Luật hợp đồng - Luật quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Luật hợp đồng - Luật quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
QUY ĐỊNH VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN
1. Thế nào là thay đổi hoàn cảnh cơ bản
Theo khoản 1 Điều 420 Bộ luật dân sự 2015:
"Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;
b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết
hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại
nghiêm trọng cho một bên;
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù
hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích."
Như vậy, hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau:
- Thứ nhất, sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng. Sự
thay đổi hoàn cảnh phải là yếu tố khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên
trong hợp đồng, ví dụ: thiên tai, bão lũ, đình công,... Ngoài ra, thời điểm của sự thay đổi của hoàn
cảnh là sau khi các bên đã giao kết hợp đồng, vì nếu diễn ra trước hoặc tại thời điểm giao kết thì bắt
buộc các bên phải nhận thức để thỏa thuận nội dung của hợp đồng hoặc không xác lập hợp đồng để
bảo đảm lợi ích của nhau.
- Thứ hai, tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn
cảnh. Quy định này rất quan trọng, ghi nhận sự khách quan của hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Nó nằm
ngoài ý chí của các bên chủ thể trong hợp đồng. Bởi nếu các bên có thể nhận thức được sự thay đổi
về hoàn cảnh từ trước và thậm chí là tại thời điểm giao kết hợp đồng mà các bên vẫn thỏa thuận
giao kết những nội dung như lúc không có sự thay đổi về hoàn cảnh thì các bên không được hưởng
những quyền lợi chính đáng như chấm dứt hoặc thay đổi nội dung của hợp đồng.
- Thứ ba, hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được
giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác. Theo quy định này, sự thay đổi
hoàn cảnh thực hiện hợp đồng làm cho các bên không thể thực hiện được những điều khoản đã ký
kết. Mức độ ảnh hưởng của hoàn cảnh có thể khiến cho hợp đồng không thể giao kết hoặc giao kết about:blank 1/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
nhưng với nội dung hoàn toàn khác nhau. Điều kiện này nhằm hướng tới xác định mức độ ảnh
hưởng của sự thay đổi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng đối với các bên trong hợp đồng.
- Thứ tư, việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt
hại nghiêm trọng cho một bên. Dựa trên mức độ ảnh hưởng của sự thay đổi hoàn cảnh thực hiện hợp
đồng, nếu như các bên vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung họp đồng
thì có thể sẽ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho một bên.
- Thứ năm, bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho
phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng
đến lợi ích. Đây là quy định nhằm xác định nghĩa vụ của bên bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của hoàn
cảnh thực hiện hợp đồng. Nếu như bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu chấm dứt hoặc sửa
đổi hợp đồng thì bản thân họ cũng có nghĩa vụ ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của sự
thay đổi hoàn cảnh đến lợi ích của mình. Khi bên có lợi ích bị ảnh hưởng đưa ra yêu cầu chấm dứt
hoặc thay đổi nội dung của hợp đồng thì phải chứng minh đầy đủ các điều kiện, đặc biệt phải chứng
minh mình đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà vẫn không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh
hưởng đến lợi ích từ sự thay đổi đó.
2. Phân biệt sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hợp đồng
Sự kiện bất khả kháng và hoàn thành thay đổi cơ bản là hai điều khoản các bên cần lưu ý khi soạn
thảo hợp đồng để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình. Tuy nhiên, hai khái niệm này có những điểm
tương đồng đến mức nhiều người không thể phân biệt được đâu là trường hợp bất khả kháng, đâu là
hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tiêu
Sự kiện bất khả kháng
Thực hiện hợp đồng khi hoàn chí cảnh thay đổi cơ bản phân biệt Căn
Khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015
Khoản 1 Điều 420 BLDS năm cứ 2015 pháp lí Điều
1. Sự kiện xảy ra một cách khách quan
1. Sự thay đổi hoàn cảnh do kiện
(sự kiện xảy ra nằm ngoài phạm vi kiểm
nguyên nhân khách quan xảy
soát, ý chí của bên vi phạm).
ra sau khi giao kết hợp đồng. about:blank 2/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
2. Không thể lường trước được tại thời
2. Tại thời điểm giao kết hợp
điểm giao kết hợp đồng.
đồng, các bên không thể
3. Không thể khắc phục được mặc dù đã lường trước được về sự thay
áp dụng mọi biện pháp cần thiết. đổi hoàn cảnh.
3. Hoàn cảnh thay đổi lớn
đến mức nếu như các bên biết
trước thì hợp đồng đã không
được giao kết hoặc được giao
kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác.
4. Việc tiếp tục thực hiện hợp
đồng mà không có sự thay đổi
nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt
hại nghiêm trọng cho một bên.
5. Bên có lợi ích bị ảnh hưởng
đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết trong khả năng cho phép,
phù hợp với tính chất của hợp
đồng mà không thể ngăn
chặn, giảm thiểu mức độ ảnh
hưởng đến lợi ích. Hậu
1. Các bên thỏa thuận kéo dài thời gian
1. Bên có lợi ích bị ảnh hưởng quả
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; Nếu các bên có quyền yêu cầu bên kia đàm pháp
không có thỏa thuận hoặc không thỏa
phán lại hợp đồng trong một lí
thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ thời hạn hợp lý.
hợp đồng được tính thêm một thời gian 2. Yêu cầu Tòa án:
bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả - Chấm dứt hợp đồng tại một
kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc thời điểm xác định. phục.
