Luật Hôn nhân và Gia đình: Khái nim, Đối tượng, Nguồn và Phương pháp điều chỉnh
1. Quy định chung của pháp luật hôn nhân
Lut hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định các nguyên tắc bản của chế độ hôn nhân và ta
đình, trách nhiệm của công dân, nhà c và xã hội trong vic xây dựng, củng cố chế độ hôn
nhân và gia đình Việt Nam; điu chỉnh các quan hệ phát sinh do các sự kin kết hôn, lin, nuôi
con nuôi, sinh đẻ, giám hộ, cấp dưỡng; điu chỉnh các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản
phát sinh giữa „ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em với nhau
giữa các thành viên gia đình; quy đnh việc xử lí các hành vi vi phạm pháp lut về hôn nhân và
gia đình. Luật hôn nhân gia đình Việt Nam nhiệm vụ góp phn xây dựng, hoàn thiện và
bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lí cho cách ứng xử của
các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia
đình, kế thừa và phát huy truyn thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
Lut hôn nhân và gia đình năm 200 là Đạo luật chứa đng hệ thống các quy phạm pháp luật quy
định và điều chỉnh các quan hệ pháp lí liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Lut hôn nhân và gia đình được Quốc hội nước ` Cộng hoà hội chnghĩa Việt Nam Khoá X,
kì họp thứ 7 thông qua ngày 09.6.2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2001. Lut này thay thế
Lut hôn nhân và gia đình năm 1986 và Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Vit Nam
và người nước ngoài m 1993.
Lut hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành nhằm đề cao hơn nữa vai trò của gia đình
trong đời sống xã hội: giữ n, phát huy truyền thống và những giá trị, những phong tục, tập quán
tốt đẹp, lành mạnh, thuỷ chung trong hôn nhân và gia đình của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ nhng
phong tục, tập quán lạc hậu vền nhân và gia đình; đ cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước
và xã hội trong việc xây dựng, củng cchế độ hôn nhân và gia đình.
Nhiệm vụ của Luật hôn nhân và gia đình là nhằm góp phầny dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế
độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lí cho cách ứng xử của các thành
viên trong gia đình; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp củac thành viên trong gia đình; kế thừa
phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Phm vi điều chỉnh ca Luật hôn nhân và gia đình là chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhim
của công dân, Nhà ớc và xã hi trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Vit
Nam.
Luật hôn nhân gia đình năm 2000 gồm 12 Chương, 110 điều với những nội dung cơ bản
sau: nhng quy định chung; kết hôn; quan h giữa vợ và chồng; quan hgia cha, mẹ với con,
giữa ông bà
nội, ông bà ngoại với cháu, giữa anh, chị, em và giữa c thành viên trong gia đình; vấn đ cấp
ng; việc xác định cha, mẹ, con; chế độ con nuôi; giám hgiữa các thành viên trong gia đình;
vấn đề ly hôn; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tớc ngoài; xử lí vi phạm; điều khoản thi
hành.
Trong điều kin kinh tế - xã hội như hiện nay, những biến động xã hội đã tác động đến cơ cấu,
chức năng, vai trò của gia đình. Ở Việt Nam, căn cứo tình hình chung của các gia đình, quan
hệ hôn nhân vẫn là quan hệ nền tảng, trên cơ sở đó thiết kế đời sống gia đình. Hôn nhân là quan
hệ giữa các đôi nam nữ (quan hệ tính giao) được xã hội công nhận dưới nhiều hình thức. Sự công
nhn của chính quyn về mặt pháp lí; của gia đình, họ hàng, bạn bè dưới nh thức nghi ltheo
phong tục, tập quán, tôn giáo của địa phương là rất quan trọng.
Điu 64 Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi rõ: “Hôn nhân theo nguyên
tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vchng bình đẳng". Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 là sự kế thừa và phát triển các chế định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và trưc
đó, của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, phợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay,
nhm thiết lập, bảo vệ và hướng tới svăn minh, tiến bộ, bảo đảm hạnh phúc trong hôn nhân và
gia đình; là sở pháp lí vững chắc để loại bỏ những hiện tượng vi phạm trong quan hệ hôn
nhân như tảo hôn, cưng ép kếtn, lấy vợ l, tình trạng đánh vợ, hành hạ con cái, không thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cái, bố mẹ già...
Gia đình là tếo của xã hội, gia đình có tốt thị xã hội mới tốt. Ngược lại, hội tốt là một bảo
đảm cho gia đình tốt. Chính vì hiểu rõ và đánh giá đúng vai trò, trách nhiệm của gia đình, Nhà
c ta đã hết sức chú trọng động viên và giúp đỡ việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến
bộ và hanh phúc; xây dựng các quan hệ hoà thuận, tốt đẹp nữa vchồng, giữa cha mẹ và con
cái,.... Nhiều quy đnh của Luật hôn nhân và gia đình và c đo luật khác như Bluật dân sự,
Bộ luật hình sự, Bluật lao động... đã có c dụng tạo điều kiện cho các gia đình làm ăn sinh
sống dễ dàng hơn, cũng như quy định rõ trách nhiệm, quyền, lợi ích của vchồng, cha mẹ, con
cái; những điều ngăn cấm và quy định về xử phạt các hành vi vi phạm.
Xác định vị trí của Luật hôn nhân gia đình trong đời sống của xã hội ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, năm 1959, phát biểu trước Quốc hội nhân dịp Quốc hội thông qua Luật hôn nhân gia
đình đầu tiên của xã hội ta, đã nhấn mạnh: Luật hôn nhân và gia đình có quan hệ mật thiết đến
mọi người dân trong nước, đến cả nòi giống Việt Nam ta. Đạo luật y làm cho gái trai thật sự
bình quyền, gia đình thật shạnh phúc. Toàn thể đồng bào ta đều nhiệt liệt hoan nghênh đạo lut
chí tình chí lí ấy.
