
quyết, nếu thay đổi sẽ bị cách chức. Luật này kế thừa luật thành Ur về hình thức thử tội. Điều 2 Bộ luật
Hammurabi qui định: “Nếu một người kiện một người khác, bị đơn sẽ phải đi đến một dòng sông và
nhảy xuống, nếu anh ta chìm, bị dòng nước cuốn đi, nguyên đơn sẽ được sở hữu nhà của bị đơn. Nhưng
ngược lại, nếu anh ta không bị chết chìm, tức là anh ta còn sống sót, thì anh ta được coi là vô tội,
nguyên đơn sẽ bị giết chết, và bị đơn sẽ sở hữu nhà của nguyên đơn”.
1.1.3. Ấn Độ: (kinh đô của rất nhiều Tôn giáo lớn – Đạo Hindu, Phật giáo, Ấn Độ
giáo, đạo Bà La Môn)
Ngày xưa ví Ấn Độ như Tiểu lục địa hình thành từ Sông Ấn – từ đó hình thành từ đạo Bà La Môn
- Sông Hằng là 1 con song linh thiêng của Ấn Độ ( Ký sự S Hằng – HTV có làm ký sự)
1.1.3.1. Quá trình ra đời của nhà nước Ấn Độ cổ đại
Về lịch sử hình thành nhà nước, nhà nước Ấn Độ xuất hiện từ lâu đời. Vào thiên niên kỷ III
TCN, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân hóa giai cấp, nhà nước đã ra đời ở Ấn Độ. Đến
thiên niên kỷ II TCN, người Arya xâm nhập vào càng thúc đẩy nhanh quá trình thành lập nhà nước. Họ
phá hủy văn hóa sông Ấn – Hằng, đồng hóa cư dân Dravida bản địa. Khi nền kinh tế phát triển, mâu
thuẫn xã hội ngày càng gay gắt dẫn tới sự ra đời chế độ đẳng cấp Varna (thiên niên kỷ II – I TCN) gồm 4
đẳng cấp: Brahman (Tăng lữ); Kshatriya (quý tộc); Vaisya (thương nhân) và Shudra (người cùng khổ).
Đẳng cấp Brahman đứng đầu hệ thống đẳng cấp, có nhiều quyền lợi. Họ đặt ra các quy tắc quản lý xã
hội, dùng tôn giáo để ràng buộc người dân phải cam chịu, nhẫn nhục và phục tùng giai cấp thống trị Arya.
Từ thiên niên kỷ II đến thế kỷ IV TCN, ở Ấn Độ cổ đại đã thành lập các tiểu quốc, do các tiểu
vương (raja) đứng đầu. Ở trung ương, dưới Raja là Hội đồng bộ lạc gồm Sabha (hội đồng các chức sắc
của bộ lạc) và Samiti (hội đồng toàn thể dân tự do trong bộ lạc), những hội đồng này có ảnh hưởng rất
lớn đến các quyết định của Raja. Giúp việc cho Raja là các quan cận thần (Sabhasad), Tể tướng
(Purohita), chỉ huy quân sự (Senani) và các thượng thư phụ trách một số ngành thông qua các sở địa phương.
Đất nước được chia thành các đơn vị hành chính gọi là làng (gramma), do trưởng làng lãnh đạo.
Các làng được phân chia nhiều bậc khác nhau: cấp trên trực tiếp là mười làng, rồi 20 làng, 100 làng và
cuối cùng là 1.000 làng… và các làng như thế do các quý tộc lãnh đạo. Quan đứng đầu 1.000 làng trực
thuộc nhà Vua. Để kiểm soát quan lại, vua lập ra cơ quan mật vụ có nhiệm vụ dò la, kiểm soát hoạt động
của quan lại, quần chúng. Quan lại thời kỳ này có lương bổng. Tùy theo chức vụ và phẩm tước thì quan
lại bậc trung được cấp lương gấp 3 lần quan lại bậc thấp, quan đại thần được cấp gấp 6 lần quan lại bậc trung.
Thời Morya (321 – 187 TCN), đất nước Ấn Độ rất rộng lớn. Để quản lý đất nước, vua chia đất
nước thành các châu và cử thủ hiến (người thuộc hoàng tộc) đến cai trị, thủ hiến chỉ có việc theo dõi và
giám sát, còn trực tiếp cai trị các châu là các quý tộc cũ. Ở đia phương vẫn chia như cũ (làng là đơn vị cơ
sở chính). Ngoài xây dựng bộ máy nhà nước, các vua Morya xây dựng lực lượng quân đội mạnh, gồm
quân của nhà vua, quân của vương hầu và quân của các bộ lạc phụ thuộc. Lục quân (tượng binh, kỵ binh,
chiến xa…) và hải quân là hai lực lượng chính. Lúc chiến tranh, nhà nước huy đọng đến 60 vạn bộ binh, 3 vạn kỵ binh.
Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước Ấn Độ ban hành luật pháp. Do trong xã hội
cổ đại, các giáo lý tôn giáo và tập tục địa phương (truyền thống, đẳng cấp) đan xen vào nhau nên làm
quần chúng bị ràng buộc rất nhiều thứ luật lệ. Hình phạt phổ biến là nhục hình; làm tổn thương tới phạm
nhân nếu họ phạm tội (nhất là trộm cắp). Việc xét xửu do các quan chức đứng đầu địa phương và trung
ương xét xử. Vua chỉ xét xử những vụ quan trọng nhất. Thời kỳ này quan chức hành chính kiêm luôn tư
pháp, xét xử, tư pháp chưa tách khỏi hành pháp. 1.1.3.2. Luật pháp
+ Bộ Luật Manu: (rất nhiều vấn đề Thiên văn, xã hội nhưng nhấn mạnh đến nhân loại)
Về nd và lịch sử, luật này không thua kém luật Hammurabi (của Lưỡng Hà) . Đây là một tập hợp
các luật tục dựa trên quan niệm của đạo Balamon soạn ra vào thế kỷ III – II TCN. Luật Manu có 2.685
điều chia thành 12 chương, trình bày dưới dạng câu song vần. Nd của luật tập trung các vấn đề sau đây:
+ Quyền sở hữu: luật này áp dụng cho các công xã Ấn Độ. Luật quy định kinh tế, đất đai công
xã là của chung và không ai được chiếm đoạt (điều 264, chương 7). Người nào tự tiện thay đổi địa giới
đất đai đều bị trừng phạt, nếu không giải quyết nổi thì “nhờ” Vua giải quyết (điều 265, chương 8).
Để khẳng định quyền sở hữu tài sản, luật Manu bắt các chủ sở hữu tài sản phải chứng minh
nguồn gốc của tài sản ở đâu: mua bán, chuyển nhượng, thừa kế… Sự chiếm hữu dài hạn chưa đầy đủ là
căn cứ phát sinh quyền sở hữu
+ Hợp đồng: Luật Manu có nhắc tới tính hiệu lực của hợp đồng dân sự. Hợp đồng sẽ không có
hiệu lực khi hợp đồng đó được ký với người bị tâm thần, ng nát rượu hay người chưa vị thành niên;
không thừa nhận các hợp đồng được ký kết do cưỡng bức hay lừa đảo, bí mật (điều 163, 165; chương 8).
Hợp đồng được ký kết công khai.
+ Hôn nhân – gia đình: trong gia đình, người chồng có quyền lực lớn. Ông ta có quyền cưới vợ,
sở hữu vợ theo kiểu “bảo hộ” làm cho phụ nữ “không thể độc lập được” (điều 147, 148; chương 5). Phụ
nữ không được ly hôn với chồng (điều 46; chương 9). Luật cũng cho phép người chồng được phép bỏ vợ
nếu bị vợ ghét bỏ (điều 47; chương 9), bỏ vợ (năm thứ 8) nếu vợ vô sinh, bỏ vợ (năm thứ 10) nếu vợ
sinh con bị chết, bỏ vợ (năm thứ 11) nếu vơ sinh con gái, bỏ vợ ngay nếu vợ bị điên (điều 81; chương 9).
Người vợ không có quyền lực gì cả, chỉ như 1 nô lệ
+ Thừa kế, các con trai được thừa kế như nhau.
+ Hình luật, luật Manu thể hiện tính đẳng cấp khắc nghiệt được thể hiện qua nhiều quy định.
1.1.4. Trung Quốc: (Sông Trường Giang, Hoàng Hà)
1.1.4.1. Quá trình ra đời của nhà nước Trung quốc cổ đại a. Quá trình hình thành:
Trung Quốc là một trong những nền văn minh lớn của phương Đông cổ đại, cũng như Ai Cạp,
Lưỡng Hà, ấn Độ, ở đây cũng có hai con sông lớn chảy qua đó là sông Hoàng Hà ở phía Bắc và sông
Trường Giang ở phía Nam. Lịch sử của Trung Quốc cổ đại kéo dài gần 2000 năm. từ khoảng TK 21
TCN đến năm 221 TCN. Trong thời gian đó, lãnh thổ của Trung Quốc từ lưu vực sông Hoàng Hà không
ngừng được mở rộng nhưng nhìn chung, nếu so với ngày nay thì còn rất hạn chế.
Vào khoảng TK 3 TCN, cư dân lưu vực sông Hoàng Hà mới chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ
hệ. Theo truyền thuyết, ở đây có nhiều bộ lạc nổi tiếng như Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ
Vũ ( thơ Đường Luật ) . .Qua quá trình đấu tranh và liên hiệp giữa các bộ lạc, cuối cùng hình thành một
liên minh bộ lạc lớn mạnh do Đường Ngiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ lần lượt được bầu làm thủ lĩnh.
Trong thời kỳ này, kinh tế phát triển rõ rệt, nghề nông đã phát triển hơn trước nhiều do các công
trình thuỷ lợi được xây dựng lại thêm đất đai màu mỡ. Do vậy, trong xã hội đã xuất hiện sự phân hoá tài
sản và sự phân hoá xã hội diễn ra mạnh hơn. Tầng lớp quý tộc thị tộc ngày càng chiếm nhiều ruộng đất
của công xã. Dần dần tầng lớp quý tộc thị tộc hình thành một giai cấp-quý tộc chủ nô. Đến thời Hạ, số
lượng nô lệ ngày càng nhiều lên với nguồn chính là tù binh chiến tranh. Nông dân công xã vẫn là lực
lượng xã hội đông đảo thời bấy giờ.
