lOMoARcPSD| 47028186
)
1 . Khái niệm chất và lượng.
1.1 Khái niệm về chất.
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là
sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật hiện tượng.
Mọi sự vật hiện tượng đều được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn của
nó, là căn cứ để ta phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Chẳng hạn cái
bàn có những thuộc tính riêng giúp ta phân biệt nó với cái ghế.
Tuy nhiên không thể đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của
sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và không cơ
bản mới được phân biệt rõ ràng.
Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được quyết định bởi thành phần cấu tạo mà còn
bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng.
Ví dụ: Ví dụ với C,H,O thì ta khi chúng liên kết ắt hẳn ta sẽ có chất khác so với khi các nguyên
tố P,O khi chúng liên kết. Ngoài ra, với 3 chất C,H,O nếu chúng liên kết theo nhiều kiểu khác
nhau ta lại được các chất khác nhau như CH3–CH2COOH và CH3-COO-CH3.,…
Một sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính thể hiện một chất như vậy một sự
vật, hiện tượng có thể có rất nhiều chất. Giữa sự vật, hiện tượng và các chất của nó là luôn gắn
liền với nhau, không thể tách rời chúng.
Như những gì phân tích ở trên, việc phân biệt giữa chất và thuộc tính cũng chỉ mang tính chất
tương đối.
1.2 Khái niệm về lượng.
Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, hiện tượng
về số lượng, yếu tố cấu thành, quy mô, tốc độ, nhịp điệu của quá trình vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người.
Nói đến lượngnói đến chiều dài, ngắn; quylớn,nhỏ; trình độ cao thấp,… của sự
vật, hiện tượng. Lượng thường được đo bởi các đơn vị đo cụ thể ( cao 166cm, vận tốc
1m/s,…) nhưng cũng thể được hiểu một cách trừu tượng a ( trình độ văn hóa cao hay
thấp,….).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối: có cái trong mối quan hệ này là
chất nhưng trong mối quan hệ kia lại là lượng.
2 . Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại mối quan hệ giữa lượng và chất trong một chỉnh thể. Chúng
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng sẽ có thể dẫn tới sự thay
đổi về chất song không phải lúc nào lượng thay đổi thì chất sẽ thay đổi. Nếu lượng được cung
cấp chưa đủ để vượt qua giới hạn nhất định thì chất vẫn chưa thể thay đổi. Khoảng giới hạn đó
được gọi là độ.
khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất lượng, khoảng
giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện
tượng. Như vậy muốn cht thay đổi ta phải cung cp một lượng sao cho nó đạt đến một điểm
nhất định. Điểm đó gọi là nút.
lOMoARcPSD| 47028186
Điểm nút chính ranh giới giữa lượng chất mà tại đó khi sự thay đổi v lượng đạt
đến thì sự thay đổi về chất bắt đầu được hình thành. Độ mới và điểm nút mới của sự vật, hiện
tượng cũng được hình thành.
Ví dụ: Nước bình thường khi đun lên đến hơn 100
o
C thì bốc hơi. Vậy từ 0
o
C đến 100
o
C là độ
của nước, 100
0
C chính là điểm nút của nó.
Thời điểm mà lượng chuyển sang chất được gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay
đổi về lượng trước đó gây nên. * Đặc điểm của bước nhảy:
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai
đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự
vật.
* Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
Với bản chất của mỗi sự vật, hiện tượng và mối quan hệ của nó với các sự vật, hiện tượng khác,
để đủ lượng tác động làm thay đổi chất thì ta cần thực hiện một lượng bước nhảy xác định, từ
đó tạo nên sự phong phú và đa dạng của bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu bước nhảy ta chia thành Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
+ Bước nhảy đột biến bước nhảy được thực hiện trong một thời gian ngắn làm thay đổi cơ
bản toàn bộ kết cấu của sự vật, hiện tượng.
+ Bước nhảy dần dần bước nhảy được thực hiện từ từ thông qua việc tích lũy chất mới
loại bỏ chất cũ.
Tuy nhiên bước nhảy dần dần khác với thay đổi dần dần. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa
dần dần từ chất y sang chất khác còn thay đổi dần dần sự tích y dần về lượng để vượt
qua điểm nút tạo nên sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng đó.
Căn cứ vào quy mô ta phân chia làm bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ.
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt ,những yếu tố riêng rẻ của
sự vật, hiện tượng.
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi toàn bộ chất của sự vật, hiện tượng.
Trên thực tế, muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ ta phải thực hiện bước nhảy cục bộ.
Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng đều sự thống nhất về chất; với sự tích lũy về lượng khi
vượt qua giới hạn nào đó gọi là điểm nút thì bước nhảy được hình thành và chất của sự vật, hiện
tượng bắt đầu được thay đổi. Khi chất được hình thành thì sẽ có tác động trở lại tới lượng của
sự vật, hiện tượng, quy định nên điểm nút và độ mới. Qúa trình đó diễn ra liên tục làm cho sự
vật không ngừng vận động, phát triển.
3 . Ý nghĩa phương pháp luận.
Với bất sự vật, hiện tượng nào đều 2 phần chất lượng. Chúng quy định, tác
động, chuyển hóa ln nhau, do đó, trong nhận thức và thực tin phải coi trọng cả 2 loại lượng
và chất.
lượng chất khả năng tác động lẫn nhau nên trên thực tế, ta phải dựa vào mối
quan hệ của sự vật, hiện tượng đó với bên ngoài để thực hiện sự thay đổi dần về lượng hoặc
phát huy tác dụng của chất mới làm thay đổi lượng của sự vật, hiện tượng.
lOMoARcPSD| 47028186
)
Chất chỉ được biến đổi khi lượng đạt tới một mức độ nhất định, tức phải vượt qua khoảng
độ của nó, khoảng độ này y vào sự vật, hiện ợng dài hay ngắn do vậy trong thực tiễn
cần tránh tư tưởng nôn nóng tả khuynh. Khi vượt qua điểm nút thì ta có thể tác động được đến
chất của sự vật, hiện tượng nên cũng cần khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu huynh
Cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với tình hoàn cảnh
cụ thể. Đc biệt trong xã hội quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan,
mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó cần phải nâng cao tính tích cực,
chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả
nhất.