- Sửa đổi hợp đồng để cân
2. Căn cứ chấm dứt hợp đồng mà không
bằng quyền và lợi ích của các
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
bên do hoàn cảnh thay đổi cơ hại. bản.
3. Bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng
Tuy nhiên, Tòa án chỉ được about:blank 3/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì
quyết định việc sửa đổi hợp
không phải chịu trách nhiệm dân sự.
đồng trong trường hợp việc
4. Không phải chịu trách nhiệm bồi
chấm dứt hợp đồng sẽ gây
thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại thiệt hại lớn hơn so với các
phát sinh là do sự kiện bất khả kháng.
chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.
Trong quá trình đàm phán sửa
đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa
án giải quyết vụ việc các bên
vẫn phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ theo hợp đồng.
3. Hậu quả pháp lý khi có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh trong quá trình thực hiện hợp đồng
3.1 Phát sinh quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng
Khoản 2 Điều 420: “Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có
quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời gian hợp lý.”
Hoàn cảnh áp dụng: trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Chủ thể: bên có lợi ích bị ảnh hưởng
Nội dung: quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng
Thời hạn: trong một thời gian hợp lý
Các vấn đề đặt ra từ điều luật này:
Quy định này chỉ cho bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại chứ không
chỉ rõ rằng bên kia có nghĩa vụ phải đồng ý đàm phán lại hay được phép từ chối. Trong khi PECL
đã nêu khá rõ ràng trong khoản 2 Điều 6.111 rằng: “the parties are bound to enter into negotiations
with a view to adapting the contract or terminating it” (các bên phải tiến hành đàm phán lại với mục
tiêu chỉnh sửa hoặc chấm dứt hợp đồng đó). about:blank 4/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
Không yêu cầu bên bị ảnh hưởng phải có nghĩa vụ chứng minh rằng hoàn cảnh thay đổi đã xảy ra và
lợi ích của mình bị ảnh hưởng. Theo PICC 2016, khoản 1 Điều 6.2.3: “The request shall be made
without undue delay and shall indicate the grounds on which it is based.” (Yêu cầu đàm phán lại
không được chậm trễ quá mức và phải chỉ ra các cơ sở làm nên yêu cầu này, tức là phải chứng minh
thiệt hại - cơ sở hình thành yêu cầu đàm phán lại).
“trong một thời gian hợp lý” là một chi tiết quá mơ hồ. Tương tự trong PICC cũng không quy định
khoảng thời gian bao lâu mà chỉ nêu khái quát: “without undue day” (không được chậm trễ quá
hạn). Còn PECL không đề cập tới thời hạn. Vậy giả sử bên có lợi ích bị ảnh hưởng yêu cầu đàm
phán lại quá mốc thời hạn đó thì hệ quả pháp lý đối với 2 bên là gì? Liệu có thể ngầm hiểu rằng bên
có lợi ích bị ảnh hưởng đã từ bỏ quyền lợi của mình hay không. Ngoài ra, điều này gây ra nhiều bất
cập khi mà lợi ích của các bên phụ thuộc vào thời gian, thời gian đàm phán càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn thất.
3.2 Khi các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng.
Pháp luật không quy định thời gian cụ thể để các bên đàm phán lại hợp đồng, chỉ khi các bên không
đạt được sự thỏa thuận thì mới nhờ Tòa án can thiệp, tức là các bên phải nỗ lực đàm phán, thỏa
thuận chỉnh sửa, bổ sung điều khoản hợp đồng cho phù hợp với hoàn cảnh mới, chỉ khi nào các bên
không đạt được sự thống nhất thì mới được nhờ Tòa án giải quyết.
Khi đó theo Khoản 3 Điều 420 BLDS 2015: Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc
sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án: (i) Chấm dứt
hợp đồng tại một thời điểm xác định; (ii) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong
trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp
đồng nếu được sửa đổi.
Như vậy, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng khi có hoàn cảnh thay đổi cơ bản chỉ xảy ra khi có
Quyết định của Tòa án, một trong các bên không thể tự ý chấm dứt và cũng không phải cứ có yêu
cầu là Tòa án sẽ cho chấm dứt hợp đồng. Việc can thiệp này là cần thiết bởi nó như “sợi dây trói
buộc” mà bên bị ảnh hưởng sẽ mong muốn được “giải thoát” và “chỉ” Tòa án mới có khả khả năng “giải phóng” cho họ.
Một vấn đề cần lưu ý là trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ
việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác (Khoản 4 Điều 420 BLDS 2015). Có nghĩa rằng trừ khi các bên có thỏa thuận về việc
ngừng thực hiện hợp đồng, nếu không, các bên vẫn phải thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng đã about:blank 5/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
xác lập trước đó trong suốt quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng và ngay cả trong quá
trình Tòa án giải quyết vụ việc.
4. Thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi hành
Về việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, BLDS 1995 và BLDS 2005 không có quy định
cụ thể mà chỉ tồn tại ở một số văn bản luật chuyên ngành. Có thể kể đến như Luật kinh doanh bảo
hiểm năm 2000 ( Điều 2), Luật đấu thầu 2005, Luật xây dựng ( sửa đổi năm 2020)…Các loại văn
bản luật này đã tương đối điều chỉnh được những phát sinh từ thực hiện hợp đồng, tuy nhiên vẫn
còn tồn tại những bất cập, bất hợp lí trong giải quyết khiến cho tính công bằng trong xử lí chưa
được đảm bảo cho các bên. Như vậy, chứng tỏ một điều hệ thống pháp luật Việt Nam đã đạt về sự
phong phú nhưng về nội dung và chất lượng giải quyết vấn đề thì chưa được thống nhất.
