-
Thông tin
-
Quiz
Luận văn thạc sĩ - Luật Hình Sự | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Luận văn thạc sĩ - Luật Hình Sự | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Luật hình sự I 38 tài liệu
Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Luận văn thạc sĩ - Luật Hình Sự | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Luận văn thạc sĩ - Luật Hình Sự | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hình sự I 38 tài liệu
Trường: Đại Học Kiểm sát Hà Nội 226 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại Học Kiểm sát Hà Nội
Preview text:
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI TRẦN THỊ HÀ
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
(Trên cơ sở thực tiễn tại thành phố Hà Nội)
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM MẠNH HÙNG HÀ NỘI - 2021 LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ rang, được trích
dẫn theo đúng quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn Trần Thị Hà LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Phạm Mạnh Hùng đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thiện Luận văn. Đồng thời tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến Ban Giám hiệu, quý thầy cô giáo, đồng nghiệp trong Trường Đại học Kiểm sát
Hà Nội cùng gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi, luôn động viên, hỗ trợ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Tác giả luận văn Trần Thị Hà
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Bộ luật Hình sự năm 2015 BLHS năm 2015
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 BLTTHS năm 2015 Cơ quan Điều tra CQĐT Tố tụng hình sự TTHS Tòa án nhân dân TAND Viện kiểm sát VKS Viện kiểm sát nhân dân VKSND
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê số liệu người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành
phố Hà Nội từ năm 2016 – 2020..........................................................................41
Bảng 2.2. Thống kê số liệu áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội bị khởi tố trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 2016 -2020 …….43
Bảng 2.3. Thống kê số người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố
Hà Nội được trợ giúp pháp lý từ năm 2016 –
2020 ..................................................45 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................. 3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. ........................................ 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .................................................. 5
7. Kết cấu của luận văn................................................................................... 5
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ ......................................................................................................6
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự ................................................................. 6
1.2. Đặc điểm của việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự ..................................................... 14
1.3. Cơ sở của việc quy định về việc bảo đảm quyền con người của người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự.................................... 20
1.4. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo
đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng
hình sự trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015...................... 27
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI.................................................................................. 32
2.1. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền
con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình
sự ..................................................................................................................... 32
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo
đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trên địa bàn
thành phố Hà Nội .................................................................................. 41
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI.....................................................................51
3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
là người dưới 18 tuổi ................................................................................... 51
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi trong tố tụng hình sự ............................................................... 55
KẾT LUẬN...................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 68 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo đảm quyền con người là một trong những cam kết quan trọng được các
quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Theo
đó, vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự đã được
BLTTHS nước ta ghi nhận. Tư tưởng xây dựng một nhà nước pháp quyền, bảo vệ
tối đa quyền con người đã được khẳng định tại Hiến pháp năm 2013: “Các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng và bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật [31].
Trong những năm gần đây, tình trạng tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện ở nước ta có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất nguy hiểm và mức
độ phạm tội. Tuy nhiên, người dưới 18 tuổi là những người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, nhận thức và tâm sinh lý, dễ bị tổn thương và chưa biết cách tự bảo vệ
mình trước những sự kiện pháp lý có liên quan. Vì vậy, người dưới 18 tuổi bị buộc
tội là nhóm đối tượng yếu thế, cần phải có những bảo đảm pháp lý đầy đủ, vững
chắc và hữu hiệu từ phía Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật và các
bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có những quy định riêng về
thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (Chương XXVIII BLTTHS năm 2015).