2. Luật hôn nhân gia đình là gì ?
2.1 Khái niệm về lut hôn nhân gia đình
Tìm hiểu khái niệm Lut Hôn nhân và gia đình năm 2014 với 3 ý nghĩa:
- Với ý nghĩa là một môn học: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là hthống khái nim, quan
điểm, nhận thức, đánh giá mang tính lý luận về pháp luật hôn nhân và gia đình Và thực tiễn áp
dụng, thi hành pháp luật hôn nhân và gia đình.
- Với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ th: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là văn bản
pháp luật trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Ví dụ: Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân gia đình năm 1986, Lut Hôn nhân và gia đình
năm 2000.
- Với ý nghĩa là một ngành luật: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp c quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành nhm điu chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, bao gm
các quan hệ về nhân thân và quan h về tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa
nhng thành viên trong gia đình.
2.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nn và gia đình Việt Nam là các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, cụ th là các quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản
phát sinh giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa những người thân thích rut thịt kc.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nn và gia đình có các đc điểm sau:
- Quan hệ nhân thânnhóm quan hchủ đạo và có ý nghĩa quyết đnh trong các quan hện
nhân và gia đình.
- Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là đặc điểm cơ bản trong quan hệ hôn nhân và gia
đình.
- Quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình gắn liền với nhân thân mỗi chthể, không thchuyn
giao cho người khác được.
- Quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân và gia đình tồn tại lâu dài, bền vững.
- Quyền và nghĩa vụ tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình không mang tính chất đền bù,
ngang giá.
2.3 Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là những biện pháp, cách thứcc động
của các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình tới các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điu
chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Xut phát từ đậc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điu chnh của Luật Hôn nhân và
gia đình là quan hgiữa các chủ th gắn bó với nhau bởi yếu tố tình cảm, huyết thống hoặc nuôi
ng nên Luật Hôn nhân và gia đình có phương pháp điều chỉnh linh hoạt mềm dẻo. Hầu hết
các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình không quy định biện pháp chế tài.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có các đặc điểm sau:
- Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền và nghĩa vụ của các chủ th luôn tương ứng với
nhau. Đồng thời, c chù thể tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình vừa có quyền, vừa phải thực
hiện nghĩa vụ. Vì vậy, trong các điều luật luôn quy đnh các chủ thể có “quyền và nghĩa vụ”.
- Các chủ th khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phải xuất phát từ lợi ích chung của gia
đình.
- Các chủ th không được phép bằng sự tự thỏa thuận để làm thay đổi những quyn và nghĩa vụ
mà pháp luật đã quy định.
- Các quy phm pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với các quy tắc đạo đức, phong
tục tp quán và lẽ sống trong xã hội.
3. Quy định pháp luật về kết hôn
Điu kiện kết hôn
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
+ Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ i tám tuổi trở lên;
+ Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên
nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
+ Việc kết hôn không thuc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định sau đây:
Những trường hợp cấm kết hôn
Việc kết hôn bcấm trong những trường hợp sau đây:
+ Người đang có vợ hoc có chồng;
+ Người mất năng lực hành vi n sự;
+ Giữa những người cùng dòng máu vtrực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
+ Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng
với con dâu, mẹ vợ với con r, bố ợng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
+ Giữa những người cùng giới tính.
Đăng ký kết hôn
+ Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà ớc có thẩm quyn (sau đây gọi là cơ
quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định về tổ chc đăng ký kết hôn dưới đây.
- Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định về tổ chức đăng ký kết hôn đều không có giá tr
pháp lý.
- Nam, nữ không đăng ký kết hôn chung sống với nhau như vchồng thì không được pháp
lut công nhận là vợ chồng.
- Vợ chng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
+ Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa.
Thm quyền đăng ký kết hôn
+ Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trn nơi cư tcủa một trong hai bên kết hôn là quan đăng
ký kết hôn.
+ Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Vit Namc ngoài là cơ quan đăng ký kết
hôn giữa ng dân Việt Nam với nhau ớc ngoài.
Giải quyết việc đăng ký kết hôn
+ Sau khi nhận đủ giy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn
kiểm tra hsơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan
đăng ký kết hôn tchức đăng ký kết hôn.
+ Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết
hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì
có quyền khiếu nại theo quy đnh của pháp luật.
Tchc đăng ký kết hôn
Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết
hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyn kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại din
cơ quan đăng kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai n.
4. Quy định của pháp luật về kết hôn với người Hàn Quốc
4.1 Quy định về điu kiện kết hôn
Khi kết hôn với người ớc ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kin
kết hôn. Trong trường hợp các bạn lựa chọn kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam t
còn phải tuân theo điều kiện kết hôn của pháp luật Việt Nam được quy định như sau:
Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
Cả hai bên nam, nữ hông bị mấtng lực hành vi dân sự
Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn bao gồm
Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
Người đang có vợ, có chồng mà kếtn hoặc chung sống như vợ chồng vớingười khác
hoc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vchng vớingưi
đang có chồng, có vợ;
Kết hôn hoặc chung sống như vchồng giữa những người cùng dòng máu vtrực h;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; gia
người đã từng cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha
ng với con riêng của vợ, m kế với con riêng của chồng;
4.2 Quy định vềquan có thẩm quyền đăng kết hôn
Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ th quan đăng ký kết hôn khi kết hôn với ngưi
Hàn. Kinh nghim thc tiễn cho thấy, kết hôn với người Hàn có thể thc hiện đăng ký tại mt
trong hai cơ quan sau:
Thnhất là tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại Việt Nam;
Thứ hai là tại cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quc tạin Quc.
Kết hôn với ngườin tại Hàn Quc có ththc hiện vắng mặt người Việt nên đây cũng cách
đăng ký kết hôn phù hợp trong trường hợp người Hàn không thể thu xếp được nhiều thời gian để
sang Việt Nam làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Kết hôn tại Việt Nam tthủ tục sẽ phức tạp hơn và người Hàn sẽ phải có mặt nhiều lần, đồng
thời thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn cũng kéo dài tới gần 3 tuần.