Một trong những vụ việc về thay đổi hoàn cảnh trong thực hiện hợp đồng đã để lại nhiều khó khăn
trong giải quyết Năm 2010, Công ty M (trụ sở tại Đắk Lắk) ký hợp đồng với Công ty T (trụ sở tại
Thành phố Hồ Chí Minh) để thiết kế một hệ thống chế biến cà phê cho Công ty M. Tổng giá trị hợp
đồng là hơn bốn tỷ đồng, thời hạn mà Công ty T phải bàn giao hệ thống chế biến là hai năm, kể từ
khi ký hợp đồng. Một năm sau, Công ty T tạm ngưng công việc, yêu cầu Công ty M ký thêm phụ
lục hợp đồng theo hướng tăng giá lên do hoàn cảnh thay đổi. Theo Công ty T, tại thời điểm hai bên
ký hợp đồng, nhiều bộ phận, thiết bị để chế tạo hệ thống chế biến cà phê không phải nhập ngoại do
các công ty trong nước có thể sản xuất được. Tuy nhiên, sau khi có quy định mới của Nhà nước thì
một số linh kiện không có hàng trong nước, khiến Công ty T phải nhập khẩu từ nước ngoài, và giá
thành tăng gấp ba lần. Nếu không tăng giá hợp đồng thì Công ty T sẽ bị lỗ nặng, và không thể tiếp
tục kinh doanh. Công ty M không đồng ý, cho rằng Công ty T đã “cố tình viện lý do để đơn phương
chấm dứt hợp đồng” nên khởi kiện, yêu cầu Công ty T phải tiếp tục thực hiện công việc theo đúng
thời hạn đã cam kết, nếu không sẽ phải chịu phạt vi phạm hợp đồng.
Tại phiên xét xử sơ thẩm, Công ty T đề nghị Tòa án cho phép hai bên được điều chỉnh hợp đồng
với một giá thành hợp lý hơn. Tuy nhiên, Tòa án đã không chấp nhận và tuyên buộc Công ty T phải
tiếp tục thực hiện hợp đồng theo đúng thời gian và mức giá trong hợp đồng, nếu không sẽ chịu phạt
vi phạm hợp đồng. Theo Tòa án, dù hoàn cảnh thực tế thay đổi khiến giá thành sản xuất tăng cao
nhưng pháp luật không cho phép điều chỉnh lại trong tình huống này, nên Công ty T phải tôn trọng
hợp đồng đã ký. Công ty T kháng cáo và tại phiên xét xử phúc thẩm sau đó, Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh cũng tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Từ thế kỷ XIX, trên thế giới đã áp dụng những quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh có sự
thay đổi cơ bản (PECL, PICC). Tiếp thu những tiến bộ trong pháp lí của các quốc gia trên thế giới, about:blank 6/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
Điều 420 BLDS 2015 đã ghi nhận những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện hợp đồng khi có sự thay
đổi về hoàn cảnh. Quy định của pháp luật Việt Nam về việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi theo BLDS 2015 không chỉ phần nào giải quyết được những vấn đề phát sinh gây nhiều cản trở
cho các bên khi tham gia giao kết hợp đồng mà còn cho thấy được sự tiến bộ trong giải quyết các
vấn đề tranh chấp, thể hiện sự quan tâm rất lớn đến việc tạo lập hành lang pháp lý trong thời kì hội
nhập kinh tế đất nước. Có thể thấy quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc trung thực, thiện
chí thực hiện hợp đồng, đồng thời đảm bảo được sự công bằng khi hoàn cảnh thay đổi trong việc
thực hiện hợp đồng quá lớn. Bên cạnh đó, do pháp luật VIệt Nam hiện nay chỉ quy định về điều
khoản bất khả kháng mà trong đó không phải trường hợp thay đổi hoàn cảnh nào cũng có thể được
coi là sự kiện bất khả kháng nên điều khoản này đưa ra những căn cứ xác đáng để giải quyết những
vấn đề mà quy định về bất khả kháng hiện nay chưa đề cập được hết.
Tuy nhiên việc áp dụng điều 420 BLDS năm 2015 vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập và gây nhiều
khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Thứ nhất, về yêu cầu đàm phán đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản như quy định
về nghĩa vụ, trách nhiệm khi đàm phán lại không có sự cụ thể, rõ ràng, khiến cho mơ hồ trước việc
đưa tranh chấp ra đàm phán. Bên cạnh đó, quyền được sửa đổi hợp đồng của người thứ ba cũng gây
mâu thuẫn với quy định tai Điều 417 BLDS 2015.
Thứ hai, về hoàn cảnh thay đổi gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho một bên, theo như Điểm c Khoản
1 Điều 420 “Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không
được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác”, tuy nhiên lại không đưa ra
một định nghĩa cụ thể về “thiệt hại nghiêm trọng” là như thế nào. Thiệt hại nghiêm trọng ở đây có
thể được hiểu là thiệt hại gây nên những tổn thất lớn về vật chất lẫn tinh thần, khiến cho cả hai bên
không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng nếu như không có cách giải quyết thỏa đáng. Thực tiễn tài
phán tại nhiều quốc gia cũng thể hiện rằng sự thay đổi hoàn cảnh phải rất lớn mới được xem là hoàn
cảnh thay đổi cơ bản. Ví dụ, trong khi Tòa án Nga thường yêu cầu mức tăng từ 100% trở lên so với chi phí ban đầu.