Tuy nhiên, các quy định cụ thể về bảo vệ quyền con người đối với nhóm chủ thể
đặc biệt này còn nhiều nội dung có nhận thức khác nhau. Thực tế cũng cho thấy,
cùng với những tiến bộ trong hoạt động tư pháp, trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn có những hạn chế, khuyết điểm
trong áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con
người, trong đó có việc bảo đảm quyền của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
Thực trạng trên đặt ra sự cần thiết cần phải tiếp tục nghiên cứu thực trạng áp
dụng các quy định của luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người của người
bị buộc tội là người dưới 18 tuổi nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền của người bị buộc tội
là người dưới 18 tuổi. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự
(trên cơ sơ thực tiễn tại thành phố Hà Nội)” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu
Vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con người
của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi nói riêng là vấn đề được đang được
quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các chuyên gia luật học cả về lý luận
lẫn thực tiễn. Trong đó có một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như:
- Nguyễn Quang Hiền (2008), Bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình
sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học Viện Nhà nước và Pháp luật Hà Nội.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Bảo đảm quyền con
người trong tư pháp hình sự Việt Nam (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Đại học
Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí (2015), Quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự, NXB Hồng Đức.
- TS. Lê Hữu Thể (2011), Quyền con người trong tố tụng hình sự và những
đề xuất, kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của VKSNDTC.
- Đỗ Thị Phượng (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án
Tiến sỹ Luật học, Hà Nội.
- Trần Quang Tiệp (2009), Về đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- PGS.TS Trần Văn Độ (2010), Bảo vệ quyền con người của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí
Khoa học pháp lý số 6/2010.
- Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bi tạm giữ, bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh.
- Vũ Thị Thu Quyên (2012), Quyền của người chưa thành niên phạm tội
trong pháp luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 05/2012.
- Giáp Văn Thắng (2015), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ,
bị can là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Bích Vân (2016), Bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn
tỉnh Hà Giang), Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Trang, (2017), Bảo đảm quyền con người của người bị buộc
tội từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Phan Thị Thanh Tâm, (2017), Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Có thể thấy rằng, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định mới về bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, cho đến
nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu tổng thể về vấn đề bảo đảm quyền con
người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự theo quy định của
BLTTHS năm 2015 trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tại thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLTTHS năm
2015 về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm của việc bảo đảm quyền con người
của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự.
- Phân tích làm rõ quy định của BLTTHS năm 2015 về bảo đảm quyền con
người đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
- Phân tích làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trên
địa bàn thành phố Hà Nội, xác định những hạn chế và khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng và nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
BLTTHS năm 2015 về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là vấn đề bảo đảm quyền con
người đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng, chủ thể: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi trong tố tụng hình sự.
Phạm vi về nội dung: Tập trung nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành và
thực trạng thực hiện 05 nhóm quyền con người cơ bản của người bị buộc tội,
không nghiên cứu các quyền khác như: quyền tự do ngôn luận, quyền không được
phép tuyên án tử hình đối với người dưới 18 tuổi.
Phạm vị về không gian, thời gian: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2016-2020
(không khảo sát, đánh giá số liệu về bảo đảm quyền con người của người bị buộc
tội do các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội thực hiện).
5. Phương pháp nghiên cứu. 5.1. Phương pháp luận
Luận văn thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư
pháp và về bảo đảm quyền con người bằng Hiến pháp và pháp luật.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây để làm rõ những vấn
đề thuộc nội dung luận văn như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê ....
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và các quy định của
BLTTHS năm 2015 về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng các quy định của BLTTHS về bảo đảm quyền con người của người bị buộc
tội là người dưới 18 tuổi. Đồng thời, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
học tập, nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật tố tụng hình sự.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo đảm quyền con người của người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền con
người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi. Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi trong tố tụng hình sự
1.1.1.1. Khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại. Quyền
con người luôn được cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia coi trọng, xem đó là một
thành tựu của nền văn minh và thước đo của sự tiến bộ xã hội. Ở góc độ chung
nhất, quyền con người có thể được hiểu là đặc quyền vốn có của từng cá nhân
nhằm bảo vệ nhân phẩm và nâng cao giá trị của họ với tư cách là con người.