4.3 Quy định về hồ sơ đăng ký kết hôn và trình tự thực hiện kết hôn
Đối với giấy tờ cần chuẩn bị khi kết hôn với người nưc ngoài thì sẽ đưc thc hiện theo luật Hộ
tịch 2014 và các văn bản hướng dẫn.
Tuy nhiên, những quy định này để áp dụng cho việc kết hôn với công dân của bất kquc gia
nào, trong khi đó mỗi quốc gia lại có quy đnh riêng về cấp giấy tcho công dân của nước họ kết
hôn với nời Việt. Vì vậy, nếu chỉ đc những quy định trong Luật Htịch nói trên mà thực hin
thì e sẽ thiếu sót hoc gặp khó khăn khi chun bị giy tờ.
Trình tự thc hiện thì khá đơn giản, hai bạn chỉ cn có mặt ti cơ quan có thẩm quyền để xut
trình giấy tờ y tn và nộp nhng giấy tmà hai bạn đã chuẩn bị cho chuyên viên của cơ quan
có thẩm quyn.
Chuyên viên sẽ kiểm tra giấy ty tn và giấy tờ mà hai bạn đã nộp, nếu mọi thứ đã chính xác
thì sẽ thông báo vthời gian nhận kết quả. Ti lịch trả kết quả, hai bạn có mặt để nhận kết quả
đăng ký kết hôn.
Nếu kết hôn vắng mặt tại Hàn Quốc thì người Hàn sẽ một mình thực hin.
4.4 Quy định của pháp luật về ghi chú kết hôn với người Hàn Quốc
Khi đã hoàn tất việc đăng ký kết hôn tại một trong những cơ quan nêu trên và nhận được kết quả
thì các bạn cần tiến hành thủ tục ghi chú kết hôn tại cơ quan còn lại, chi tiết như sau:
Nếu lựa chọn đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại Việt Nam thì sau khi
nhn được Giấy chứng nhận kết hôn, người Hàn sẽ chuẩn bị giy tờ và có mặt tại cơ quan có
thm quyền của Hàn Quốc để thông báo với cơ quan này vviệc đã hoàn tất việc đăng ký kết
hôn với bạn tại Việt Nam.
Ngược lại nếu lựa chọn làm thủ tục đăng ký kết hôn vắng mặt tại cơ quan có thẩm quyền của
Hàn Quốc tại Hàn Quốc thì sau khi ngườin làm thủ tục kết hôn xong, người Việt sẽ tiến hành
thủ tục ghi chú kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp quận/huyn i mình cư t.
5. Căn cứ xác định và phân chia tài sản của vợ, chồng
Thnhất, về căn cứ xác định và phân chia tài sản chung của vợ, chng.
Một là, về căn cứ xác định tài sản chung của vợ, chồng.
Điu 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi nời có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác”. Theo đó, khi công n có quyền sở hữu c tài sản thì các tài sản
đó được công nhận là tài sn hợp pháp của họ. Vợ, chồng là nhng cá nhân và họ đương nhiên
có các quyền đó. Khi có quyn sở hữu tài sản thì mới có thể tạo lập nên khối tài sản dù là tài sản
chung hay tài sản riêng của cá nhân trong xã hội.
Thchế hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ Lut dân sự năm 2015, Điều 213 quy định v
sở hữu chung của vợ chồng:
“1. S hữu chung của vchồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. V chng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong vic
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. V chng thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sn
chung.
4. Tài sn chung của vợ chồng có thể pn chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận theo quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.
Điu 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 lại quy định kcụ th về chế định tài sản chung của
vợ chồng: “Tài sn chung của vợ chng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy đnh tại khoản 1 Điu 40 của Luật này; tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vchồng
thoả thuận là tài sản chung.
Quyền s dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ hoc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao
dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sn chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hp nhất, đượcng để bảo đảm nhu cầu của
gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ đchứng minh tài sản mà vợ, chồng đang tranh chấp
tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tà sản chung”.
Lut dân sự một ngành luật trong hthng pháp luật, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điu
chỉnh c quan h dân sự nói chung, quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá tiền tệ nói riêng
và các quan hệ nhân thân khác trên cơ sbình đẳng, độc lập của chủ th khi tham gia các quan
hệ đó. Luật Dân sự và Luật Hôn nhân Gia đình đều chung một đối tượng điều chnh là nhóm
quan hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đó, Blut Dân sự 2015
có một số quy đnh cụ thể về vấn đề sở hữu, chiếm hữu, định đoạt và thừa kế tài sản. Qua đó, các
quy đnh được nêu nhằm xác định c trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng.
Hai là, về căn c pn chia tài sản chung của vợ, chồng.
Điu 38 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Trong thời kỳ hôn nhân, vchồng
quyền thothuận chia một phn hoc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42
của Luật này, nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trưng
hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chng theo quy
định tại Điều 59 của Luật này”. Như vậy, việc chia tài sản chung của vchng có thđược giải
quyết theo thoả thuận của vợ chồng hoặc thông qua con đường Toà án. Bên cạnh đó, thoả thuận
về việc chia tài sản chung ca vchồng phải được lập thành văn bản, có công chứng theo quy
định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của vợ chồng.
Tại Tng tư số 01/2016/TTLT-TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06/01/2016 của Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, BTư pháp ớng dẫn thi hành một số điu
của Luật Hôn nn và Gia đình năm 2014 quy định:
(1) Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thoả thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả
vic phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thoả thuận được mà có yêu cầu thì Toà án
phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vchồng theo thoả thuận hay theo lut
định, tuỳ từng trưng hợp cụ thToà án xửnhư sau: Trường hp không có văn bản thoả
thuận vchế độ tài sản của vchồng theo thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hp cụ
thToà án xử lý như sau: Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của v
chng hoặc văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Toà án
tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thoả thuận để chia tài sản của vợ
chng khi ly hôn. Đối với những vấn đ không được vchồng thoả thuận hoc thoả thuận kng
ng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khon 2, 3, 4, 5 Điều 59
các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để chia tài sản của vợ
chng khi ly hôn.