Thứ ba, với những tranh chấp về thay đổi hoàn cảnh khi thực hiện hợp đồng thì điều luật lại có sự
hạn chế khi chỉ quy định Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong khi đó, Trọng tài
thương mại cũng có thể trở thành lựa chọn để giải quyết những tranh chấp về thay đổi hoàn cảnh khi
thực hiện hợp đồng, điều này gây mâu thuẫn với quy định về thẩm quyền trọng tài trong Bộ luật Tố
tụng Dân sự 215 và luật Trọng tài Thương mại 2010 khi các bên tự có quyền tự do lựa chọn Tòa án
hoặc Trọng tài khi xảy ra tranh chấp thương mại. about:blank 7/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
5. Quy định của các nước trên thế giới về hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
5.1 Cấp độ quốc tế
Phần lớn các hệ thống pháp luật ghi nhận khả năng điều chỉnh lại hợp đồng. Ở cấp độ quốc tế, có 2
Bộ nguyên tắc về hợp đồng rất nổi tiếng và có ảnh hưởng nhiều trên thế giới là Bộ nguyên tắc
UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC), Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng (PECL)
đều ghi nhận trường hợp ngoại lệ - quy định về Hardship - Hoàn cảnh khó khăn - hoàn cảnh mà các
bên không dự liệu và không thể dự liệu được khi ký kết hợp đồng nhưng lại xảy ra trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Trong cả hai Bộ nguyên tắc, đều có quy định cho phép điều chỉnh lại hợp đồng
và theo các nhà bình luận, “việc quy định về thay đổi hoàn cảnh tương ứng với xu hướng hiện đại đề
xuất trao cho Tòa án (Trọng tài) quyền điều tiết để giảm bớt những hà khắc của tự do hợp đồng và
của hiệu lực ràng buộc của hợp đồng". Ngoài ra còn có Công ước Viên 1980.
UNIDROIT – Viện Thống nhất tư pháp quốc tế đã cho ra một nguyên tắc chung gồm những quy
định về hợp đồng thương mại quốc tế – PICC , trong đó quy định “Một hoàn cảnh được gọi là khó
khăn, nếu nó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng của hợp đồng, hoặc làm cho chi phí thực
hiện tăng quá cao, hoặc giá trị nhận được do thực hiện nghĩa vụ giảm quá thấp” – định nghĩa về
Hardship (Hoàn cảnh khó khăn); Nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng khi bị hoàn cảnh khách quan tác
động một cách tiêu cực và hậu quả pháp lý khi xuất hiện yếu tố trên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Các nước Châu Âu coi PECL là văn bản luật chung mà các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng cần
phải tuân theo trong quá trình giao kết và thực hiện. Với tên gọi Change Of Circumstances (hoàn
cảnh thay đổi), Điều 6.111 PECL đã quy định điều kiện và hậu quả pháp lý của hợp đồng khi gặp
các sự kiện thay đổi khách quan.
Về quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ hợp đồng, PECL quy định: “Nếu việc thực hiện
hợp đồng trở nên quá khó khăn bởi vì có sự thay đổi về hoàn cảnh, các bên buộc phải tiến hành thỏa
thuận với quan điểm là chỉnh sửa hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng”. Quy định này nêu rõ quyền
và nghĩa vụ cụ thể cho mỗi bên, tránh trường hợp có bên lợi dụng quy định “sơ hở” này mà “Từ
chối thỏa thuận hoặc vi phạm thỏa thuận vì trái với nguyên tắc thiện chí và trung thực”.
Trách nhiệm phải chứng minh của bên có lợi ích bị ảnh hưởng được quy định ở Điều 79 Công ước
Viên (CISG) năm 1980: “ Nếu một bên không chịu trách nhiệm về việc không thực hiện bất kì một
nghĩa vụ nào đó của mình nếu chứng minh được rằng việc không thực hiện đó là do một trở ngại
nằm ngoài sự kiểm soát của họ” hay cũng tương tự như vậy, UNIDROIT quy định: “Bên có nghĩa
vụ được miễn trừ hậu quả do việc không thực hiện của bên mình, nếu chứng minh được rằng việc
không thực hiện là do một trở ngại vượt khỏi tầm kiểm soát của mình”. PICC quy định về vấn đề about:blank 8/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
này: “Bên bị bất lợi có quyền đề nghị đàm phán lại. Lời đề nghị phải được đưa ra đúng lúc và đầy đủ cơ sở”.
Vai trò của Tòa án hoặc Trọng tài khi có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh trong thực hiện hợp đồng
được quy định trong PICC “Nếu hai bên không đạt được sự thỏa thuận nào khác, mỗi bên đều có
quyền yêu cầu tòa án giải quyết”, hay PECL “Nếu các bên không đạt được thỏa thuận trong khoảng
thời gian hợp lý, toà án có thể..”.