Quyền con người vừa phản ánh các nhu cầu tự nhiên, khách quan, vừa thể hiện các
quan hệ xã hội, ý chí chủ quan của từng con người và của xã hội. Nó là những đặc
quyền của con người đã được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận,
điều chỉnh, do chính cá nhân con người nắm giữ trong mối quan hệ với tự nhiên,
với xã hội, với nhà nước và với những cá nhân con người khác. Quyền con người
mang tính phổ biến, tính không thể tước bỏ, tính không thể phân chia và tính liên
hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1945 và Tuyên ngôn
Nhân quyền năm 1948 là hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên ghi nhận về
nhân quyền, trong đó đã đưa ra được những chuẩn mực chung cho tất cả các nước
và dân tộc về các quyền con người.
Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên Hợp quốc định nghĩa về quyền
con người như sau: Quyền con người là những bảo đảm pháp lý mang tính toàn
cầu xác định trách nhiệm của mỗi quốc gia bảo vệ các cá nhân chống lại sự thờ ơ
của mỗi quốc gia gây tổn hại nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản của con người [19].
Tại Việt Nam, thuật ngữ quyền con người lần đầu tiên được Hiến pháp năm
1992 ghi nhận: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng” [28]. Hiến
pháp năm 2013 đã quy định chi tiết hơn và làm rõ nội dung quyền con người,
quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung một số quyền mới phù hợp
với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Theo Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, quyền con người
được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận
và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [17].
Tuy có nhiều cách định nghĩa, tiếp cận quyền con người ở những góc độ
khác nhau, nhưng theo quan niệm chung của cộng đồng quốc tế và Việt Nam,
quyền con người là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn
nhân loại, được áp dụng chung cho tất cả mọi người và được xác định dựa trên hai
bình diện chủ yếu sau: Ở bình diện đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ
bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự
do...; và ở bình diện pháp lý, quyền con người phải được thể chế hóa bằng các chế
định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì
quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá
trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Như vậy có thể hiểu: Quyền con người trong tố tụng hình sự chính là những
lợi ích, nhu cầu mà con người được làm, được hưởng khi tham gia tố tụng hình sự.
Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự.
1.1.1.2. Khái niệm người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
- Khái niệm người bị buộc tội:
Người bị buộc tội là người bị tình nghi phạm tội đang trong quá trình giải
quyết vụ án, đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế
của tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan vụ án. Sự buộc tội chỉ xuất
hiện khi một người bị cáo buộc là đã thực hiện một hành vi mà BLHS coi là tội
phạm. Sự buộc tội kéo dài trong suốt quá trình chứng minh hành vi của người bị
cáo buộc có tội hay không có tội và kết thúc bằng một quyết định hoặc bản án có
hiệu lực pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng. Ở Việt Nam thuật ngữ người bị
buộc tội là thuật ngữ mới, được ghi nhận trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam năm 2013 như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [31].
BLTTHS năm 2003 chưa ghi nhận khái niệm cụ thể về người bị buộc tội, chỉ
quy định quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo và được ngầm hiểu đó là các trường hợp người bị buộc tội. Tuy nhiên, trong
thực tế, khi một người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo lệnh
truy nã thì có nghĩa là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã có
các căn cứ để buộc tội những người này. Để thống nhất trong hoạt động tố tụng
cũng như phù hợp với các quy định của Công ước quốc tế, luật pháp của các nước
tiến tiến trên thế giới, điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 quy định:
“Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” [34]. Như
vậy, người bị buộc tội là khái niệm bao trùm, tùy vào từng giai đoạn trong quá
trình giải quyết vụ án mà người bị buộc tội có thể được gọi theo những cách khác
nhau. Cụ thể, khi mới bị bắt giữ, người bị buộc tội được gọi là người bị bắt, kể từ
thời điểm bị khởi tố bị can, người bị buộc tội sẽ được gọi là bị can; khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử, người bị buộc tội sẽ được gọi là bị cáo. Họ là người bị
cáo buộc có hành vi xâm hại vật chất, thể chất hoặc tinh thần của người khác, bị cơ
quan tiến hành tố tụng coi là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được BLHS quy định là tội phạm.