Khi Hạ Vũ chết, các quý tộc thân cận nhà Hạ trong liên minh bộ lạc đã ủng hộ con của Vũ là Khải
lên thay. Việc bầu thủ lĩnh đến đây là chấm dứt, việc cha truyền con nối được coi là đương nhiên. Khi
trở thành vua, Khải trở thành ông vua có quyền hành rất lớn. Sự kiện này đánh dấu sự hình thành nhà nước ở Trung Quốc.
1.1.4.2. Tổ chức BMNN, quân đội (TW – địa phương) QUA 3 THỜI HẠ - THƯƠNG – CHU
Vào thời cổ đại, bộ mày nhà nước Trung Quốc còn đơn giản. Thời kỳ dân chủ quân sự, đứng đầu
là Thủ lĩnh bộ lạc; dưới ông là Hội đồng các bô lão có nhiệm vụ bầu cử thủ lĩnh, quyết định các vấn đề
về chiến tranh, trị thủy. Khi nhà Hạ (Triều Hạ) thành lập, Vua Hạ thiết lập còn khá đơn giản. Dưới Vua
chỉ mới có một số quan lại giữ một số chức vụ quản lý các ngành kinh tế như: Mục chính (quản lý việc
chăn nuôi); Xa chính (quản lý xe); Bào chính (quản lý việc dâng thức ăn cho Vua)… những chức quan
này do quý tộc thị tộc đảm nhiệm.
Vào thời Thương đứng đầu bộ máy nhà nước là Vua (quý tộc lớn nhất, người đứng đầu dòng họ).
Vua có quyền hành lớn về kinh tế, chính trị, sở hữu tối cao về ruộng đất. Vua toàn quyền quyết định mọi
việc “Lễ Nhạc, chinh phạt đều từ Thiên tử mà ra” (Luận ngữ - chương Quý thị). Nhà Vua thần thánh hóa
uy quyền và mượn “uy quyền” thần linh bắt nhân dân thần phục. Dưới vua là Vu xử, vị quan có quyền
lớn nhất. Ông này làm nhiều công việc như làm lịch, coi việc ghi chép số sách, quản lý hồ sơ, coi việc
giáo dục, dạy dỗ Vua và bảo hộ Ấu vương… Sau đó là cả một tập đoàn quý tộc, quan lại giúp Vua cai
quản các việc hành chính, hình pháp, quân đội, tế tự, ruộng đất, thủ công nghiệp… Những quan lại này
là người của hoàng tộc và được thế tập.
Vào thời Tây Chu (1066 – 771 TCN), ng thống trị cao nhất gọi là Thiên tử. ( VUA NHÀ CHU )
Vua thiết lập “Tam công”[2] và “Lục Khanh”[3] để giúp việc cho mình. Để thiết lập quyền cai trị ở
Trung Quốc, Vua Tây Chu chia đất nước thành 6 vùng gọi là “Lục toại”, cử “toại sự” đang cai trị các
vùng này (cai quản đất đai, nhân dân). Trong quan hệ đối ngoại, nhà Tây Chu thành lập chế độ Tông
pháp. Theo chế độ này thì vua Chu là Tông chủ, các nước thần phục nhà Chu gọi là chư hầu và triều
cống Thiên tử đều đặn. Lúc đó ở Trung Quốc có 71 nước chư hâu thần phục Tây Chu và ở các nước chư
hầu, bộ máy nhà nước tổ chức theo hình thức quân chủ quý tộc. Thời Đông Chu (771 – 256 TCN) với
hai giai đoạn lớn là Xuân Thu – Chiến Quốc, bộ máy nhà nước ngày càng đông đảo, tăng cường sự
chuyên chính của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động.
- Danh xưng: VƯƠNG, CÔNG, HẦU , TÁ ( tên các vua sau thời CHU ) 1.1.4.3. Luật pháp
1.1.4.3.1. Bối cảnh ra đời, nội dung các bộ luật tiêu biểu
Từ thời Hạ, nhà nước đã chú ý đến hình pháp. Thời Thương đã xây dựng các nhà tù, sử dung
nhiều hình phạt như đóng dấu nung đỏ, cắt mũi, gông cùm, đi đày; nếu phạt tội nặng bị xử tử bằng cách
chôn sống, mổ bụng, xẻo từng mảnh, bỏ vào cối giã. Hiện tượng một người phạm tội cả nhà bị giết xuất
hiện từ thời Thương. Sang thời Chu, hình phạt có 5 loại là Ngũ hình: thích mực vào trán, chặt chân, cắt
mũi, thiến và chém đầu. Luật pháp thời Chu có 3.000 điều luật quy định cụ thể về Ngũ hình: tội thích
chữ 1.000 điều, tội chặt chân 500 điều, tội thiến 300 điều, tội cắt mũi 1.000 điều, tội chém đầu 200 điều.