(2) Khi giải quyết ly hôn, nếu có yêu cầu tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chng bị
vô hiệu thì Toà án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chng khi ly hôn.
(3) Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi lyn, Toà án phải xác định vợ, chồng có quyền,
nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa nời thứ ba và tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì
Toà án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chng. Trường hợp vchồng có nghĩa vụ
với người thứ ba mà người thứ ba không u cầu giải quyết thì Toà án hướng dẫn họ đgii
quyết bằng một vụ án khác.
(4) Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vchồng theo luật định để chia tài sản của vchồng
khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu
tố sau: (i) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồnglà tình trạng về năng lực pháp luật, năng
lực nh vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng
cũng như của các tnh viên khác trong gia đình mà vchồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân
và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó kn hơn sau khi ly hôn
đưc chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoc được ưu tiên nhận loại tài sản đ bảo đm
duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của
vợ, chồng; (ii) “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài
sản chungsự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ,
chng trong việc tạo lập, duy trì và phát trin khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở n
chăm sóc con, gia đình mà không đim đưc tính là lao đng có thu nhập tương đương với thu
nhp của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn;
(iii) “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các
bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhậplà việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo
đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang
hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi
bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không đưc nh hưởng đến điều kiện
sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành
vi dân sự; (iiii) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chnglà lỗi của vợ
hoc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Thứ hai, về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Nhìn từ góc độ so sánh với Luật n nhân và Gia đình năm 2000 có ththy:
Một là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã bcăn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
là “đồ dùng, tư trang cá nhân”. Điều này xuất phát từ nhu cầu giải quyết nhng bất cập, vướng
mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với căn cứ không phù hợp nói trên. Bởi, theo quy định
của Luật Hôn nn và Gia đình năm 2000 thì cứ là đồ dùng, tư trang cá nhân thì đều là tài sản
riêng của vợ, chồng mà không có quy định nào hạn chế giá trị tài sản, không quy định loại tài sn
nào đưc xem là đồ dùng, tư trang cá nhân thuc sở hữu riêng; bên cạnh đó, pháp luật cũng
không xem xét ngun gốc hình thành đồ dùng, tư trang là tài sản chung hay riêng. Do vậy, có thể
hiểu người nào (vợ hoặc chồng) quản lý, sử dụng tài sản đó sẽ được xác định là tài sản riêng ca
người đó. Với quy định như vậy rõ ràng là không phù hợp, vô tình đã tạo khe hở cho vợ hoc
chng chuyển dịch trái pp tài sản chung sang tài sản riêng, gây thiệt hại cho bên còn lại.
Ngoài ra, xuất phát từ văn hoá truyền thống của nời Việt Nam trong việc tặng, cho con cái các
loại tư trang vào ngày cưới hỏi, văn hoá cất giữ tiền bạc thông qua các loại tư trang; vì vậy, thiết
nghĩ các n trang sức trong trường hợp này được ghi nhận như một sự tích luỹ của cải vật chất
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mang thuộc tính “tin tệ”, n một phương thức cất giữ,
tiết kim i sn chung của gia đình. Do đó, việc pháp luật Hôn nhân gia đình bỏ căn cứ nên trên
là hoàn toàn phù hợp và được xem là ớc tiến mới trong q trình sửa đổi lut.
Hai là, Lut Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ th khối tài sn hình thành từ tài sn
riêng của vợ, chồng chính là tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình cũ (Luật năm 2000), đưa ra những căn cứ xác định tài sản
chung, đồng thời lại vừa đưa ra những căn cức định tài sản riêng của vợ, chng. Quy định n
vậy thì về cơ bản đã khá rõ ràng cho vic áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, thực tế giải quyết tranh
chp vẫn xảy ra những trường hợp tài sản mập mờchưa được xác định lài sn chung hay tài
sản riêng, bởi nó không thuộc trường hợp theo quy đnh tại Điều 27 và Điều 32 Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000, do vậy, loại tài sản trên đã được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
xác định cụ th đó là tài sản riêng của vợ, chồng là một minh chứng cụ th. Do đó, việc Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 xác định tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ chng đó chính là
tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là một bước tiến bộ, đảm bảo quyền tài sản riêng của cá nhân,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình áp dụng pháp luật.
Ba là, Luật n nhân và Gia đình năm 2014 đã đưa ra căn cc đnh tài sản riêng còn là các
“tài sn phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Sở dĩ, pháp luật quy định nhóm tài sản này
thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như tác dụng của nó. Đảm bảo đưc
quyền tự do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, như thế nào đưc
coi là “thiết yếuthì đây là một vấn đề cần đưc xem xét. Đối với những cá nhân hoặc những gia
đình có mức sống khác nhau thì khái niệm đồ dùng thiết yếu sẽ không giống nhau. Chẳng hạn
như, đối với cá nhân này thì những vật dụng như xoong, nồi, bát đĩa, giày dép, quần áo là những
đồ dùng thiết yếu hàng ngày, nhưng đối với nhân khác thì lại xem nhng vật dụng như điện
thoại, laptop, ô tô, tủ lạnh… là những đồ dùng thiết yếu của mình, do vậy nó tuỳ thuộc vào điu
kin sống của mỗi cá nhân cụ thể là khác nhau. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được coi
là một bưc đột phá tiến bộ, linh hoạt và đã thhiện rất rõ việc trao quyền tài phán cho cơ quan
xét xử (Toà án) trong việc xem xét đgiải quyết vụ vic dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng cá
nhân, gia đình khi phát sinh quan h pháp luật tranh chp.