- Người bị bắt: BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 đều không coi
người bị bắt là người tham gia tố tụng. Chính bởi thế, cả hai bộ luật này đểu không
có khái niệm người bị bắt mà chỉ liệt kê những trường hợp bắt người. BLTTHS
năm 2015 đã coi người bị bắt là một trong những chủ thể tham gia tố tụng (khoản 4
Điều 55) nhưng cũng định nghĩa người bị bắt theo phương pháp liệt kê như sau:
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy
nã và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
- Người bị tạm giữ: BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị tạm giữ là
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,
bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã
có quyết định tạm giữ” [34, Điều 59]. Ngoài ra, theo quy định của Luật Thi hành
tạm giữ, tạm giam năm 2015, người bị tạm giữ còn được định nghĩa là người đang
bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định
của BLTTHS (khoản 1, Điều 3).
- Bị can: Khái niệm bị can trong BLTTHS năm 2015 có điểm mới so với các
Bộ luật trước đây, đó là việc ghi nhận bị can là pháp nhân như sau: “Bị can là
người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp
nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo
quy định của Bộ luật này” [34, Điều 60]. Như vậy, một pháp nhân có thể bị khởi tố
về hình sự khi có đủ căn cứ xác định pháp nhân đó đã thực hiện hành vi phạm tội;
một người được coi là bị can khi và chỉ khi người đó bị khởi tố hình sự.
- Bị cáo: BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 định nghĩa bị cáo đã
được ghi nhận, theo đó cả hai bộ luật đều định nghĩa “Bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử”. Tại BLTTHS năm 2015, tương tự như thuật ngữ bị can,
với việc bổ sung thêm trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân nên khái niệm bị cáo
được điều chỉnh như sau: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông
qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”
[34, Điều 61]. Sau khi CQĐT kết thúc điều tra, thấy rằng có đủ chứng cứ để khẳng
định rằng bị can đã phạm tội do BLHS quy định thì đề nghị VKS truy tố. Trong
quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thấy rằng
có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ cho VKS để điểu
tra bổ sung, không có căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này, bị can trở thành bị cáo trong vụ án hình sự.
Như vậy, có thể thấy rằng: Người bị buộc tội là người bị các cơ quan tiến
hành tố tụng cho rằng có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội và họ đã bị bắt, tạm
giữ, khởi tố bị can hoặc bị Toà án đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật. Quyền
và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được Nhà nước quy định trong
BLTTHS. Đó là các việc mà người bị buộc tội phải làm hoặc được làm và những
việc mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải làm với họ trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
- Khái niệm người bị buộc tội dưới 18 tuổi:
Người dưới 18 tuổi là người chưa đủ 18 tuổi, là người chưa phát triển đầy đủ
về thể chất và tinh thần. Theo Công ước Quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội
đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1990, tại Điều 1 có quy định: “Trong
phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng đối với trẻ em quy định tuổi thành niên sớm hơn” [22].
Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14/12/1990 quy định: "Người chưa thành
niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật
xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" [23].
Qua các quy định của Luật pháp Quốc tế cho thấy việc xác định một người
là người chưa thành niên không căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý và sự phát triển
về thể chất hay tinh thần... mà thông qua căn cứ dựa vào độ tuổi được xác định chung là dưới 18 tuổi.
Việt Nam có những quy định riêng về người chưa thành niên và trẻ em. Theo
Luật Trẻ em năm 2016: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [37, Điều 1].
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 ghi nhận: “...Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên” [35, Điều 18].
Người chưa thành niên phạm tội là thuật ngữ được sử dụng trong trong luật
hình sự, để chỉ người phải chịu trách nhiệm hình sự có độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (Điều 12 BLHS năm 2015).
Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm người chưa thành niên phạm tội trong
pháp luật Việt Nam không đồng nhất với khái niệm "người chưa thành niên" và
khái niệm trẻ em. Trẻ em là người dưới 16 tuổi, người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi, còn người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
So với BLHS năm 1999, thuật ngữ “người chưa thành niên” đã được đổi
thành “người dưới 18 tuổi” trong các quy định của BLHS năm 2015 và BLTTHS
năm 2015. Đây là một điểm mới trong quá trình lập pháp, việc thay đổi này nhằm
nâng cao khả năng bảo vệ người chưa thành niên bằng pháp luật, trong đó có pháp
luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và phù hợp với quy định của pháp luật quốc
tế. BLHS 2015 đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng chỉ xem xét TNHS của người
từ đủ 14 tuổi dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng. Việc quy định độ tuổi theo BLHS hiện hành là hoàn toàn phù hợp
với pháp luật quốc tế. Bên cạnh đó, việc quy định độ tuổi như vậy cũng thể hiện
chính sách hướng thiện đối với trẻ em theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho các
em trên tinh thần bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi
thanh thiếu niên, đồng thời, góp phần nâng cao tính minh bạch của BLHS, qua đó
nâng cao tính giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với các em ở độ tuổi này.
Về căn cứ xác định tuổi: Tuổi của một người được xác định từ thời điểm
người đó được sinh ra. Căn cứ vào các loại giấy tờ có giá trị pháp lý gắn với nhân
thân của người đó (như giấy chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, các
loại văn bằng,...) mà các cơ quan tư pháp xác định độ tuổi của một người. Trên
thực tế, có rất nhiều trường hợp không thu thập được, hoặc không xác nhận được
cơ sở pháp lý của các loại giấy tờ, thì các cơ quan tư pháp sẽ phải xác định ngày
sinh của người phạm tội theo nguyên tắc có lợi cho họ. Theo khoản 2 Điều 417
BLTTHS 2015, trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã áp
dụng mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày,
tháng, năm sinh của người bị buộc tội, người bị hại được xác định trong 5 trường hợp như sau:
1. Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy
ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
2. Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng
thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
3. Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được
ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
4. Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng
thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
5. Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
Như vậy, theo quy định thì cách xác định tuổi của người bị buộc tội, người
bị hại theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo, có nghĩa là trong trường hợp đã áp
dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng
sinh của người bị buộc tội thì lấy ngày cuối cùng của tháng, của quý, của năm đó để làm ngày tháng sinh.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm người bị buộc tội là người
dưới 18 tuổi như sau: “Người bị buộc tội dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi, đã bị bắt, tạm giữ, khởi tố bị can hoặc bị Toà án đưa ra xét xử theo
quy định của pháp luật. Khi tham gia tố tụng, họ có những quyền và nghĩa vụ pháp
lý theo quy định của luật tố tụng hình sự ở vai trò tương ứng, đồng thời còn có các
quyền và nghĩa vụ chỉ áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi theo quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Khái niệm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi
Quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi là những
quyền con người nói chung trong TTHS được quy định ở trong các văn bản tố tụng
và thực tiễn thực hiện các văn bản đó ở Việt Nam. Đó là các quyền cơ bản của
người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử vụ án hình sự. Đồng thời các quyền phải được bảo đảm bởi Cơ quan điều tra,
VKS, Tòa án... khi tiến hành các hoạt động TTHS trong quá trình giải quyết vụ án.
Từ các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về quyền con người của người
bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự như sau: Quyền con người
của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự là những lợi ích
mà người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi được làm, được hưởng theo quy định
của pháp luật trong tố tụng hình sự.
1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự
Bảo đảm theo nghĩa chung nhất “là làm cho chắc chắn thực hiện được”. Bảo
đảm quyền con người trong TTHS xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người
nói chung và bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án TTHS. Trong TTHS,
việc giải quyết vụ án hình sự không thể tách rời vấn đề bảo đảm quyền con người,
đặc biệt là quyền của người bị buộc tội. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với một người phải dựa trên những căn cứ luật định, tiến hành theo
trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định nhằm truy tố đúng người, đúng tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, không vi phạm quyền con người của
người bị buộc tội. Bảo đảm quyền con người xét cho cùng chính là việc ghi nhận
và bảo đảm thực hiện những cam kết trong pháp luật về các quyền con người.