5.2 Quy định của các nước trên thế giới cấp độ quốc gia
Nhiều hệ thống đã luật hóa việc cho phép điều chỉnh lại hợp đồng. “Bộ luật dân sự Ý năm 1942
dường như là Bộ luật đầu tiên chấp nhận thuyết thay đổi hoàn cảnh, cơ chế đã có những ảnh hưởng
tới một số hệ thống sau này, nhất là ở các nước Mỹ Latinh”. Ở Colombia, “ban đầu thuyết về thay
đổi hoàn cảnh đã được án lệ phát triển từ việc giải thích một số điều luật của Bộ luật dân sự. Tòa án
công lý tối cao Colombia đã chấp nhận khả năng thay đổi hợp đồng khi trong quá trình thực hiện, có
một số sự kiện đặc biệt không lường trước được hay không thể lường trước được xuất hiện”. Sau
đó, “năm 1972, các nhà lập pháp Colombia đã ghi nhận thuyết về thay đổi hoàn cảnh như một quy
định chung, được xây dựng dựa vào triết lý của Điều 1967 Bộ luật dân sự Ý".
Những nước chưa luật hóa vấn đề này cũng có xu hướng luật hóa cơ chế này. Chẳng hạn, Bộ luật
dân sự Pháp hiện nay không có quy định minh thị cho phép điều chỉnh lại hợp đồng nhưng Pháp
đang tiến hành sửa đổi Bộ luật dân sự. Trong Dự thảo được công bố năm 2012 và 2013 liên quan
đến hợp đồng, chúng ta đều thấy quy định về điều chỉnh lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi.
Ở Pháp: Vụ tranh chấp về hợp đồng cung cấp khí đốt giữa Công ty khí gas Bordeaux với Tòa Thị
chính thành phố, do Tham chính viện (Tòa Hành chính tối cao Pháp) xử ngày 30/3/1916, Tham
chính viện đã khẳng định rằng, khi hoàn cảnh thay đổi không lường trước được đối với một hợp
đồng hành chính, một bên có thể được bồi thường để xác lập lại sự cân bằng về tài chính trong hợp
đồng và để tránh việc cung cấp dịch vụ công cộng bị gián đoạn. Mặc dù các bên đã thỏa thuận trong
hợp đồng một giá cung cấp khí đốt cố định trong một khoảng thời gian dài, nhưng do giá khí đốt
tăng đột biến, nếu tòa không sửa đổi các điều kiện (hoặc tăng giá) cung cấp khí đốt, chắc chắn công
ty khí đốt sẽ đi đến bờ vực phá sản và việc cung cấp khí đốt sẽ phải dừng lại. Do đó, Tham chính
viện đã cho rằng, các bên có thể thỏa thuận để thay đổi hợp đồng, nhưng nếu bên có quyền từ chối
việc này thì công ty khí đốt có quyền đòi một khoản tiền bù đắp tổn thất, gọi là tiền bồi thường cho
khoản tổn thất không thể dự đoán (indemnité d’imprévision), do cơ quan hành chính được cung cấp khí đốt trả. about:blank 9/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
Tuy được án lệ hành chính chấp nhận, nhưng lý thuyết này đã bị các tòa án tư pháp của Pháp bác bỏ
gần như tuyệt đối. Trong vụ Kênh đào Craponne do Toà án tư pháp tối cao xử ngày 6/3/1876:
“Trong mọi trường hợp, toà án không thể căn cứ vào thời gian và hoàn cảnh để thay đổi các thoả
thuận của các bên và thay thế các thoả thuận đã được các bên tự do chấp thuận bằng những điều
khoản mới, dù toà án cho rằng quyết định của mình có công bằng thế nào chăng nữa”. Và, các toà
án tư pháp đã luôn trung thành với định hướng này, bất chấp những biến động kinh tế và tiền tệ xảy
ra sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Bản án của Toà án tư pháp tối cao ngày 18/1/1950 lần nữa, đã
khẳng định: “Thẩm phán không thể viện dẫn việc tăng giá, kể cả khi điều đó đã được xác nhận, để
giải phóng một bên khỏi những cam kết rõ ràng và chính xác mà bên đó đã tự do chấp thuận”. Mặc
dù vậy, Tòa Paris cũng từng dẫn “Điều khoản tự vệ” của hợp đồng để cho phép các bên sẽ “tiến
hành thương lượng để xem xét khả năng thay đổi hợp đồng (về giá hoặc một điều khoản khác)” nếu
giá xăng tăng hơn 6 francs một tấn so với giá quy định trong hợp đồng.
Các phán quyết của Tòa án Tư pháp tối cao bị nhiều học giả cho là cứng nhắc, và cần phải có sự
thay đổi cách nhìn nhận này. Thực tiễn thương mại ở Pháp cũng phản ứng lại các phán quyết này
bằng cách, khi ký kết hợp đồng, các bên thường đưa vào các hợp đồng của mình điều khoản cho
phép đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Chính vì thế, Michel Trochu đã đưa ra bình
luận: “Có lẽ điều này giải thích vì sao có ít phán quyết được đưa ra trong lĩnh vực này, bởi vì các
bên đã tự tìm ra những giải pháp khác cho những vấn đề của họ”.