LIÊN HỆ VIỆC HỌC TẬP CỦA SV
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển a từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất ngược lại thể rút ra một vài kết luận ý nghĩa phương pháp luận với
việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau:
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học:
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên một cách đáng
kể.
Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ kéo dài trong một năm, vì thế khối
lượng kiến thức được chia đều ra kiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở Đại học một
môn chỉ kéo dài khoảng 8 đến 18 buổi học (từ 1 đến 2 tháng). Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về
số lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó khăn. Chính vì thế sinh viên cần phải
chủ động tìm hiểu và sãn ng để thích nghi với sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối
lượng kiến thức, học đại học phổ thông còn sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Tiếp
đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên lớp còn học
đại học còn đi kiến tập, thực tập,... Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là thách thức cho sinh viên.
đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậythể nới
sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất.
Chính vậy mà người sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục Đại học. Chỉ khi nào làm được như vậy
sinh viên mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá rình học tập và nghiên cứu
của mình.
* Từng bước tích y kiến thức một cách chính xác, đầy đủ: Như chúng ta đã biết, sự vận động
phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một
giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất việc học tập của sinh viên cũng
không nằm ngoài điều đó.Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số lượng
các tín chỉ của các môn học.Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà điểm
nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích y kiến thức đã đủ
dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh
viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập)
theo quy luật. Cn học tập đều đặn hạng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh
gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận thức được trong quá
trình học tập. Tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập và trong hoạt động thực tiễn
hàng ngày. Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức
mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm việc ngay được vì
kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để ta làm việc. Nhưng nếu qua 4
năm mỗi sinh viên học tập và rèn luyện chăm chỉ để tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm
qua thầy cô, qua những lần đi thực tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm
lOMoARcPSD| 47028186
bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và
biến đổi sang chất mới.
* Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn sự thay đổi về chất, cần sự tích y về
lượng, sự tích lũyy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đánh đổi bằng sức lao động mà
được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào khác.Với việc học tập rèn luyện của sinh
viên cũng vậy. Trong một kỳ thi, nếu có sinh viên gian lận để một kết quả tốt thì chẳng khác gì
“không làm mà đòi có ăn”. Bằng gian lận, ta có thể qua được kỳ thi, nhưng về bản chất thì vẫn
chưa có được biến đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ
không tiếp thu được, không đáp ứng được yêu cầu công việc sau này và nếu ta giúp đỡ bạn bè
theo cách của anh bạn thì không khác gì chúng ta đang hại họ.
*Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:
Ngạn ngữ Trung quốc câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo
tính cách găp số phận” câu nói đó có ý nghĩa triết học của nó. Đó là quy luật lượng- chất trong
triết học, rõ ràng là, những thói quen chúng ta đang được hình thành từ sự tích lũy của
nhiều hành vi được lặp đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày, nhiều thói hư như thế đến lượt nó
lại quyết định đến nh ch của chúng ta,và số phận của mỗi con người phụ thuộc vào nh cách
của họ. Khi tích lũy hành vi (lượng) dần dần sẽ tạo nên thói quen (chất), sinh viên cần rèn luyện
cho mình tính chăm chỉ, tự chủ năng động trong quá trình học tập, tích lũy tri thức giản đơn
nhất từ những thói quen hàng ngày.Trong cuộc sống cũng như trong quá trình học tập sinh viên
phải rèn luyện hàng ngày để hình thành những thói quen học tập, rèn luyện tốt, như:phải biết
tiết kiệm thời gian,làm việc nghiêm túc và khoa học,....tích lũy nhiều thói quen như vậy sẽ góp
phần hình thành nên tính cách, giúp chúng ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc
sống.
*Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên. Một tập thể bao gồm
nhiều nhân. Mỗi cá nhân phẩm chất tốt (lượng) sẽ góp phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể
đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong lớp có nhiều cá nhân có ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để
phấn đấu đạt được thành tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi
người. thể nói uy tín, thành tích của một lớp phthuộc vào sự phấn đấu nỗ lực của mỗi sinh
viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất cũng
như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc học tập và rèn luyện của sinh
viên trường Đại học hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ
khi nào lượng được tích y tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt
động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích lũy dần về lượng và đồng thời phải
biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về
chất. Những việc làm đại của con, bao giờ cũng tổng hợp những việc làm bình thường,
vậy mỗi sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn luyện
của mình cả đức tài, để trở thành một con người phát triển toàn diện, tránh tưởng chủ
quan, nóng vội không chịu tích y về kiến thức (lượng). Cũng như trong hoạt động của
mình ông cha thường có câu: “tích tiểu thành đại”,...
Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái quát
thành các cặp phạm trù cơ bản. Tính cặp đôi của các phạm trù thể hiện sự phản ánh biện chứng
tính thống nhất đấu tranh giữa các mặt đối lập của thế giới khách quan. Các cặp phạm trù
hình thành phát triển trong hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo hội
của con người.
Trong phép biện chứng duy vật, các cặp phạm trù có vai trò phương pháp luận khác nhau.
lOMoARcPSD| 47028186
)
+ Các cặp phạm trù cái riêng cái chung, tất nhiên ngẫu nhiên, bản chất hiện
tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pp: phân tích và tổng hợp, diễn dịch quy
nạp, khái quát hóa và trừu tượng hóa để nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống.
+ Các cặp phạm trù nguyên nhân kết quả, khả năng hiện thực sở phương
pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng như những quá trình
tự nhiên.
+ Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận nắm bắt các hình thức
tồn tại hoặc biểu hiện của đối tượng trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng
của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1 . Cái riêng và cái chung :
a. Khái niệm:
-Cái riêng phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định, chỉ ra
những thuộc tính, những mặt giống nhau và được lặp lại trong cái riêng khác.
-Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những
có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng khác.
-Cái đơn nhất phạm trù triết học dùng để chỉ ra c mặt, các đặc điểm chỉ vốn
một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự vật hiện tượng nào khác.
VD:
-Các loại trái cây là cái chung – bộ phận cơ thể người là cái chung
-Trái xoài, trái cam, trái quýt là cái riêng. mắt mũi miệng là cái riêng
Cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính… chỉ một sự vật, một kết cấu, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng,
kết cấu vật chất khác.