Về sau do sự phát triển của quốc gia mà hệ thống pháp luật được thay đổi. Quý tộc cho rằng, nếu
như cứ cai trị bằng bạo lực thì dân sẽ không nghe theo, có khi còn phản lại chính quyền; cho nên họ thay
đổi tư tưởng: giáo hóa nhân dân bằng chữ “đức”, để dân không khinh nhờn và nghe theo mình. Ngoài
“đức”, quý tộc còn giáo dục bằng chữ “lễ”. Họ cho rằng “lễ” chính là quy định về thứ bậc, nghi thức ăn
ở, hội họp; là quy tắc ứng xử đề con người nghe theo. Hai chữ “đức” và “lễ” là công cụ thống trị nhân
dân về mặc tinh thần của nhà Chu nhằm xóa nhòa và làm dịu mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Sang thời
Xuân Thu, với sự ra đời của Nho giáo thì hệ thống tư tưởng được nâng cao một bước. Ông chủ trương
con người phải có đủ 4 đức tính là: nhân, nghĩa, lễ, trí; đề cao chữ “nhân” và “lễ”. Nhân là phạm trù đạo
đức (có 5 phạm trù chính[4]) của con người. Để thực hiện Nhân, ông đưa ra chữ Luân để chỉ trật tự trong
quan hệ xã hội: luân lý, loạn luân; không có Luân thì xã hội sẽ rối loạn. Mọi người phải lo tu dưỡng đạo
đức, rèn luyện để có lòng nhân từ. Những người làm vua, làm quan mà biết làm điều nhân nghĩa thì sẽ
thu phục lòng người và dân trông vào để học theo[5]. Ngoài ra, ông cũng đề cao “lễ”. “Lễ” là lễ nghi, lễ
phép, tập tục gia đình liên quan đến hành vi ứng xử của con người, thiết chế và hoạt động tâm
linh. Nhân là nội dung, Lễ là hình thức trong ứng xử của con người. Cần vứt bỏ mọi thèm muốn riêng tư
để thực hiện “lễ”, cụ thể là không nhìn, không nghe, không nói, không làm điều gì trái “lễ”, có thế thì xã
hội mới được ổn định. Đối với người lãnh đạo, ông cho rằng muốn cho dân giàu, nước mạnh thì phải
phấn đấu theo lý tưởng: tu thân (tu dưỡng bản thân); tề gia (điều khiển gia đình); trị quốc (cai trị quốc
gia); bình thiên hạ (thôn tính, thống trị thiên hạ). Học thuyết của Khổng Tử giúp củng cố trật tự xã hội,
chuyên chính quốc gia và dung hòa mâu thuẫn xã hội.
Cũng trong thời kỳ này, ở một số nước chư hầu ngoài nước Chu đã ban hành một số bộ luật
như Hình thư của nước Trịnh, Hình Phù của nước Hàn, Hiến lệnh của nước Sở, Quốc luật của nước
Việt… Về sau nước Hàn tổng hợp kinh nghiệm lập pháp của các nước và bộ luật cũ (Hình Phù) ban
hành bộ luật mới là Pháp kinh. Bộ luật này tuy thất truyền nhưng theo sử sách thì đây là bộ luật hoàn
chỉnh nhất Trung Quốc cổ đại. Nó có 6 chương là: Đạ pháp: quy định về tội cướp; Tặc pháp: quy định về
tội giả mạo; Tư pháp; quy định vvề tố tụng, xét xử; Bộ pháp: quy định về bắt giam; Tạp pháp: tạp luật;
Bối pháp: quy định những nguyên tắc chung. Đồng thời trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều nhà tư
tưởng chủ trương dùng pháp luật để cai trị như Quản Trọng, Thương Ưởng, Thận Đáo, Thân Bất Hại,
Hàn Phi; đại diện tiêu biểu là Hàn Phi (280 – 233 TCN). Theo Hàn Phi, để cai trị đất nước trong thời đại
loạn lạc như thế thì không thể nào dùng nhân đức để ổn định xã hội, mà phải dùng pháp luật. Về nội
dung, nó gồm 3 yếu tố: pháp, thế, thuật.
- Pháp: pháp luật và mệnh lệnh của vua phải rõ ràng, mạch lạc. Việc chấp pháp phải nghiêm minh.
- Thế: uy quyền của nhà vua.
- Thuật: phương pháp điều hành, quản lý cn người: bổ nhiệm (căn cứ và tài năng để bổ nhiệm,
không kể đến dòng dõi), khả hạch (căn cứ và trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công viêc) và thưởng
phạt (căn cứ và kết quả khả hạch, thưởng nhiều, phạt nặng)
Theo Pháp gia, với 3 yếu tố pháp, thế, thuật vua có thể trở thành một vị vua tốt mà không cần
nhân nghĩa, không cần trí tuệ,…
Nhận định chung về nhà nước phương Đông cổ đại (mô hình nhà nước, các tổ chức
- Các nhà nước ở phương đông cổ đại xuất hiện “sớm” do tác động vấn đề thủy lợi, trị thủy, sự tan rã của
công xã thị tộc, chiến tranh diễn ra liên miên giữa các vùng với nhau.
- Các nhà nước cổ đại phương Đông luôn là hình thức quân chuyên chế trung ương – tập quyền.