Trái lại với án lệ, luật thực định của Pháp lại quy định minh thị các giải pháp cho phép điều chỉnh
lại hợp đồng khi hoàn cảnh có sự thay đổi. Sau Đại chiến 1914 – 1918, do đồng tiền của Pháp bị
mất giá, Quốc hội đã cho ban hành đạo luật Failliot ngày 21/01/1918 cho phép các thẩm phán được
giải hiệu các hợp đồng xác lập trước 1914 mà việc thực hiện là quá bất công đối với người có nghĩa
vụ. Sau Đại chiến thế giới thứ hai, một đạo luật do Quốc hội ban hành ngày 22/4/1949 cũng cho
phép tòa án giải hiệu các hợp đồng ký kết trước ngày 02/9/1939 mà việc thực hiện (giao hàng hay
làm một công việc) trở nên quá nặng nhọc cho người có nghĩa vụ, vì tình hình chiến tranh hay do sự
thay đổi kinh tế không thể dự đoán được khi giao kết hợp đồng. Như vậy, điều khoản tuy không
được thừa nhận rộng rãi trong án lệ, nhưng lại được ghi nhận trong luật thực định khi xảy ra những
biến cố đặc biệt, ví dụ khi có sự mất giá đồng tiền trong thời kỳ hậu chiến, như vừa nêu trên, và
được chấp nhận khá phổ biến trong thực tiễn thương mại.
Khi xuất hiện điều khoản Rebus-sic-stantibus (điều khoản về sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh)
dẫn đến các bên không thể tiếp tục thực hiện được điều ước quốc tế (Điều 62 Công ước Viên 1969): about:blank 10/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
“1. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh so với hoàn cảnh đã tồn tại vào thời điểm ký kết một điều
ước và không được các bên dự kiến không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước trừ khi:
a) Sự tồn tại của các hoàn cảnh đó là cơ sở chủ yếu của sự đồng ý của các bên chịu sự ràng buộc của điều ước; và
b) Sự thay đổi đó làm biến đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên vẫn còn
phải thi hành theo điều ước.
2. Một sự thay đổi cơ bản các hoàn cảnh sẽ không thể được nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi một điều ước:
a) Nếu đó là một điều ước quy định về đường biên giới; hoặc
b) Nếu sự thay đổi cơ bản là kết quả của một sự vi phạm của chính bên nêu lên nó, đối với một
nghĩa vụ phát sinh từ điều ước hoặc tất cả những nghĩa vụ quốc tế khác đối với bất kỳ bên tham gia điều ước.
3. Theo quy định của những khoản trên đây, khi một trong các bên có thể nêu lên một sự thay đổi cơ
bản các hoàn cảnh như là lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi điều ước, sẽ cũng có thể nêu lên sự thay
đổi đó như là lý do để tạm đình chỉ việc thi hành điều ước.”
Khi xuất hiện điều khoản này, các quốc gia có thể viện dẫn để thực hiện 1 trong 3 hành vi sau:
– Chấm dứt hiệu lực hành vi này làm mất hoàn toàn hiệu lực của điều ước quốc tế,
– Tạm đình chỉ hiệu lực của điều ước quốc tế làm mất hiệu lực của điều ước quốc tế.
– Rút khỏi quan hệ điều ước quốc tế hành vi này không làm chấm dứt hiệu lực hoàn toàn của điều
ước quốc tế. Điều” ước quốc tế chỉ mất hiệu lực với quốc gia viện dẫn điều khoản Rebus-sic-
stantibus, nó vẫn có hiệu lực đối với các quốc gia thành viên khác của điều ước.
+ Hoàn cảnh bị thay đổi được ghi nhận trong điều 62 Công ước Viên 1969 phải là cơ sở chủ yếu tạo
nên sự thỏa thuận của các bên; hoàn cảnh này các bên không thể thấy trước (dự liệu trước) vào thời
điểm ký kết điều ước quốc tế.
+ Sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh được hiểu là: hoàn cảnh đó bị xáo trộn lớn đến mức làm biến
đổi một cách cơ bản phạm vi của những nghĩa vụ mà các bên sự thay đổi này vượt ra khỏi tầm kiểm about:blank 11/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
soát”vẫn còn phải thi hành theo điều ước các bên không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình
trong quan”của các bên hệ điều ước.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh sẽ không thể được
nêu lên làm lý do để chấm dứt hoặc rút khỏi quan hệ điều ước nếu đó là điều ước liên quan đến việc
thiết lập biên giới quốc gia; hoặc sự thay đổi đó là kết quả của một sự vi phạm nghiêm trọng của
chính bên nêu lên nó. Trong trường hợp này, bên còn lại có thể viện dẫn chính điều khoản Rebus-
sic-stantibus để giải thoát mình khỏi các nghĩa vụ trong cam kết mà không bị coi là vi phạm nguyên
tắc Pacta sunt servanda. Tuy nhiên, việc áp dụng điều khoản Rebus-sic-stantibus phải được thông báo cho bên kia biết.
1. Thực hiện hợp đồng là gì?
Sau khi các bên đã giao kết hợp đồng dưới một hình thức nhất định phù hợp với pháp luật và hợp
đồng đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật yêu cầu (quy định tại Điều 117 Điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự Bộ luật Dân sự năm 2015) thì hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với
các bên. Nghĩa là từ thời điểm đó, các bên trong hợp đồng bắt đầu có quyền và nghĩa vụ dân sự đối
với nhau. Theo nội dung của hợp đồng, các bên lần lượt tiến hành các hành vi mang tính nghĩa vụ
đúng với tính chất đối tượng, thời hạn, phương thức và địa điểm mà nội dung của hợp đồng đã xác định.
Vì vậy, thực hiện hợp đồng dân sự là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi một bên tham gia
hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền dân sự tương ứng của bên kia.