VD: đường nét hình dáng mắt mũi miệng là cái đơn nhất của mỗi người
Mỗi loại trái cây đều có mùi vị riêng không giống những loại khác b.
Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
* Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
Không cái y nói chung tồồn tại bên cạnh cây cam, y quýt, y đào cụ thể. Nhưng y
cam, cây quýt, y đào…nào cũng rễễ, thân, lá, quá trình hóa đduy trì sự sồống.
Những đặc tính chung y lặp lại những y riêng lẻ, được phản ánh trong khái niệm "cây".
* Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn
tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
Mồễi con người là một cái riêng, nhưng mồễi người không thể tồồn tại ngoài mồối liên hệ với
xã hội và tự nhiên. Không có cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và
quy luật xã hội
* Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung cái bộ phận, nhưng sâu
sắc hơn cái riêng.
* Cái đơn nhất vái chung thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự
vật: Sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời
thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá
trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
lOMoARcPSD| 47028186
Quá trình phát triển của sinh vật, xuấtố hiện những biễốn dị ở một hoặc ít thể riêng biệt, biểu
hiện thành đặc tính mà khi ngoại cảnh thay đổi trở nên phù hợpthì đặc tính được bảo tồồn,
duy trì nhiễồu thễố hệ trở thành phổ biễốn của nhiễồu thể. Ngược lại những đặc tính
không phù hợp sẽễ mấtố dấồn đi trở thành cái đơn nhấtố c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
* Phải xuất phát từ cái riêng để tìm cái chung:
cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng, nên chỉ thể tìm hiểu, nhận thức về cái chung
trong cái riêng chứ không thể ngoài cái riêng
* Cần nghiên cứu cải biến cái chung khi áp dụng cái chung vào từng trường hợp cái riêng:
Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những
bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”, nên bt ccái chung” nào
cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến.
Tức là, luôn sự khác biệt một chút giữa “cái chungnằm trong “cái riêng” y “cái chung
nằm trong “cái riêng” kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của
“cái chung”.
Do đó, bất cứ “cái chungnào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải
biến, biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”,
tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh. * Không
được lãng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng:
Vì “cái riêng” gắn chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới “cái
chung”, n nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua
việc giải quyết những vấn đề chung.
Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa vào
tình trạng mẫm, tùy tin. Nếu bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng trước khi giải quyết
những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.
* Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho cái đơn nhất biến thành cái chung và ngược lại:
Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể
biến thành “cái chung” ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện
thuận lợi cho “cái đơn nhất” phát triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi.
Ngược lại, phải tìm cách làm cho “cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái
chung” không còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.
2 . Nguyên nhân và kết quả :
a. Khái niệm:
-Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các
sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định.
Nguyên cớ một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết quả.
Nguyên cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài, không bản chất.
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng
tác dụng đối với việc sinh ra kết quả.
-Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau.
VD:
-Sự tác động của dòng điện lên dây dẫn là nguyên nhân khiến cho dòng điện nóng lên.
lOMoARcPSD| 47028186
)
-Dòng điện nóng lên là kết quả
-Con người chặt phá rừng, xả rác bừa bãi dẫn đến ô nhiễm môi trường.
Trong hai khái niệm này, chúng ta cần lưu ý đối với khái niệm nguyên nhân và nguyên cơ, để
không có sự nhầm lẫn về khái niệm.
Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết quả. Nguyên
cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài, không bản chất.
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng có tác
dụng đối với việc sinh ra kết quả.
b. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
* Nguyên nhân sản sinh ra kết quả:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả
chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.
Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân
loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Không học bài dẫn đến việc thi rớt
* Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động
đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Nhúng một thanh sắt vừa mới nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt độ của nước trong chậu
sẽ tang lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
* Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả:
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả
ngược lại.
Một hiện tượng nào đó kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở
thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình y tiếp tục mãi không bao giờ kết
thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả cùng tận. Trong chuỗi đó không khâu nào bắt đầu
hay cuối cùng.
Natri sunfic tác dụng với axit clohidrit sủi bọt khí lưu hình ddioxxit, lưu huỳnh dioxit làm mất
màu thuốc tím
c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn phải bắt đầu từ việc đi tìm những nguyên
nhân xuất hiện sự vật, hiện tượng.
-Cần phải phân loại các nguyên nhân để có những biện pháp giải quyết đúng đắn. -Phải
tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng,
nhằm đạt mục đích đã đề ra. * Trong nhận thức:
mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người nên chỉ
có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng trong chính thế giới của hiện tượng chứ không thể
ở bên ngoài.
lOMoARcPSD| 47028186
Do nguyên nhân luôn có trước kết quả n khi tìm nguyên nhân của một hiện tượng, ta
cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước khi hiện tượng
đó xuất hiện.
Bởi dấu hiệu đặc trưng của mối liên hệ nhân quả là nguyên nhân sinh ra kết quả, nên khi
xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu hiệu đặc trưng này.
một hiện tượng thê do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình tìm nguyên
nhân của một hiện tượng, ta cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra được kết quả tác động của
từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như từng tổ hợp khác nhau của chúng. Từ đó
ta mới có thể xác định đúng về nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
một hiện tượng trong mối quan hệ này kết quả, trong mối quan hệ khác thể
nguyên nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần xem xét nó trong những mối
quan hệ giữ vai trò nguyên nhân cũng như trong những quan hệ kết quả. *
Trong hoạt động thực tiễn:
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yêu nên ta có thể dựa vào mối liên hệ nhân quả để nh
động thực tiễn. Khi hành động, ta cần chú ý:
Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó.
Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần thiết.
hiện tượng này thể do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoc đồng thời nên cần
tùy hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
Trong hoặt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu nguyên
nhân bên trong. Vì chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận động và tiêu vong
của hiện tượng.
Để đẩy nhanh hay kìm hãm, loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội nào đó, ta cần
làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều, hay lệch hoc ngược chiều với
chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
3 . Tất nhiên và ngẫu nhiên :
a. Khái niệm:
-Tất nhiên phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên nhân bản bên trong sự vật,
hiện tượng quy định trong điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thế khác.