- Bộ máy nhà nước là bộ máy bạo lực lớn, được thần thánh hóa nhằm bảo vệ giai cấp thống trị một cách
đắc lực nhất. Điều này làm cho bản chất giai cấp của các nhà nước này nổi trội hơn bản chất xã hội của nó.
- Sự tồn tại lâu dài của các công xã nông thôn ảnh hưởng đến tổ chức chức bộ máy nhà nước. Nhà nước
quản lý địa phương thông qua công xã nông thôn.
- Tuy nhiên, trong quá trình phục vụ cho giai cấp của mình, nhà nước chiếm hữu nô lệ phương đông đã
làm nồng cốt cho nhân dân sáng tạo, xây dựng và phát triển văn hóa. Do đó, các quốc gia phương đông
cổ đại đã đạt nhiều thành tựu huy hoàng về văn hoá trở thành một trong những trung tâm của văn minh thế giới cổ đại. + Pháp luật:
- Công khai thừa nhận sự bất bình đẳng trng quan hệ giai cấp, đẳng cấp bả vệ quyền lợi và địa vị của giai
cấp chủ nô và những người thuộc đẳng cấp trên trng xã hội nhằm củng cố sự thống trị tuyệt đối của giai cấp chủ nô.
- Trong quan hệ gia đình, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa các con với nhau, dưới ảnh
hưởng của chế độ thống trị gia trưởng.
- Trọng hình, khinh dân, ranh giới giữa hình sự và dân sự rất mờ nhạt.
- Mang tính chất đồng thái phục thù
- Có dấu hiệu của sự phân biệt lỗi cố ý và vô ý
- Bị ảnh hưởng bởi tôn giá, lễ và các hệ tư tưởng chính trị.
- Về hình thức, không có tính hệ thống, từ ngữ sử dụng rất cụ thể, không mang tính khái quát. => Rút ra
* Thuận lợi khi những nước Phương Đông đó sống gần sông nước
- Dễ trồng trọt canh tác
- Kt NN trồng lúa nước, trái cây * KK - Thiên tai: lũ, lụt, …
- Sống định cư không còn lựa chọn nào khác
1.2. Phương Tây cổ đại
1.2.1. Hy Lạp: ( bán đảo Ban Căng ) – không có con ssoong nổi bật, tiếp giáp với
biên và hk có địa hình màu mỡ chỉ bị cắt ngang bởi núi
- Hy Lạp sẽ khác vs các nc Ph Tây còn lại = > hk sống định cư nên Hy Lạp hk có NN
nhất định do đó xh nhiều thành Bang
a. Vị trí địa lý, quá trình ra đời của nhà nước Hy Lạp cổ đại, kết cấu xã hội.
Về vị trí địa lý, Hy Lạp cổ đại có 3 phần: Hy lạp lục địa, các thành bang Hy Lạp và Đại Hy Lạp.
Hy Lạp lục địa có 3 vùng rõ rệt: miền bắc là đồng bằng Beoxi, miền trung là đồng bằng Attic và miền
nam là đồng bằng Laconi, ngoài ra có nhiều núi bao bọc xung quanh. Hy Lạp sông ngắn, đồi núi nhiều
và ít đồng bằng nên không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, chỉ thuận lợi cho sản xuất công thương
nghiệp (làm rượu vang, rép dầu). Mặc khác do địa hình bị chia cắt bới nhiều núi, đồi nên Hy Lạp khó
hình thành nhà nước thống nhất ma chi có thể hình thành các quốc gia nhỏ (thành bang).
Xã hội Hy Lạp hình thành từ khi thành lập các thành bang. Có 3 giai cấp là chủ nô, nông dân – thị dân, nô lệ
Lịch sử Hy lạp hình thành bắt đầu từ việc ra đời nền văn minh đầu tiên của phương Tây – văn
minh Cret – Mycenne. Nền văn minh này tồn tại suốt 18 thế kỷ (thế kỷ XX – XII TCN) và chủ nhân của
nó chính là người Achéen; thời kỳ này cũng đã thành lập khá nhiều nhà nước chiếm hữu sơ khai của Hy
Lạp như Crete, Mycenne, Tyre, Pilot… Vào thế kỷ XII TCN, sau khi khi văn minh Cret – Mycenne
bị người Dorien từ phía bắc xuống tiêu diệt, Hy lạp bước vào thời kỳ tiếp theo là thời kỳ Homer
(thế kỷ XI – IX TCN) – thời kỳ của giai đoạn dân chủ quân sự, một hình thức quá độ từ sự tan rã
của công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp. Kết thúc thời Homer, Hy Lạp bước vào thời kỳ
thành bang (thế kỷ VIII – IV TCN). Ở thời kỳ này, nhiều nhà nước ra đời lấy một thành phố làm trung
tâm nên gọi là Thị quốc (hay quốc gia thành thị) và tồn tại độc lập; ruộng đất thuộc quyền sở hữu chung
và tất cả công dân đều có quyền sở hữu số ruộng đất đó. Nô lệ thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Đến thế
kỷ IV – I TCN, các thành bang mất dần độc lập và rơi vào ách thống trị của Macedonia (Hy Lạp) và La
Mã đã bắt đầu chiếm Macedonia. Với sự kiện La Mã đánh chiếm Ai Cập năm 31 TCN thì toàn bộ Hy
Lạp rơi vào ách thống trị của La Mã.