Không thể bảo đảm quyền con người nếu chỉ dựa vào quyền tự nhiên của con
người, phải thông qua Nhà nước và pháp luật thì những cam kết về quyền con
người mới được thực hiện trên thực tế, quyền con người mới có cơ chế bảo đảm,
vận hành. Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội chính là đảm bảo cho
những người đó có cơ sở pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định.
Bảo đảm quyền con người là việc Nhà nước bằng sức mạnh và ý chí của
mình để các quyền của con người không bị xâm phạm và được thực thi trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội. Thông qua các bảo đảm về chính trị, kinh tế,
tư tưởng, tổ chức, pháp luật, Nhà nước tạo cho con người được thực thi các quyền
cơ bản của mình, đồng thời loại bỏ những rào cản làm hạn chế, hoặc không được
thực thi các quyền đó. Bảo đảm quyền con người đã trở thành nguyên tắc hiến định
trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam, trở thành phương châm, quan điểm chủ đạo chi phối toàn
bộ hoạt động TTHS trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.
Theo đó, bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi là
bảo đảm cho những quy định của pháp luật về quyền con người được thực hiện
trên thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế; đồng thời bảo vệ quyền con người của
người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi còn là sự bảo đảm nhằm tránh khỏi sự xâm
hại quyền của họ từ các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm: Bảo đảm quyền con người của người bị
buộc tội là người dưới 18 tuổi là hoạt động của nhà nước, cúa các cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các cơ quan tổ chức, cá nhân khác có liên quan
trong việc xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm bảo
đảm các quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi được ghi
nhận và thực hiện trong tố tụng hình sự.
1.2. Đặc điểm của việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là người dưới 18
tuổi được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự.
Thực tiễn cho thấy, đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện
quan trọng nhất để quyền con người được thực hiện. Mọi nhu cầu hay yêu sách về
quyền nếu không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì không thể có bất cứ một
quyền con người nào. Quyền con người khi được pháp luật ghi nhận trở thành ý
chí của toàn dân, buộc cả xã hội phải phục tùng và nhà nước bảo vệ.
Sau khi Liên Hợp quốc ra đời, quyền con người được bảo vệ bởi hệ thống
pháp luật quốc tế. Các văn kiện nhân quyền quốc tế luôn nhấn mạnh là nhân quyền
phải được bảo vệ bằng nhà nước pháp quyền, theo các nguyên tắc pháp quyền.
Trong phạm vi quốc gia, pháp luật bảo vệ nhân quyền thể hiện ở việc ghi nhận
quyền trong pháp luật, hoàn thiện các thiết chế, bộ máy nhằm bảo vệ ngày càng tốt
hơn trên thực tế. Ở mọi quốc gia, nhân quyền đều được ghi nhận và bảo vệ bằng
các hình thức pháp luật khác nhau.
Ở Việt Nam, sau khi nước ta gia nhập Liên Hợp quốc vào năm 1977 và tham
gia các điều ước quốc tế về quyền con người thì việc bảo đảm quyền con người của
người dân được thúc đẩy mạnh mẽ. Hiến pháp năm 2013 ra đời với quy định tại
chương II về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó
nhấn mạnh vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người đã cho
thấy vấn đề bảo đảm quyền con người được chú trọng và phát triển mạnh mẽ. Bên
cạnh đó, thời đại hội nhập và dân chủ thúc đẩy các quốc gia phải chung tay, hợp
tác với nhau trong cuộc đấu tranh vì hoà bình dân chủ, chống lại khủng bố và
những hành vi xâm phạm quyền con người, vì công bằng và công lý, Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu thế phát triển chung đó. Do đó, tăng cường bảo đảm
quyền con người, trong đó có người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi là định
hướng đúng đắn, xu thế tất yếu của tố tụng hình sự Việt Nam hướng đến một nền
tố tụng công bằng, dân chủ, vì con người.