VD: 1+1= 2
Cá không có nước cá sẽ chết
-Ngẫu nhiên phạm trù chỉ mối liên hệ không bản chất, do nguyên nhân, hoàn cảnh bên
ngoài quy định nên có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc
thể xuất hiện cái khác.
VD: việc giảng viên gọi tên sinh viên trả lời câu hỏi là ngẫu nhiên
b. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
* Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại một cách khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức của
con người:
Dù con người nhận thức được hay chưa, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn tồn tại phát
huy vai trò của nó đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Trong quá trình phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng:
+ Cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật.
lOMoARcPSD| 47028186
)
+ Cái ngẫu nhiên ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của sự vật, thể làm cho sự
phát triển đó diễn ra nhanh hoặc chậm.
Sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu nhiên, kể cả những cái
ngẫu nhiên rất nhỏ, ví dụ như cá tính của người lúc đầu lãnh đạo phong trào cách mạng.
* Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt thống nhất và đối lập.
* Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
Việc quả trứng bị vỡ do con người đp tất nhiên. Việc quá trứng bị vỡ do rơi hoặc do bi
ddajpj là ngẫu nhiên
c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Tất nhiên nhất định phải xảy ra đúng như thế nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa
vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên và như vậy, nhiệm vụ của khoa học là m cho
được mối liên hệ tất nhiên của hiện tượng khách quan.
-Tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần túy nên trong hoạt động nhận thức chỉ có thể
chỉ ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên phải đi qua.
-Ngẫu nhiên ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển, thậm chí còn thể làm cho tiến trình
phát triển của sự vật, hiện tượng đột ngột biến đổi; do vậy, không nên bỏ qua ngẫu nhiên mà
phải có những phương án dự phòng trường hợp các sự cố ngẫu nhiên xuất hiện bất ngờ.
-Ranh giới giữa tất nhiên với ngẫu nhiên chỉ là tương đối nên sau khi nhận thức được
các điều kiện có thể tạo ra sự chuyển hóa trên, có thể tạo ra điều kiện thuận lợi để “biến” ngẫu
nhiên phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên tất nhiên không phù hợp thực tiễn thành ngẫu
nhiên
4 . Nội dung và hình thức :
a. Khái niệm:
-Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng.
-Hình thức phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện phát triển của sự vật, hiện
tượng y, hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội
dung của sự vật, hiện tượng không chỉ cái biểu hiện ra bên ngoài, còn cái thể
hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.
VD:
-Một món ăn ngon sẽ gồm nhiều nguyên liệu bên trong nội dung, hình thức phương
thức chế biến nó (xào, chiên, luộc,...) và bày trí nó.
-Một ly trà sữa thì nội dung nguyên liệu gồm topping trà sữa còn hình thức
thể để trà trước sữa sau hoặc sữa trước trà sau hoặc topping trước b. Quan hệ biện chứng
giữa nội dung và hình thức:
* Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.
Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức. Không có sự vật nào chỉ
có nội dung mà không có hình thức, hoặc chỉ có hình thức mà không có nội dung. Do vậy,
nội dung và hình thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại.
Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng những mặt, những yếu tố
này không tách rời nhau, mà thống nhất, gắn kết với nhau.
Không một hình thức nào không chứa đựng nội dung, cũng không nội dung nào lại
không tồn tại trong hình thức.
Cùng một nội dung, trong nh hình phát triển khác nhau, thể nhiều hình thức. Ngược
lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.
lOMoARcPSD| 47028186
Cùng bán sản phẩm nhưng 1 công ty bán trực tiếp tại cửa hang, 1 công ty bán online trên
fanpage cùng là chiên nhưng 1 món sử dụng thịt gà, 1 món sử dụng thịt heo
* Nội dung quyết định hình thức:
Nội dung bao giờ cũng mặt động nhất; khuynh hướng chủ đạo biến đổi. Còn hình
thức là mặt tương đối bền vững; khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung.
Còn hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội dung.
Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.
- Chế độ sở hữu nhân dân Để đáp ứng sự thay đổi nội dung nhiệm vụ chức năng của nhà
nước thì hình thức bộ máy của nhà nước cũng thay đổi. nhiệm vụ chức năng của nhà nước
phong kiến bảo vệ và phát triển chễố phong kiễốn, duy trì sự bóc lột của phong kiễốn đồối
với nông dân c tấồng lớp lao động khác, quyễồn lực nằồm trong tay của lãnh chúa
phong kiễốn
Nội dung
* Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung:
Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại, nếu
không phù hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội dung phát triển.
một số doanh nghiệp có cùng một nội dung kinh doanh nhưng lại có hình thức kinh doanh khác
nhau nên sự phát triển của các doanh nghiệp khác nhau
Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển của
sự vật.
Lúc đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến h thống mối liên hệ tương đối
bền vững của hình thức. Nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó,
hệ thống mối liên hệ tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội
dung. Lúc này, hình thức không phù hợp với nội dung nữa.
Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ phá bỏ hình thức
cũ, hình thức mới sẽ hình thành. Trên sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi, phát
triển và chuyển sang trạng thái mới về chất. c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Không tách rời nội dung với hình thức
-Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật -Phải theo dõi sát mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức -Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.
5 . Bản chất và hiện tượng :
a. Khái niệm:
-Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn
định n trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện
tượng tương ứng của đối tượng.
-Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng.
-Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định
ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
-Hiện tượng sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản chất của sự
vật, hiện tượng ra bên ngoài.
lOMoARcPSD| 47028186
)
Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách quan.
ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những hiện tượng ấy.
VD:
-Trí tuệ nhân tạo thể sử dụng ngôn ngữ và có cảm xúc như một con người nhưng bản
chất nó là một cỗ máy tất cả đều do con người tạo ra.
-Bản chất của một ngôi nhà để ở, che mưa. che nắng sinh hoạt . To, rộng, nhỏ,
hẹp, đẹp, xấu là hiện tượng vẻ ngoài của ngôi nhà
b. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
* Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. c yếu tố ấy tham
gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. những mối liên hệ tất nhiên, tương đối n định lại
bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên
hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
* Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Trong nghiên cứu khoa học người ta thường bắt đầu từ việc quan sát, thống kê các hiện tượng
( quan sát tự nhiên hay qua thí nghiệm) trên cơ sở đó tiến hành nghiên cứu (có thể thông qua
việc xác lập các hình giả thuyết,...) về bản chất của hiện tượng đ giải thích hiện tượng quan
sát được.
Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ, gắn
bó hết sức chặt chẽ với nhau.
Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất hiện tượng. Sự thống nhất đó thể hiện
trước hết ở chỗ:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ
qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũngsự biểu hiện của bản chất. Bất k hiện tượng nào cũngsự
bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào tồn tại một cách
thuần túy, không cn hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải
là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản chất mất
đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động,
phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái
chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.
* Tuy thống nhất với nhua, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn;
-Nhúng một phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái
thước vẫn thẳng.
-“Đừng trông mặt mà bắt hình dong” c. Ý nghĩa phương pháp luận:
lOMoARcPSD| 47028186
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại ở hiện tượng
mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác
nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
6 . Khả năng và hiện thực :
a. Khái niệm:
-Khả năng cái hiện chưa có, chưa tới nhưng sẽ có, sẽ tới khi các điều kiện thích
hợp.
-Hiện thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
VD:
-Xét về mặt hiện thực thì một quốc gia nào đó vẫn đang nh trạng một nước nghèo
nhưng khnăng trong ơng lai quốc gia đó thể trở thành một nước giàu khi nó phát huy
được những lợi thế hiện tại
-Trong mỗi hạt thóc có khả năng thực tế hạt thóc sẽ thành cây lúa
-Mua một tấm vé số sẽ có khả năng trúng nhưng hiện thực thì đang có tờ vé số và đợi dò b.
Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
* Khả năng hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn
chuyển hóa lẫn nhau.
khi chúng ta thi đỗ đại học và theo học một trường đại học nào đó thì chúng ta có khả năng trở
thành k sư, cử nhân. Nếu khả năng trở thành kỹ sư, cử nhân trở thành hiện thực thì sẽ xuất
hiện khả năng có việc làm tốt. Nếu khả năng có việc làm tốt được thực hiện thì sẽ làm nảy sinh
khả năng có thu nhập cao, v.v. * Các khả năng có thể cùng tồn tại với nhau.
Người nội trợ mua nguyên liệu khổ qua. khả năng ấy snấu n hầm cũng khả
năng nấu món xào
* Sự biến đổi của mỗi khả năng.
Khả năng sinh viên nhân được đim xấu hay điểm tốt y thuộc vào vic học tập của mối
người
c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào thực tiễn nhưng cũng cần tính đến các khả năng
-Thực hiện quy trình, cách thức xác định các khả năng trong thực tiễn -Tiến hành lựa
chọn và thực hiện các khả năng Ở đây, ta cần tránh hai thái cực sai lầm:
+ Tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan. Tức là chỉ cần con người khả năng sẽ
biến thành hiện thực.
+ Xem thường nhân tố chủ quan. Tức không tin tưởng vào năng lực của con người trong
việc biến khả năng thành hiện thực.
Quan điểm của Lênin về thực tiễn đời sống…….
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật chất mục đích
mang nh lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”. Quan điểm thực tiễn
là quan điểm cơ bản và quan trọng nhất trong triết học Mác. Toàn bộ hệ thống lý luận của triết
học Mác đã được xây dựng trên hòn đá tảng thực tiễn. Theo quan điểm của Lenin: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận nhận thức”. Chỉ khi
quan điểm thực tiễn khoa học mới có thể hình thành nên thế giới quan, phương pháp luận,
lOMoARcPSD| 47028186
)
nhận thức luận, giá trị quan của triết học Mác. Thực tiễn, theo quan niệm của C.Mác, hoạt
động cảm tính của con người, hoạt động có tính đối tượng và là sự thống nhất giữa hot động
cải tạo hoàn cảnh với hoạt động của con người hoặc với hoạt động tự cải tạo của con người. Do
vậy, thực tiễn là quá trình tác động tương hỗ lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể, quá trình trao
đổi qua lại của vật chất, năng lượng thông tin. Hoạt động thực tiễn hoạt động bản chất của
con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với
thế giới bên ngoài, thì con người hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa
mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một thiên nhiên thứ hai của mình,
một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển
của con người vốn không sẵn trong tự nhiên. vậy, không hoạt động thực tiễn, con
người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn
tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con
người và thế giới.
Thực tiễn mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận
thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu
trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ
không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, sở chủ yếu nhất
trực tiếp của tư duy con người, trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta
cải biên tự nhiên”. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng luận bằng
thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới nhận thức của con
người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế
giới buộc thế giới phải bị lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để con người nhận thức
chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng phát
triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật sẽ không có
khoa học, không lý lun. Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến
đổi luôn cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh
tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế
giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú u sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, thế
luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.Thực tiễn sở để chế tạo công cụ,
phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức, khám phá, chinh phục
thế giới. Vai trò của thực tin đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân . Theo Mạc Ăngghen thì “Vấn để tìm hiểu xem duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề luận mà là một vấn đ
của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thực tiễn có vai
trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức, nó còn bổ
sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển hoàn thiện nhận thức. Thực tin là điểm
xuất phát của nhận thức, yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển
của nhận thức, cũng là nơi nhận thức luôn hướng đến để kiểm nghiệm tính đúng đắn.
Nói tóm lại, quan điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên
sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn. Ví dụ:
+ Nghiên cứu cây lúa phải bám sát quá trình gieo mạ và tiến trình sinh trưởng, phát triển của
cây lúa trực tiếp trên cánh đồng, đồng thời kết hợp với những tri thức đã về cây lúa trong
những tài liệu chuyên ngành. Ta không thể nghiên cứu về cây lúa chỉ bằng việc đọc sách, báo,
tài liệu.
+ Nghiên cứu về cách mng xã hội thì cũng không thể chỉ dựa vào sách, báo, tài liu, mà cần
phải có cả quá trình tiếp xúc, tìm hiểu đời sống của các giai cấp, tầng lớp…
+ Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
lOMoARcPSD| 47028186
+ Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các vật liệu mới,
nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bnh mới. Chẳng hạn như qua hàng nghìn lần
miệt mài thử nghiệm đúng và sai của Edison ta mới bóng đèn như hiện nay, hay nhờ
những nhà khoa học ngày đêm nghiên cứu để điều chế ra vacxin ngừa Covid,...