- Hy Lạp là nơi hình thành nên các vị thần và mỗi lãnh thổ gắn liền với các vị thần khác nhau
- Nổi tiếng vs THÀNH TROY (nhờ con Ngựa gỗ) và THÀNH
b. Tổ chức bộ máy nhà nước, quân đội
Vào thiên niên kỷ III – II, khi Hy Lạp bước vào thời kỳ có giai cấp thì họ đã hình thành ra những
nhà nước chiếm hữu nô lệ cổ Hy Lạp như Cret, Mycenne, Tyre, Pilott… Ở các nhà nước này, quyền
thống trị thuộc về giai cấp chủ nô mà đứng đầu là Vua (có nhiều quyền lực, sở hữu tối cao ruộng đất),
sau ông ta là quý tộc, quan lại và tăng lữ. Trong cuốn “Lịch sử”, Herodote đã mô tả: Minos, vua Cret đã
thống trị một vùng rộng lớn ở lục địa Hy Lạp, biển Hy Lạp và quần đảo Syclas. Khi chiếm thêm một
vùng đất mới. Minos lại đưa con hay những người tin cẩn đến cai trị và phong họ làm Vua ở những nơi
đó. Minos nắm trong tay quân đội bao gồm lục quân và hải quân.
Khi văn minh Cret – Mycenne bị người Dorien tiêu diệt, Hy Lạp bước vào thời kỳ mới là thời
kỳ chế độ dân chủ quân sự (thế kỷ XI – IX TCN). Ở thời kỳ này, các công xã nông thôn sáp nhập vào
thành liên minh công xã. Đứng đầu liên minh này là Basileus, ông này rất được đề cao và tự xưng
Vua, còn tù trưởng bộ lạc thì làm nhiệm vụ tôn giáo, tế lễ. Cơ quan có quyền lực tối cao là Đại hội nhân
dân, nơi mà biểu quyết phần lớn thuộc về đàn ông có vũ trang; các quyết định quan trọng sẽ do Đại hội
nhân dân giải quyết mà không phải thủ lĩnh giải quyết. Đến thời kỳ thành bang, bộ máy nhà nước chính
thức được hình thành và phát triển tiêu biểu là thành bang Sparte và Athens.
1.2.1.1. Nhà nước cộng hòa Sparte:
Sparte nằm trên bán đảo Peloponeses gần đồng bằng Laconi, là một trong những quốc gia xuất
hiện khá sớm và tồn tại lâu trong lịch sử Hy Lạp từ thế kỷ IX đến thế kỷ III TCN.
Hình thức chính thể của Sparte là cộng hòa quý tộc. Đứng đầu nhà nước là hai vua có quyền lực
ngang nhau (mục đích kiềm chế nhau), bên cạnh hai vua có Hội đồng trưởng lão gồm 30 người (kể cả
hai vua), thành viên của nó là những người từ 60 tuổi trở lên được lựa chọn từ hàng ngũ quý tộc giàu có
và danh vọng. Hội đồng này có quyền quyết định những vấn đề và công việc hệ trọng của quốc gia như
chiến tranh, hòa bình. Trong nhà nước Sparte, Hội nghị công dân là cơ quan có quyền lực cao nhất, gồm
tất cả công dân Sparte từ 30 tuổi trở lên và Vua có quyền triệu tập Hội nghị này. Trong Hội nghị công
dân, thong thường khi Vua đưa ra vấn đề thì Hội nghị này sẽ không được họp bàn mà chỉ biểu quyết
bằng cho công dân kêu hay gào thét khi họ đồng tình hoặc phản đối. Khi biểu quyết những vấn đề quan
trọng, những người tham gia Hội nghị sẽ biểu quyế bằng cách cho công dân xếp thành hai hàng theo hai
phía: đồng ý và không đồng ý, và bằng cách này thì người ta biết đa số thuộc về phía nào. Về sau do
mâu thuẫn và phân hóa xã hội, chính quyền thành lập một cơ quan mới là Hội đồng năm quan giám sát,
mà thành viên của nó chính là những đại biểu quý tộc chủ nô giàu có, bảo thủ nhất. Nó có quyền giám
sát hai vua, Hội đồng trưởng lão, Hội nghị công dân, có quyền giải quyết mọi công việc ngoại giao và tài
chính, thẩm tra tư cách công dân. Thực chất đó là cơ quan tối cao của nước Sparte.
Sparte có quyền lực ở Hy Lạp vì có quân đội mạnh. Luật pháp về quân đội quy định nghiêm
ngặt: con đầu trong gia đình phải là con trai, nếu là con gái thì vứt xuống vực sâu. Con trai khi sinh ra
phải ngâm trong nước lạnh, nếu còn sống thì khỏe mạnh và nếu chết rồi thì ném xuống vực sâu. Lúc 7
tuổi, con trai bị bắt rời khỏi gia đình và vào ở trang trại của Nhà nước, để học tập và tập luyện quân sự.