Bên cạnh việc quy định về khái niệm thực hiện hợp đồn thì trong Bộ luật này cũng có những quy
định về việc thực hiện hợp đồng dân sự theo Bộ luật dân sự cụ thể là trong nguyên tắc thực hiện hợp
đồng dân sự. Việc thực hiện hợp đồng dân sự phải tuân theo nguyên tắc co bản để một hợp đồng
được diễn ra như các bên phải thực hiện đúng, đầy đủ các thỏa thuận trong nội dung của hợp đồng
về chất lượng, sổ lượng, chủng loại của đổi tượng; về thời hạn; về phương thức và các thỏa thuận
khác. Không những thế mà các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng phải thật sự trung thực, trên
tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau. Và một trong những nguyền
tắc đặc biệt quan trọng là các bên khi thực hiện hợp đồng không được làm thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác.
2. Quy định thực hiện hợp đồng dân sự about:blank 12/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
Trên cơ cơ các quy định tại mục trên về khái niệm thực hiện hợp đồng nói chung và thực hiện hợp
đồng dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự nói riêng thì bao gồm các nội dung thực hiện hợp
đồng dân sự. Tuy vậy, Bộ luật này rất trú trọng đến việc thực hiện hợp đồng của các bên đó đó có
quy định khi thực hiện hợp đồng dân sự, các bên tham gia hợp đồng phải thực hiện đúng, đầy đủ các
điều khoản về đối tượng, địa điểm, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác mà nội dung của
hợp đồng đã xác định. Ngoài ra, việc thực hiện hợp đồng dân sự còn phải tuân theo những cách thức
mà pháp luật đã quy định đối với từng loại hợp đồng cụ thể sau đây:
– Đối với hợp đồng đơn vụ được quy định tại Điều 409 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì đối với hợp
đồng đơn vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như đã thỏa thuận, chỉ được thực hiện
trước hoặc sau thời hạn nếu được bên có quyền đồng ý.
– Đối với hợp đồng song vụ được quy định tại Điều 410 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định
trong hợp đồng song vụ, khi các bên đã thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực
hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện
nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 411 và Điều 413 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp các bên không thỏa thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải đồng thời
thực hiện nghĩa vụ đối với nhau; nếu nghĩa vụ không thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi
thực hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ đó phải được thực hiện trước. Mặt khác, để bảo đảm
tính công bằng và quyền lợi của các bên trong hợp đồng, pháp luật còn quy định cho bên phải thực
hiện nghĩa vụ trước có quyền hoãn việc thực hiện nghĩa vụ đó nếu tài sản của bên kia giảm sút
nghiêm trọng đến mức không có khả năng để thực hiện hợp đồng. Khi nào bên kia khôi phục được
khả năng để có thể thực hiện được hợp đồng hoặc đã có người bảo lãnh thì người phải thực hiện
nghĩa vụ trước tiếp tục thực hiện hợp đồng.
– Đối với hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba được quy định tại Điều 415 Bộ luật Dân sự năm 2015
Khi thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình; nếu các bên trong hợp đồng có tranh chấp về việc
thực hiện hợp đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cho đến khi tranh
chấp được giải quyết. Bên có quyền cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng vì lợi
ích của người thứ ba . Trong các hợp đồng này, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó trước
người thứ ba khi đến thời hạn. Bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ about:blank 13/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
đối với mình. Nếu giữa các bên tham gia hợp đồng đang có tranh chấp về việc thực hiện thì người
thứ ba phải tạm dừng quyền yêu cầu cho đến khi tranh chấp được giải quyết.
Nếu người thứ ba từ chối lợi ích của mình trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đó thì bên
có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ nhưng phải thông báo cho bên có quyền biết và hợp
đồng được coi là huỷ bỏ. Nếu sau khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện nghĩa vụ mà người thứ ba mới từ
chối lợi ích của mình thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành. Vì vậy, bên có quyền vẫn phải thực
hiện các vấn đề đã cam kết với bên có nghĩa vụ. Mặt khác, bên có quyền trong giao kết hợp đồng
phải bồi thường thiệt hại cho bên đã thực hiện nghĩa vụ nếu có thiệt hại xảy ra.
Bên cạnh việc pháp luật có quy định về nội dung thực hiện hợp đồng dân sự thì có quy định kèm
theo về phương thức thực hiện hợp đồng là những các cách thức thực hiện hợp đồng của các chủ thể
tham gia quan hệ hợp đồng nhằm làm cho các điểu khoản, nội dung đã cam kết trong hợp đồng trở
thành hiện thực. Quá trình thực hiện hợp đồng cần tuân theo những nguyên tắc cơ bản như tác giải
đã nêu ra ở mục 1. Mặt khác, tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng, mà pháp luật quy định việc
thực hiện hợp đồng của các loại hợp đồng như hợp đồng đơn vụ, hợp đồng song vụ, phụ thuộc vào
tính chất mà có quy định khác nhau:
Do đó, đối với hợp đồng đơn vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng các nghĩa vụ mà hai bên đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể thực hiện nghĩa
vụ trước hoặc sau thời hạn mà hợp đồng đã quy định. Bên cạnh đó thì theo như quy định của pháp
luật hiện hành thì hợp đồng song vụ được xác định là có tính chất, khi các bên đã thỏa thuận về thời
hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến thời hạn quy định.