+ Để bảo vệ môi trường, nhiều người đã nghĩ ra các vật liệu thân thiện với môi trường như cốc
tái chế, ống hút giấy... Việc tạo ra những vật liệu, đồ dùng này chính là nhằm phục vụ cho mục
đích bảo vệ môi trường
1 . Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
a. Định nghĩa
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta
phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính
khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự
vật, hiện tượng đó với sự vật hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm
được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của
thuật nguy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc
ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ biến nên cũng có những
tính chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
b. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối
liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối
liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình
vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
2 . Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi
phối sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương
diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
lOMoARcPSD| 47028186
)
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ
bản, tất nhiên, ổn định…sẽ lý giải được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các
mối quan hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…), phát hiện ra quy luật (
bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối
liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt
là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt…) của bản thân sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để
phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo
đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ
giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy
biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện:
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất
nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật;
chỉ xem xét sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của
sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của
sự vật; mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ
bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích
của mình một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân, quan
điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô
cũng phức tạp.
II. Vận dụng vào việc học của sinh viên khi áp dụng nguyên tắc toàn diện ta sẽ đặt việc học
vào các mối liên hệ như: học gì, học như thế nào, khi nào học, … và khi rút ra được mối liên
hệ giữa chúng, ta sẽ có được một hệ thống kiến thức, phương pháp học thích hợp. Về việc tiếp
cận và tiếp thu kiến thức sinh viên không nên quá rập khuôn đối với những gì được truyền đạt
từ giảng viên hay đọc trên sách vở, rập khuôn ở đây không phải nói những trí thức nhận được
từ giảng viên hay sách vở là sai mà nó có nghĩa là sinh viên không nên quá tuyệt đối hóa
những trí thức đó mà không bổ sung, không phát triển. Ví dụ: khi ta học môn hóa có kiến thức
mà trong môn học chỉ nói khái quát, chung chung nhưng khi ta học môn khác chẳng hạn môn
lOMoARcPSD| 47028186
sinh thì những vấn đề đó sẽ được nói cụ thể hơn và lúc đó chúng ta cần phải tìm hiểu vấn đề
đó để hiểu rõ, sâu sắc hơn và phải tiếp thu những quan điểm khác nhau để so sánh. Và như ta
đã biết thì “học đi đôi với hành” do vậy ta còn phải áp dụng những kiến thức đó vào thực tế
để biết chúng đã đúng chưa hay vẫn còn phát sinh những vấn đề khác.
2
TUỲ CƠ ỨNG BIẾN
Tuỳ theo hoàn cảnh, tình hình mà đối phó, hành động (thường chỉ người nhanh nhẹn, thông
minh). Tùy việc xảy ra mà tìm cách cư xử, không theo khuôn khổ nào. Bất biến vạn biến
mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến, giữa cái không thay đổi và cái thay đổi, giữa bản thể
và hiện tượng, giữa cái nhất (cái một) và cái đa (cái nhiều),... là vấn đề trung tâm của triết học
xuyên suốt từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy cái bất biến (
không thay đổi) mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Ý nghĩa triết lý trên là ở chỗ
dù mọi sự vật hiện tượng thiên sai vạn biệt, phong phú, đa dạng, thay đổi khôn lường nhưng
đều xoay quanh trục của nó, đó là bản thể, cái mà Trang Tử gọi là "Chốt của đạo". Trong mối
quan hệ giữa bản thể và hiện tượng thì bản thể là bất biến, không sinh không diệt; còn các
hiện tượng biến chuyển không ngừng nay còn mai mất. Trong mỗi nền triết học, cái bất biến -
bản thể không thêm không bớt này được gọi bằng những cái tên khác nhau, chẳng hạn như
“Brahman” trong triết học Ấn Độ, “Đạo” trong học thuyết Lão Trang, “Thái cực” trong Kinh
dịch, “vật chất” trong chủ nghĩa duy vật, “tâm” trong chủ nghĩa duy tâm; ... Trong chủ nghĩa
duy vật biện chứng, bản thể là vật chất, nhưng nó luôn vận động biến đổi, luôn chuyển hóa từ
dạng này sang dạng khác; nó vĩnh viễn, vô cùng, vô tận; nó bất biến so với hiện tượng luôn
luôn thay đổi. Mọi sự vật hiện tượng đều là những dạng cụ thể của vật chất, có kết cấu hoặc
nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá
trình vật chất đang vận động, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân, kết quả của
nhau.
Tại sao nói 3 quy luật là sự cụ thể hoá nguyên lý phát triển
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật
phủ định. Trong đó:
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt
phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những
người Cộng sản.
Theo Các Mác: Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh
hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giao điếu của chúng mà thôi, vì trong quan
niệm tích cực về cái đang tồn tại, phép biện chứng cũng bao hàm cả quan niệm, sự phủ định
cái đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đều được phép biện chứng
xét trong sự vận động, tức xét cả mặt nhất thời của hình thái đó;… vì phép biện chứng không
khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng.
[1]
Ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận
động, phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các
lOMoARcPSD| 47028186
)
quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng. Vì vậy đây
là nền tảng cho sự phát triển của sự vật hiện tượng sau này.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ
ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy luật chuyển hoá từ những biến
đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự
phát triển thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra.
Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù và đến lượt
mình, những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức
cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.
Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật với các quy luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành tạo nên cơ sở khách
quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học chuyên nnh.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47028186
1 . Khái niệm chất và lượng. 1.1 Khái niệm về chất. –
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là
sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật hiện tượng. –
Mọi sự vật hiện tượng đều được cấu thành bởi các thuộc tính khách quan vốn có của
nó, là căn cứ để ta phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Chẳng hạn cái
bàn có những thuộc tính riêng giúp ta phân biệt nó với cái ghế.
Tuy nhiên không thể đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của
sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và không cơ
bản mới được phân biệt rõ ràng. –
Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được quyết định bởi thành phần cấu tạo mà còn
bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng.