Nam giới ra trận lúc 13 tuổi, đến 60 tuổi thì giải ngũ. Chính luật pháp khắc nghiệt này mà người Sparte
có lực lượng quân đội mạnh, nhất là bộ binh và hải quân và nhiều lần khống chế các thành bang khác bắt
nó thần phục. Sparte lạc hậu, phản động đối lập hoàn toàn nhà nước Athens tiến bộ về mọi mặt.
*Những cải cách của Xôlông Năm 594 TCN, ( Người làm móng)
- Xôlông được cử giữ chức vụ chấp chính quan. Để hạn chế tới mức tối đa những mâu
thuẫn trong xã hội, để tiếp tục tấn công vào chế độ thị tộc và tiếp tục xây dựng, củng cố nhà
nước Athens theo hướng dân chủ, Xôlông đã thực hiện một loạt những cải cách xã hội tiến bộ.
BMNN (có sự phân chia quyền lực hơn so với ph Đông)
- CQ đại diện cho ND nắm quyền cao nhất => ĐHND
- Cơ quan thường trực như CP: 400 ng
=> Cuộc cải cách của Solon là trút bỏ gánh nặng cho nhân dân Do z, Người Hi Lạp gọi những
cải cách của Xôlông là “Sêsasơchêia” có nghĩa là “trút bỏ gánh nặng”.
Cải cách Sêsasơchêia Xôlông tuyên bố xoá bỏ mọi nợ nần, những ruộng đất của nông
dân đem nộp cho quý tộc để gán nợ được hoàn trả cho nông dân. Những nông dân phải bán
mình làm nô lệ vì nợ được giải phóng khỏi thân phận nô lệ thành người tự do. Nhà nước cấm
tuyệt đối việc lấy thân mình hoặc vợ con mình làm vật để trừ nợ (kể cả việc kí văn tự vay nợ
lấy bản thân con nợ làm vật thế chấp). Chế độ nô lệ vì nợ ở Athens chấm dứt từ đó.
- Xôlông cũng thực hiện việc cải cách hệ thống tiền tệ. Phân chia đẳng cấp Căn cứ theo
tài sản, Xôlông đã phân chia cư dân Athens không kể nguồn gốc huyết tộc, thành 4
đẳng cấp xã hội có quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau.
- Đẳng cấp thứ nhất bao gồm những công dân hàng năm có thu nhập từ 500 Mêđim thóc trở lên.
- Đẳng cấp thứ hai có thu nhập từ 300 Mêđim thóc trở lên.
- Đẳng cấp thứ ba là 200 Mêđim thóc
- Còn những ai có thu nhập dưới 200 MêKim thuộc đẳng cấp thứ 4.
Theo quy định, chỉ có những người thuộc đẳng cấp thứ nhất mới có đủ tư cách tham
gia giữ các chức vụ cao cấp của nhà nước (chấp chính quan hoặc là thành viên của hội
đồng trưởng lão thành lập “Hội đồng 400 người” Trên cơ sở 4 bộ lạc cũ, Xôlông thành
lập “Hội đồng 400 người” mỗi bộ lạc được cử 100 người thuộc 3 đẳng cấp trên. Hội
đồng 400 người có chức năng như là một cơ quan thường trực của đại hội nhân dân, để
giải quyết các công việc hàng ngày của nhà nước. Để tránh lối xử án tuỳ tiện và tăng
cường tính dân chủ, Xôlông đã cho thành lập toà án nhân dân có nhiều bồi thẩm, cùng thảo luận, xét xử.
=>Kết luận những tàn dư của chế độ thị tộc vẫn còn nhưng trước hết phải thấy
rằng những cải cách của Xôlông đã giáng một đòn khá mạnh (và triệt để hơn so
với Tedê) vào chế độ thị tộc, căn bản thủ tiêu quyền lực của quý tộc thị tộc, bước
đầu thiết lập được một trật tự xã hội mới theo thể chế dân chủ. Cải cách Xôlông –
theo nhận xét của F. Enghen – phần nào đã hi sinh quyền lợi của tầng lớp quý tộc
(nhất là quý tộc ruộng đất), tạo điều kiện cho tầng lớp bình dân duy trì được cuộc
sống của họ, ngăn cản sự phá sản của nông dân và thủ tiêu chế độ nô lệ vì nợ, tạo
cơ sở xã hội cho sự tồn tại của thể chế dân chủ. Cải cách Xôlông cũng đem lại
nhiều quyền lợi và ưu thế cho quý tộc chủ nô công thương – tầng lớp quý tộc ủng
hộ thể chế dân chủ – tạo điều kiện cho kinh tế Công thương nghiệp của Athens
phát triển mạnh mẽ. Những cải cách tiến bộ của Xôlông đã tạm thời giải quyết
được những vấn đề cấp bách mà xã hội Athens đang gặp phải, xoa dịu được mâu
thuẫn và đặt nền móng cho việc thiết lập, hoàn thiện nhà nước Athens theo hướng dẫn chủ hóa.
*Những cải cách của Clixten Năm 508 TCN ( Người xây nhà)
Nhờ phong trào nổi dậy của quần chúng chống xu thế bảo thủ, Clixten – thủ lĩnh của phái
Duyên hải – được cử giữ chức chấp chính quan thứ nhất. Nền dân chủ lại được phục hưng.