Bốn là, tài sản riêng của vợ, chồng còn gồm các loại tài sản mà theo quy định của pháp luật đó
tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định này tưởng chừng chỉ là căn cứ để dự liệu cho các tờng
hợp pháp luật chưa dự liu hết nhưng thực tế nó lạiý nghĩa đặc biệt quan trọng và vô cùng lớn
trong quá trình nhận thức và là sở phápvững chắn trong việc áp dụng pháp luật điều mà
trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chưa thhiện được. Với quy định như vậy đã
giúp dẫn chiếu cho việc áp dụng các quy định của văn bản pháp luật kc trong việc xác định cụ
thcác loại tài sản, đặc biệt là tài sản thuc sở hữu riêng của vợ chồng được hình thành trong
thời kỳn nhân. Chẳng hạn như, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP TANGTC ngày 10/8/2004
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, xác đnh tài sản mà người có công với cách
mạng đưc nhận trong thời kỳ hôn nhân i sản riêng của người đó, hay dn chiếu xác định tài
riêng của vợ, chồng dựa vào thoả thuận chế độ tào sản chung sống.
Năm là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy đnh tài sản mà vợ, chồng thoả thuận là tài
sản riêng của mỗi bên theo thoả thuận vchế độ tài sản được lập trước khi kết hôn là tài sản
riêng của mỗi người. Đây tiếp tục lại một bước đột phá lớn nữa trong việc quy định chế độ tài
sản của vợ, chồng, đảm bảo phù hợp theo nguyên tắc tự thoả thuận và định đoạt của pháp lut
dân s; đảm bảo phù hợp với tình hình mới trong quan hhôn nhân gia đình trong điều kiện nhu
cầu ngày càng cao trong vic chủ động đầu tư, sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế là i sản
của bản thân cá nhân và gia đình; đây cũng đưc xem là một trong những giải pháp hữu hiu
trong việc phân định và bảo vệ tài sản của mỗi n vợ, chồng trong điều kin mà khối tài sản có
trước khi kết hôn của các cặp vchng ngày càng ng. Ngoài ra, đ đảm bảo giữ vững tính cộng
đồng củan nhân, đảm bảo cho lợi ích chung của gia đình, con cái, Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 đã đưa ra những nguyên tắc, những điều kiện có hiệu lực của thoả thuận, đồng thi
giao cho Toà án tối cao tiếp tục hoàn thiện các điều kiện có hiệu lực của tho thun.

Preview text:

Luật Hôn nhân và Gia đình: Khái niệm, Đối tượng, Nguồn và Phương pháp điều chỉnh
1. Quy định chung của pháp luật hôn nhân
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và tỉa
đình, trách nhiệm của công dân, nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn
nhân và gia đình Việt Nam; điều chỉnh các quan hệ phát sinh do các sự kiện kết hôn, li hôn, nuôi
con nuôi, sinh đẻ, giám hộ, cấp dưỡng; điều chỉnh các quan hệ nhân thân và các quan hệ tài sản
phát sinh giữa „ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em với nhau và
giữa các thành viên gia đình; quy định việc xử lí các hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và
gia đình. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và
bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lí cho cách ứng xử của
các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia
đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng
gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
Luật hôn nhân và gia đình năm 200 là Đạo luật chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật quy
định và điều chỉnh các quan hệ pháp lí liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Luật hôn nhân và gia đình được Quốc hội nước ` Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá X,
kì họp thứ 7 thông qua ngày 09.6.2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2001. Luật này thay thế
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam
và người nước ngoài năm 1993.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành nhằm đề cao hơn nữa vai trò của gia đình
trong đời sống xã hội: giữ gìn, phát huy truyền thống và những giá trị, những phong tục, tập quán
tốt đẹp, lành mạnh, thuỷ chung trong hôn nhân và gia đình của dân tộc Việt Nam, xoá bỏ những
phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình; đề cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước
và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.
Nhiệm vụ của Luật hôn nhân và gia đình là nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế
độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lí cho cách ứng xử của các thành
viên trong gia đình; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình; kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Phạm vi điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình là chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm
của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 gồm 12 Chương, 110 điều với những nội dung cơ bản
sau: những quy định chung; kết hôn; quan hệ giữa vợ và chồng; quan hệ giữa cha, mẹ với con, giữa ông bà
nội, ông bà ngoại với cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình; vấn đề cấp
dưỡng; việc xác định cha, mẹ, con; chế độ con nuôi; giám hộ giữa các thành viên trong gia đình;
vấn đề ly hôn; quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; xử lí vi phạm; điều khoản thi hành.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội như hiện nay, những biến động xã hội đã tác động đến cơ cấu,
chức năng, vai trò của gia đình. Ở Việt Nam, căn cứ vào tình hình chung của các gia đình, quan
hệ hôn nhân vẫn là quan hệ nền tảng, trên cơ sở đó thiết kế đời sống gia đình. Hôn nhân là quan
hệ giữa các đôi nam nữ (quan hệ tính giao) được xã hội công nhận dưới nhiều hình thức. Sự công
nhận của chính quyền về mặt pháp lí; của gia đình, họ hàng, bạn bè dưới hình thức nghi lễ theo
phong tục, tập quán, tôn giáo của địa phương là rất quan trọng.
Điều 64 Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi rõ: “Hôn nhân theo nguyên
tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng". Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 là sự kế thừa và phát triển các chế định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và trước
đó, của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay,
nhằm thiết lập, bảo vệ và hướng tới sự văn minh, tiến bộ, bảo đảm hạnh phúc trong hôn nhân và
gia đình; là cơ sở pháp lí vững chắc để loại bỏ những hiện tượng vi phạm trong quan hệ hôn
nhân như tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lấy vợ lẽ, tình trạng đánh vợ, hành hạ con cái, không thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con cái, bố mẹ già...