Ví dụ: Ví dụ với C,H,O thì ta khi chúng liên kết ắt hẳn ta sẽ có chất khác so với khi các nguyên
tố P,O khi chúng liên kết. Ngoài ra, với 3 chất C,H,O nếu chúng liên kết theo nhiều kiểu khác
nhau ta lại được các chất khác nhau như CH3–CH2–COOH và CH3-COO-CH3.,…
Một sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính thể hiện một chất như vậy một sự
vật, hiện tượng có thể có rất nhiều chất. Giữa sự vật, hiện tượng và các chất của nó là luôn gắn
liền với nhau, không thể tách rời chúng.
Như những gì phân tích ở trên, việc phân biệt giữa chất và thuộc tính cũng chỉ mang tính chất tương đối.
1.2 Khái niệm về lượng. –
Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng
về số lượng, yếu tố cấu thành, quy mô, tốc độ, nhịp điệu của quá trình vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. –
Nói đến lượng là nói đến chiều dài, ngắn; quy mô lớn,nhỏ; trình độ cao thấp,… của sự
vật, hiện tượng. Lượng thường được đo bởi các đơn vị đo cụ thể ( cao 166cm, vận tốc là
1m/s,…) nhưng cũng có thể được hiểu một cách trừu tượng hóa ( trình độ văn hóa cao hay thấp,….).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối: có cái trong mối quan hệ này là
chất nhưng trong mối quan hệ kia lại là lượng.
2 . Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều tồn tại mối quan hệ giữa lượng và chất trong một chỉnh thể. Chúng
tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng sẽ có thể dẫn tới sự thay
đổi về chất song không phải lúc nào lượng thay đổi thì chất sẽ thay đổi. Nếu lượng được cung
cấp chưa đủ để vượt qua giới hạn nhất định thì chất vẫn chưa thể thay đổi. Khoảng giới hạn đó được gọi là độ. –
khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện
tượng. Như vậy muốn chất thay đổi ta phải cung cấp một lượng sao cho nó đạt đến một điểm
nhất định. Điểm đó gọi là nút. ) lOMoAR cPSD| 47028186 –
Điểm nút chính là ranh giới giữa lượng và chất mà tại đó khi sự thay đổi về lượng đạt
đến thì sự thay đổi về chất bắt đầu được hình thành. Độ mới và điểm nút mới của sự vật, hiện
tượng cũng được hình thành.
Ví dụ: Nước bình thường khi đun lên đến hơn 100oC thì bốc hơi. Vậy từ 0oC đến 100oC là độ
của nước, 1000C chính là điểm nút của nó.

Thời điểm mà lượng chuyển sang chất được gọi là bước nhảy. –
Bước nhảy là một phạm trù triết học để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay
đổi về lượng trước đó gây nên. * Đặc điểm của bước nhảy:
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai
đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật.
* Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
Với bản chất của mỗi sự vật, hiện tượng và mối quan hệ của nó với các sự vật, hiện tượng khác,
để đủ lượng tác động làm thay đổi chất thì ta cần thực hiện một lượng bước nhảy xác định, từ
đó tạo nên sự phong phú và đa dạng của bước nhảy.
Dựa trên nhịp điệu bước nhảy ta chia thành Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
+ Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian ngắn làm thay đổi cơ
bản toàn bộ kết cấu của sự vật, hiện tượng.
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ thông qua việc tích lũy chất mới và loại bỏ chất cũ.
Tuy nhiên bước nhảy dần dần khác với thay đổi dần dần. Bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa
dần dần từ chất này sang chất khác còn thay đổi dần dần là sự tích lũy dần về lượng để vượt
qua điểm nút tạo nên sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng đó.
Căn cứ vào quy mô ta phân chia làm bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ.
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt ,những yếu tố riêng rẻ của sự vật, hiện tượng.
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi toàn bộ chất của sự vật, hiện tượng.
Trên thực tế, muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ ta phải thực hiện bước nhảy cục bộ.
– Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng đều có sự thống nhất về chất; với sự tích lũy về lượng khi
vượt qua giới hạn nào đó gọi là điểm nút thì bước nhảy được hình thành và chất của sự vật, hiện
tượng bắt đầu được thay đổi. Khi chất được hình thành thì sẽ có tác động trở lại tới lượng của
sự vật, hiện tượng, quy định nên điểm nút và độ mới. Qúa trình đó diễn ra liên tục làm cho sự
vật không ngừng vận động, phát triển.
3 . Ý nghĩa phương pháp luận.
Với bất kì sự vật, hiện tượng nào đều có 2 phần chất và lượng. Chúng quy định, tác
động, chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn phải coi trọng cả 2 loại lượng và chất. –
Vì lượng và chất có khả năng tác động lẫn nhau nên trên thực tế, ta phải dựa vào mối
quan hệ của sự vật, hiện tượng đó với bên ngoài để thực hiện sự thay đổi dần về lượng hoặc
phát huy tác dụng của chất mới làm thay đổi lượng của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 47028186 –
Chất chỉ được biến đổi khi lượng đạt tới một mức độ nhất định, tức phải vượt qua khoảng
độ của nó, khoảng độ này tùy vào sự vật, hiện tượng mà dài hay ngắn do vậy trong thực tiễn
cần tránh tư tưởng nôn nóng tả khuynh. Khi vượt qua điểm nút thì ta có thể tác động được đến
chất của sự vật, hiện tượng nên cũng cần khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu huynh –
Cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với tình hoàn cảnh
cụ thể. Đặc biệt trong xã hội quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan,
mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó cần phải nâng cao tính tích cực,
chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
LIÊN HỆ VIỆC HỌC TẬP CỦA SV
 Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận với
việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau:
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học:
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên một cách đáng kể.
Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ kéo dài trong một năm, vì thế khối
lượng kiến thức được chia đều ra kiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở Đại học một
môn chỉ kéo dài khoảng 8 đến 18 buổi học (từ 1 đến 2 tháng). Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về
số lượng kiến thức sẽ khiến tân sinh viên gặp những khó khăn. Chính vì thế sinh viên cần phải
chủ động tìm hiểu và sãn sàng để thích nghi với sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối
lượng kiến thức, học đại học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Tiếp
đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên lớp còn học
đại học còn đi kiến tập, thực tập,... Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là thách thức cho sinh viên.
Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có thể nới
sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất.