- Từ năm 508 đến năm 506 TCN, Clixten đã thực hành hàng loạt những cải cách xã hội
nhằm mục tiêu thủ tiêu những tàn tích của chế độ thị tộc, hoàn thiện thêm một bước
nền dân chủ chủ nô Athens. Phân chia cư dân theo khu vực hành chính Cải cách quan
trọng nhất, triệt để nhất của Clixten là việc phân chia cư dân Athens theo những khu
vực hành chính (không dựa vào khu vực cư trú của 4 bộ lạc cũ).
-Toàn bộ xứ Attích được chia thành 10 khu hành chính. Người Hi Lạp gọi là Philai. Mỗi
khu Philai được chia thành 10 tiểu khu (Đemơ). Cư dân sống ở mỗi tiểu khu phải đăng kí
vào Sổ hộ tịch để nhà nước theo dõi, quản lí. Lối gọi tên người theo dòng họ thị tộc bị bác
bỏ thay bằng lối gọi theo tên riêng từng người.
Thế là với Clixten, ranh giới, bộ lạc (cùng với thế lực của tập đoàn quý tộc thị tộc) bị xoá bỏ
hẳn. Tàn tích cuối cùng của chế độ thị tộc bị thủ tiêu. Cải cách bộ máy nhà nước Athens
– Hội đồng 500 Clixten đã cải tổ các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước Athens, theo
hướng dân chủ. Hội đồng 400 người bị bác bỏ thay bằng Hội đồng 500
– Người Hi Lạp gọi là Bulê Theo quy chế, tất cả các công dân tự do nam giới Athens, tuổi từ
18 đều có quyền tham gia Hội đồng 500 người, và mỗi Philai, được bầu 50 người. Bulê là cơ
quan hành chính cao nhất ở Athens, thay mặt toàn thể công dân, thường trực các công việc
của nhà nước trong suốt một năm. Bulê cũng có nhiệm vụ kiểm tra tư cách công dân và tư
cách các thành viên trong bộ máy nhà nước. 500 người của Bulê được phân chia trong 10 uỷ
ban thường trực – Pơritani – Mỗi Pơritani gồm 50 người của cùng một khu Philai với nhiệm
kì 1/10 của năm (khoảng từ 36 đến 39 ngày) và có chức năng như một bộ phận thường trực
thay mặt Bulê giải quyết các công việc hàng ngày.
Tăng cường vai trò hội đồng nhân dân Clixten đã tăng cường vai trò của đại hội nhân dân.
Đại hội nhân dân (Eccalêdia) là cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước Athens. Eccơlêdia là
đại hội của toàn thể công dân Athens từ 18 tuổi trở lên. Có quyền thảo luận và biểu quyết tất
cả những vấn đề hệ trọng của đất nước, thông qua hay phủ quyết các dự luật, chính sách của
hội đồng Bulê, chọn cử những viên chức của bộ máy nhà nước. Clixten đã tăng số quan chức
Athens lên 20 người, gồm 10 quan chấp chính và 10 tư lệnh quân sự. Để ngăn chặn những
âm mưu đảo chính hoặc phá hoại nền dân chủ, Clixten đã cho thực hành “chế độ bỏ phiếu
bằng vỏ sò”. Bất kì công dân Athens nào (kể cả những người đang có chức vụ) nếu bị nghi
ngờ là có những âm mưu, hành vi đe dọa tới nền an ninh xã hội, nền dân chủ thì trong đại hội
nhân dân, toàn thể Công dân tự do Athens sẽ tiến hành bỏ phiếu kín, bằng cách ghi tên người
mà họ nghi ngờ lên các mảnh vỏ sò hay mảnh gốm. 6.000 lá phiếu cùng ghi tên một người,
thì 10 ngày sau người đó buộc phải rời khỏi Athens trong thời hạn là 10 năm. Bằng biện
pháp này, Athens đã có khả năng ngăn chặn những âm mưu phản loạn, ngăn cản xu thế độc
tài, quân phiệt. Clixten cũng đã thực hiện việc giải phóng một số nô lệ có công thành người
tự do (nhưng không được quyền công dân) và cho phép một số kiều dân Mêtéc) có công lao
thành công dân tự do Athens.
=>Kết luận với cải cách tiến bộ và mạnh mẽ, Clixten đã hoàn toàn thủ tiêu những tàn tích
cuối cùng của chế độ thị tộc, đánh dấu bước cuối cùng trong việc xd NN DC chủ nô Athens.
Những cải cách của Clixten đã tạm thời hòa hoãn được những xung đột và thỏa mãn hầu hết
các quyền lợi của các phe phái tạo nên Athens một khối công dân tự do có quyền lợi chính trị
ngang nhau, cùng thống trị, bóc lột sức lao động của nô lệ. Cải cách Clixten cũng đã mở
đường cho nền kinh tế nói chung và kinh tế Công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, tạo ra
một Athens hùng cường về kinh tế, quân sự và tiến bộ về thể chế dân chủ, góp phần giúp
Athens win sự can thiệp, xâm lược của đế quốc Ba Tư trong thế kỉ tiếp sau.
*Cải cách Ephiantet ( Người sơn tường)