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có tốt thị xã hội mới tốt. Ngược lại, xã hội tốt là một bảo
đảm cho gia đình tốt. Chính vì hiểu rõ và đánh giá đúng vai trò, trách nhiệm của gia đình, Nhà
nước ta đã hết sức chú trọng động viên và giúp đỡ việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến
bộ và hanh phúc; xây dựng các quan hệ hoà thuận, tốt đẹp nữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con
cái,.... Nhiều quy định của Luật hôn nhân và gia đình và các đạo luật khác như Bộ luật dân sự,
Bộ luật hình sự, Bộ luật lao động... đã có tác dụng tạo điều kiện cho các gia đình làm ăn sinh
sống dễ dàng hơn, cũng như quy định rõ trách nhiệm, quyền, lợi ích của vợ chồng, cha mẹ, con
cái; những điều ngăn cấm và quy định về xử phạt các hành vi vi phạm.
Xác định vị trí của Luật hôn nhân và gia đình trong đời sống của xã hội ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, năm 1959, phát biểu trước Quốc hội nhân dịp Quốc hội thông qua Luật hôn nhân và gia
đình đầu tiên của xã hội ta, đã nhấn mạnh: Luật hôn nhân và gia đình có quan hệ mật thiết đến
mọi người dân trong nước, đến cả nòi giống Việt Nam ta. Đạo luật ấy làm cho gái trai thật sự
bình quyền, gia đình thật sự hạnh phúc. Toàn thể đồng bào ta đều nhiệt liệt hoan nghênh đạo luật chí tình chí lí ấy.
2. Luật hôn nhân gia đình là gì ?
2.1 Khái niệm về luật hôn nhân gia đình
Tìm hiểu khái niệm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 với 3 ý nghĩa:
- Với ý nghĩa là một môn học: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là hệ thống khái niệm, quan
điểm, nhận thức, đánh giá mang tính lý luận về pháp luật hôn nhân và gia đình Và thực tiễn áp
dụng, thi hành pháp luật hôn nhân và gia đình.
- Với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là văn bản
pháp luật trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Ví dụ: Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Với ý nghĩa là một ngành luật: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, bao gồm
các quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con, giữa
những thành viên trong gia đình.
2.2 Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, cụ thể là các quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản
phát sinh giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa những người thân thích ruột thịt khác.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có các đặc điểm sau:
- Quan hệ nhân thân là nhóm quan hệ chủ đạo và có ý nghĩa quyết định trong các quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Yếu tố tình cảm gắn bó giữa các chủ thể là đặc điểm cơ bản trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Quyền và nghĩa vụ hôn nhân và gia đình gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể, không thể chuyển
giao cho người khác được.
- Quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân và gia đình tồn tại lâu dài, bền vững.
- Quyền và nghĩa vụ tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình không mang tính chất đền bù, ngang giá.
2.3 Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình là những biện pháp, cách thức tác động
của các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình tới các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều
chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Xuất phát từ đậc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và
gia đình là quan hệ giữa các chủ thể gắn bó với nhau bởi yếu tố tình cảm, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng nên Luật Hôn nhân và gia đình có phương pháp điều chỉnh linh hoạt và mềm dẻo. Hầu hết
các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình không quy định biện pháp chế tài.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình có các đặc điểm sau:
- Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể luôn tương ứng với
nhau. Đồng thời, các chù thể tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình vừa có quyền, vừa phải thực
hiện nghĩa vụ. Vì vậy, trong các điều luật luôn quy định các chủ thể có “quyền và nghĩa vụ”.
- Các chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình.
- Các chủ thể không được phép bằng sự tự thỏa thuận để làm thay đổi những quyền và nghĩa vụ
mà pháp luật đã quy định.
- Các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình gắn bó mật thiết với các quy tắc đạo đức, phong
tục tập quán và lẽ sống trong xã hội.
3. Quy định pháp luật về kết hôn Điều kiện kết hôn
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
+ Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
+ Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên
nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
+ Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định sau đây:
Những trường hợp cấm kết hôn
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
+ Người đang có vợ hoặc có chồng;
+ Người mất năng lực hành vi dân sự;
+ Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
+ Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng
với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
+ Giữa những người cùng giới tính. Đăng ký kết hôn
+ Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ
quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định về tổ chức đăng ký kết hôn dưới đây.
- Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định về tổ chức đăng ký kết hôn đều không có giá trị pháp lý.
- Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp
luật công nhận là vợ chồng.
- Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
+ Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa.
Thẩm quyền đăng ký kết hôn
+ Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
+ Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết
hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài.
Giải quyết việc đăng ký kết hôn
+ Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn
kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan
đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn.
+ Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết
hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì
có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
Tổ chức đăng ký kết hôn
Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết
hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện
cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
4. Quy định của pháp luật về kết hôn với người Hàn Quốc
4.1 Quy định về điều kiện kết hôn
Khi kết hôn với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện
kết hôn. Trong trường hợp các bạn lựa chọn kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì
còn phải tuân theo điều kiện kết hôn của pháp luật Việt Nam được quy định như sau:
Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
 Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
 Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
 Cả hai bên nam, nữ hông bị mất năng lực hành vi dân sự
 Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn bao gồm
 Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
 Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
 Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng vớingười khác
hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng vớingười đang có chồng, có vợ;
 Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha
dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
4.2 Quy định về cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn
Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể cơ quan đăng ký kết hôn khi kết hôn với người
Hàn. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, kết hôn với người Hàn có thể thực hiện đăng ký tại một trong hai cơ quan sau:
 Thứ nhất là tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại Việt Nam;
 Thứ hai là tại cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc tại Hàn Quốc.
Kết hôn với người Hàn tại Hàn Quốc có thể thực hiện vắng mặt người Việt nên đây cũng là cách
đăng ký kết hôn phù hợp trong trường hợp người Hàn không thể thu xếp được nhiều thời gian để
sang Việt Nam làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Kết hôn tại Việt Nam thì thủ tục sẽ phức tạp hơn và người Hàn sẽ phải có mặt nhiều lần, đồng
thời thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn cũng kéo dài tới gần 3 tuần.