Mặt khác, theo như quy định thì các bên không được tự ý hoãn việc thực hiện nghĩa vụ cho dù bên
kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường hợp nghĩa vụ không thực hiện được do lỗi của
một bên. Khi một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình do lỗi của bên kia, thì có quyền yêu
cầu bên kia vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bên nào thực hiện nghĩa vụ vụ trong
trường hợp, hợp đồng quy định họ phải thực hiện nghĩa vụ trước, nhưng tài sản của bên kia bị giảm
sút giá trị nghiêm trọng đến mức không thể đáp ứng được việc thực hiện nghĩa vụ đối ứng như đã cam kết.
Quyển hoãn thực hiện nghĩa vụ được tồn tại cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa
vụ hoặc có người bảo lãnh trong việc thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, thì người thứ
ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trường hợp các
bên có tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện about:blank 14/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp được giải quyết. Nếu người thứ ba từ chối lợi ích của mình sau khi
bên có nghĩa vụ đã thực hiện xong nghĩa vụ, thì nghĩa vụ theo hợp đồng coi như đã hoàn thành và
bên có quyền vẫn phải thực hiện những điều cam kết đối với bên có nghĩa vụ.
Bên có quyền trong hợp đồng cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng các cam kết
trong hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Trong trường hợp người thứ ba từ chối lợi ích của mình
trước khi bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, thì bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ,
tuy nhiên cần báo rõ lí do này cho bên có quyền biết và hợp đồng được coi như bị hủy bỏ. Các bên
trong hợp đồng hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Sửa đổi hợp đồng là việc mà các bên đã tham gia giao kết hợp đồng bằng ý chí tự nguyện của mình
thỏa thuận với nhau để thay đổi một số điều khoản trong nội dung hợp đồng đã giao kết.
Quy định về sửa đổi hợp đồng
Điều 421 – Bộ luật dân sự quy định sửa đổi hợp đồng như sau:
1. Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể được sửa đổi theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này.
3. Hợp đồng sủa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu.
Phân tích Điều 421 Bộ luật Dân sự
Sửa đổi hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên về việc thay đổi một hoặc một sô” điều khoản của
hợp đồng đã có hiệu lực. sửa đổi hợp đồng có một sô” đặc điểm sau:
(i) Là sự thỏa thuận của các bên. Các bên có thể thỏa thuận về việc sửa đổi hợp đồng khi giao kết
hợp đồng hoặc khi hợp đồng đã có hiệu lực;
(ii) Việc sửa đổi hợp đồng chỉ được tiến hành khi hợp đồng đã có hiệu lực. Bởi vì, nếu hợp đồng
chưa có hiệu lực thì không coi là sửa đổi hợp đồng mà đó chỉ là quá trình các bên thay đổi các nội
dung thỏa thuận trong quá trình giao kết hợp đồng;
(iii) Việc sửa đổi hợp đồng chỉ làm thay đổi một hoặc một sộ” điều khoản của hợp đồng đã có hiệu
lực. Nếu việc sửa đổi hợp đồng làm thay đổi toàn bộ các điều khoản trong nội dung của hợp đồng
thì đó là sự thay thế hợp đồng đã có hiệu lực bằng một bản hợp đồng mới chứ không còn là sửa đổi hợp đồng;
(iv) Khi hợp đồng được sửa đổi thì phần bị sửa đổi sẽ không còn giá trị, phần sửa đổi sẽ có giá trị kể
từ thời điểm việc sửa đổi có giá trị pháp lý. about:blank 15/16 23:54 2/8/24
Nhóm 5 - Luật hợp đồng - hợp đồng
Mặc dù sửa đổi hợp đồng là một trong các quyền của các bên trong hợp đồng, nhưng quyền này bị
giới hạn bởi quy định của pháp luật trong một số trường hợp nhất định. Tức là, trong một sô’ trường
hợp, các bên không được sửa đổi hợp đồng. Ví dụ, theo quy định tại Điều 417 BLDS: “Khi người
thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực hiện,’ các bên giao kết hợp đồng
cũng không được sửa đổi hoặc hủy bỏ hớp đồng, trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý”.
Trong một số trường hợp, việc sửa đổi hợp đồng không dựa trên sự thỏa thuận của các bên mà do
pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp này chỉ được thực hiện khi
có những điều kiện nhất định.
Ví dụ, theo quy định tại Điều 420 Bộ luật Dân sự, việc sửa đổi hợp đồng được thực hiện khi có các điều kiện sau:
(i) Hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 420;
(ii) Một bên bị ảnh hưởng đến lợi ích do hoàn cảnh thay đổi;
(iii) Các bên không thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thòi hạn hợp lý. Trong
trường hợp này, việc sửa đổi hợp đồng do Tòa án thực hiện mà không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Việc sửa đổi hợp đồng phải được thực hiện theo hình thức của hợp đồng. Quy định này chỉ áp dụng
đối với các hợp đồng mà pháp luật quy định bắt buộc phải được giao kết bằng văn bản, được công
chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép. Đối với các trường hợp pháp luật không có quy định bắt
buộc về hình thức của hợp đồng thì việc sửa đổi hợp đồng không bắt buộc phải tuân theo hình thức của hợp đồng.
Quy định về sửa đổi hợp đồng là cần thiết, bởi vì sau khi hợp đồng có hiệu lực các bên nhận thấy
một điều khoản không thể thực hiện được hoặc cần sửa đổi sẽ có lợi cho các bên, thì các bên sẽ thỏa
thuận sửa đổi điều khoản đó. about:blank 16/16