4.3 Quy định về hồ sơ đăng ký kết hôn và trình tự thực hiện kết hôn
Đối với giấy tờ cần chuẩn bị khi kết hôn với người nước ngoài thì sẽ được thực hiện theo luật Hộ
tịch 2014 và các văn bản hướng dẫn.
Tuy nhiên, những quy định này để áp dụng cho việc kết hôn với công dân của bất kỳ quốc gia
nào, trong khi đó mỗi quốc gia lại có quy định riêng về cấp giấy tờ cho công dân của nước họ kết
hôn với người Việt. Vì vậy, nếu chỉ đọc những quy định trong Luật Hộ tịch nói trên mà thực hiện
thì e sẽ thiếu sót hoặc gặp khó khăn khi chuẩn bị giấy tờ.
Trình tự thực hiện thì khá đơn giản, hai bạn chỉ cần có mặt tại cơ quan có thẩm quyền để xuất
trình giấy tờ tùy thân và nộp những giấy tờ mà hai bạn đã chuẩn bị cho chuyên viên của cơ quan có thẩm quyền.
Chuyên viên sẽ kiểm tra giấy tờ tùy thân và giấy tờ mà hai bạn đã nộp, nếu mọi thứ đã chính xác
thì sẽ thông báo về thời gian nhận kết quả. Tới lịch trả kết quả, hai bạn có mặt để nhận kết quả đăng ký kết hôn.
Nếu kết hôn vắng mặt tại Hàn Quốc thì người Hàn sẽ một mình thực hiện.
4.4 Quy định của pháp luật về ghi chú kết hôn với người Hàn Quốc
Khi đã hoàn tất việc đăng ký kết hôn tại một trong những cơ quan nêu trên và nhận được kết quả
thì các bạn cần tiến hành thủ tục ghi chú kết hôn tại cơ quan còn lại, chi tiết như sau:
Nếu lựa chọn đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại Việt Nam thì sau khi
nhận được Giấy chứng nhận kết hôn, người Hàn sẽ chuẩn bị giấy tờ và có mặt tại cơ quan có
thẩm quyền của Hàn Quốc để thông báo với cơ quan này về việc đã hoàn tất việc đăng ký kết
hôn với bạn tại Việt Nam.
Ngược lại nếu lựa chọn làm thủ tục đăng ký kết hôn vắng mặt tại cơ quan có thẩm quyền của
Hàn Quốc tại Hàn Quốc thì sau khi người Hàn làm thủ tục kết hôn xong, người Việt sẽ tiến hành
thủ tục ghi chú kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện – nơi mình cư trú.
5. Căn cứ xác định và phân chia tài sản của vợ, chồng
Thứ nhất, về căn cứ xác định và phân chia tài sản chung của vợ, chồng.
Một là, về căn cứ xác định tài sản chung của vợ, chồng.
Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc
trong các tổ chức kinh tế khác”. Theo đó, khi công dân có quyền sở hữu các tài sản thì các tài sản
đó được công nhận là tài sản hợp pháp của họ. Vợ, chồng là những cá nhân và họ đương nhiên
có các quyền đó. Khi có quyền sở hữu tài sản thì mới có thể tạo lập nên khối tài sản dù là tài sản
chung hay tài sản riêng của cá nhân trong xã hội.
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ Luật dân sự năm 2015, Điều 213 quy định về
sở hữu chung của vợ chồng:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết định của Toà án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận theo quy định của pháp luật về
hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.
Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 lại quy định khá cụ thể về chế định tài sản chung của
vợ chồng: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,
hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng
thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ
trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao
dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của
gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là
tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tà sản chung”.
Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá – tiền tệ nói riêng
và các quan hệ nhân thân khác trên cơ sở bình đẳng, độc lập của chủ thể khi tham gia các quan
hệ đó. Luật Dân sự và Luật Hôn nhân Gia đình đều có chung một đối tượng điều chỉnh là nhóm
quan hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đó, Bộ luật Dân sự 2015
có một số quy định cụ thể về vấn đề sở hữu, chiếm hữu, định đoạt và thừa kế tài sản. Qua đó, các
quy định được nêu nhằm xác định các trường hợp xác lập tài sản chung của vợ chồng.
Hai là, về căn cứ phân chia tài sản chung của vợ, chồng.
Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “ Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có
quyền thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42
của Luật này, nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. Trong trường
hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy
định tại Điều 59 của Luật này”. Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng có thể được giải
quyết theo thoả thuận của vợ chồng hoặc thông qua con đường Toà án. Bên cạnh đó, thoả thuận
về việc chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có công chứng theo quy
định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của vợ chồng.
Tại Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 06/01/2016 của Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
(1) Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thoả thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả
việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thoả thuận được mà có yêu cầu thì Toà án
phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận hay theo luật
định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án xử lý như sau: Trường hợp không có văn bản thoả
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hợp cụ
thể mà Toà án xử lý như sau: Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng hoặc văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Toà án
tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thoả thuận để chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thoả thuận hoặc thoả thuận không
rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và
các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
(2) Khi giải quyết ly hôn, nếu có yêu cầu tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị
vô hiệu thì Toà án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
(3) Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Toà án phải xác định vợ, chồng có quyền,
nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba và tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì
Toà án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ
với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Toà án hướng dẫn họ để giải
quyết bằng một vụ án khác.
(4) Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng
khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu
tố sau: (i) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng
lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng
cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân
và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn
được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm
duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của
vợ, chồng; (ii) “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài
sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ,
chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà
chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu
nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn;
(iii) “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các
bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo
đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang
hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải
thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi
bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện
sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành
vi dân sự; (iiii) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ
hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Thứ hai, về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Nhìn từ góc độ so sánh với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có thể thấy:
Một là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã bỏ căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
là “đồ dùng, tư trang cá nhân”. Điều này xuất phát từ nhu cầu giải quyết những bất cập, vướng
mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với căn cứ không phù hợp nói trên. Bởi, theo quy định
của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì cứ là đồ dùng, tư trang cá nhân thì đều là tài sản
riêng của vợ, chồng mà không có quy định nào hạn chế giá trị tài sản, không quy định loại tài sản
nào được xem là đồ dùng, tư trang cá nhân thuộc sở hữu riêng; bên cạnh đó, pháp luật cũng
không xem xét nguồn gốc hình thành đồ dùng, tư trang là tài sản chung hay riêng. Do vậy, có thể
hiểu người nào (vợ hoặc chồng) quản lý, sử dụng tài sản đó sẽ được xác định là tài sản riêng của
người đó. Với quy định như vậy rõ ràng là không phù hợp, vô tình đã tạo khe hở cho vợ hoặc
chồng chuyển dịch trái phép tài sản chung sang tài sản riêng, gây thiệt hại cho bên còn lại.
Ngoài ra, xuất phát từ văn hoá truyền thống của người Việt Nam trong việc tặng, cho con cái các
loại tư trang vào ngày cưới hỏi, văn hoá cất giữ tiền bạc thông qua các loại tư trang; vì vậy, thiết
nghĩ các món trang sức trong trường hợp này được ghi nhận như một sự tích luỹ của cải vật chất
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mang thuộc tính “tiền tệ”, như một phương thức cất giữ,
tiết kiệm tài sản chung của gia đình. Do đó, việc pháp luật Hôn nhân gia đình bỏ căn cứ nên trên
là hoàn toàn phù hợp và được xem là bước tiến mới trong quá trình sửa đổi luật.
Hai là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể khối tài sản hình thành từ tài sản
riêng của vợ, chồng chính là tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình cũ (Luật năm 2000), đưa ra những căn cứ xác định tài sản
chung, đồng thời lại vừa đưa ra những căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định như
vậy thì về cơ bản đã khá rõ ràng cho việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, thực tế giải quyết tranh
chấp vẫn xảy ra những trường hợp tài sản “mập mờ” chưa được xác định là tài sản chung hay tài
sản riêng, bởi nó không thuộc trường hợp theo quy định tại Điều 27 và Điều 32 Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000, do vậy, loại tài sản trên đã được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
xác định cụ thể đó là tài sản riêng của vợ, chồng là một minh chứng cụ thể. Do đó, việc Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 xác định tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ chồng đó chính là
tài sản riêng của vợ, chồng. Đây là một bước tiến bộ, đảm bảo quyền tài sản riêng của cá nhân,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình áp dụng pháp luật.
Ba là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã đưa ra căn cứ xác định tài sản riêng còn là các
“tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Sở dĩ, pháp luật quy định nhóm tài sản này
thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như tác dụng của nó. Đảm bảo được
quyền tự do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, như thế nào được
coi là “thiết yếu” thì đây là một vấn đề cần được xem xét. Đối với những cá nhân hoặc những gia
đình có mức sống khác nhau thì khái niệm đồ dùng thiết yếu sẽ không giống nhau. Chẳng hạn
như, đối với cá nhân này thì những vật dụng như xoong, nồi, bát đĩa, giày dép, quần áo là những
đồ dùng thiết yếu hàng ngày, nhưng đối với cá nhân khác thì lại xem những vật dụng như điện
thoại, laptop, ô tô, tủ lạnh… là những đồ dùng thiết yếu của mình, do vậy nó tuỳ thuộc vào điều
kiện sống của mỗi cá nhân cụ thể là khác nhau. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được coi
là một bước đột phá tiến bộ, linh hoạt và đã thể hiện rất rõ việc trao quyền tài phán cho cơ quan
xét xử (Toà án) trong việc xem xét để giải quyết vụ việc dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng cá
nhân, gia đình khi phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp.
Bốn là, tài sản riêng của vợ, chồng còn gồm các loại tài sản mà theo quy định của pháp luật đó là
tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định này tưởng chừng chỉ là căn cứ để dự liệu cho các trường
hợp pháp luật chưa dự liệu hết nhưng thực tế nó lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và vô cùng lớn
trong quá trình nhận thức và là cơ sở pháp lý vững chắn trong việc áp dụng pháp luật – điều mà
trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chưa thể hiện được. Với quy định như vậy đã
giúp dẫn chiếu cho việc áp dụng các quy định của văn bản pháp luật khác trong việc xác định cụ
thể các loại tài sản, đặc biệt là tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ chồng được hình thành trong
thời kỳ hôn nhân. Chẳng hạn như, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP TANGTC ngày 10/8/2004
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, xác định tài sản mà người có công với cách
mạng được nhận trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của người đó, hay dẫn chiếu xác định tài
riêng của vợ, chồng dựa vào thoả thuận chế độ tào sản chung sống.
Năm là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tài sản mà vợ, chồng thoả thuận là tài
sản riêng của mỗi bên theo thoả thuận về chế độ tài sản được lập trước khi kết hôn là tài sản
riêng của mỗi người. Đây tiếp tục lại là một bước đột phá lớn nữa trong việc quy định chế độ tài
sản của vợ, chồng, đảm bảo phù hợp theo nguyên tắc tự thoả thuận và định đoạt của pháp luật
dân sự; đảm bảo phù hợp với tình hình mới trong quan hệ hôn nhân gia đình trong điều kiện nhu
cầu ngày càng cao trong việc chủ động đầu tư, sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế là tài sản
của bản thân cá nhân và gia đình; đây cũng được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu
trong việc phân định và bảo vệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng trong điều kiện mà khối tài sản có
trước khi kết hôn của các cặp vợ chồng ngày càng tăng. Ngoài ra, để đảm bảo giữ vững tính cộng
đồng của hôn nhân, đảm bảo cho lợi ích chung của gia đình, con cái, Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 đã đưa ra những nguyên tắc, những điều kiện có hiệu lực của thoả thuận, đồng thời
giao cho Toà án tối cao tiếp tục hoàn thiện các điều kiện có hiệu lực của thoả thuận.