Chính vì vậy mà người sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục Đại học. Chỉ khi nào làm được như vậy
sinh viên mới hy vọng đạt được những thành tích rực rỡ trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
* Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ: Như chúng ta đã biết, sự vận động
và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một
giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng
không nằm ngoài điều đó.Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số lượng
các tín chỉ của các môn học.Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà điểm
nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy kiến thức đã đủ
dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh
viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập)
theo quy luật. Cần học tập đều đặn hạng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh
gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận thức được trong quá
trình học tập. Tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập và trong hoạt động thực tiễn
hàng ngày. Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức
mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm việc ngay được vì
kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để ta làm việc. Nhưng nếu qua 4
năm mỗi sinh viên học tập và rèn luyện chăm chỉ để tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm
qua thầy cô, qua những lần đi thực tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm ) lOMoAR cPSD| 47028186
bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và
biến đổi sang chất mới.
* Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự tích lũy về
lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đánh đổi bằng sức lao động mà
có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào khác.Với việc học tập và rèn luyện của sinh
viên cũng vậy. Trong một kỳ thi, nếu có sinh viên gian lận để một kết quả tốt thì chẳng khác gì
“không làm mà đòi có ăn”. Bằng gian lận, ta có thể qua được kỳ thi, nhưng về bản chất thì vẫn
chưa có được biến đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ
không tiếp thu được, không đáp ứng được yêu cầu công việc sau này và nếu ta giúp đỡ bạn bè
theo cách của anh bạn thì không khác gì chúng ta đang hại họ.
*Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:
Ngạn ngữ Trung quốc có câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo
tính cách găp số phận” câu nói đó có ý nghĩa triết học của nó. Đó là quy luật lượng- chất trong
triết học, rõ ràng là, những thói quen mà chúng ta đang có được hình thành từ sự tích lũy của
nhiều hành vi được lặp đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày, nhiều thói hư như thế đến lượt nó
lại quyết định đến tính cách của chúng ta,và số phận của mỗi con người phụ thuộc vào tính cách
của họ. Khi tích lũy hành vi (lượng) dần dần sẽ tạo nên thói quen (chất), sinh viên cần rèn luyện
cho mình tính chăm chỉ, tự chủ năng động trong quá trình học tập, tích lũy tri thức giản đơn
nhất từ những thói quen hàng ngày.Trong cuộc sống cũng như trong quá trình học tập sinh viên
phải rèn luyện hàng ngày để hình thành những thói quen học tập, rèn luyện tốt, như:phải biết
tiết kiệm thời gian,làm việc nghiêm túc và khoa học,....tích lũy nhiều thói quen như vậy sẽ góp
phần hình thành nên tính cách, giúp chúng ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
*Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên. Một tập thể bao gồm
nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân có phẩm chất tốt (lượng) sẽ góp phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể
đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong lớp có nhiều cá nhân có ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để
phấn đấu đạt được thành tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi
người. Có thể nói uy tín, thành tích của một lớp phụ thuộc vào sự phấn đấu nỗ lực của mỗi sinh viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất cũng
như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc học tập và rèn luyện của sinh
viên trường Đại học hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ
khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về chất, do đó trong hoạt
động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích lũy dần về lượng và đồng thời phải
biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về
chất. Những việc làm vĩ đại của con, bao giờ cũng tổng hợp những việc làm bình thường, vì
vậy mỗi sinh viên phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn luyện
của mình cả đức và tài, để trở thành một con người phát triển toàn diện, tránh tư tưởng chủ
quan, nóng vội mà không chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Cũng như trong hoạt động của
mình ông cha thường có câu: “tích tiểu thành đại”,...
Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái quát
thành các cặp phạm trù cơ bản. Tính cặp đôi của các phạm trù thể hiện sự phản ánh biện chứng
tính thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của thế giới khách quan. Các cặp phạm trù
hình thành và phát triển trong hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội của con người.
Trong phép biện chứng duy vật, các cặp phạm trù có vai trò phương pháp luận khác nhau. lOMoAR cPSD| 47028186 •
+ Các cặp phạm trù cái riêng và cái chung, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện
tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp: phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy
nạp, khái quát hóa và trừu tượng hóa để nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. •
+ Các cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực là cơ sở phương
pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng như những quá trình tự nhiên. •
+ Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận nắm bắt các hình thức
tồn tại hoặc biểu hiện của đối tượng trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng
của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1 . Cái riêng và cái chung : a. Khái niệm:
-Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định, chỉ ra
những thuộc tính, những mặt giống nhau và được lặp lại trong cái riêng khác. •
-Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những
có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng khác. •
-Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ ra các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở
một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở sự vật hiện tượng nào khác. VD:
• -Các loại trái cây là cái chung – bộ phận cơ thể người là cái chung
• -Trái xoài, trái cam, trái quýt là cái riêng. – mắt mũi miệng là cái riêng
Cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng,
kết cấu vật chất khác.
VD: đường nét hình dáng mắt mũi miệng là cái đơn nhất của mỗi người
Mỗi loại trái cây đều có mùi vị riêng không giống những loại khác b.
Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
• * Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
Không có cái cây nói chung tồồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể. Nhưng cây
cam, cây quýt, cây đào…nào cũng có rễễ, thân, lá, có quá trình lí hóa để duy trì sự sồống.
Những đặc tính chung này lặp lại ở những cây riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm "cây".
• * Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn
tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
Mồễi con người là một cái riêng, nhưng mồễi người không thể tồồn tại ngoài mồối liên hệ với
xã hội và tự nhiên. Không có cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội
• * Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
• * Cái đơn nhất và vái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự
vật: Sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời
thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá
trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. ) lOMoAR cPSD| 47028186
Quá trình phát triển của sinh vật, xuấtố hiện những biễốn dị ở một hoặc ít cá thể riêng biệt, biểu
hiện thành đặc tính mà khi ngoại cảnh thay đổi nó trở nên phù hợpthì đặc tính được bảo tồồn,
duy trì ở nhiễồu thễố hệ và trở thành phổ biễốn của nhiễồu cá thể. Ngược lại những đặc tính
không phù hợp sẽễ mấtố dấồn đi và trở thành cái đơn nhấtố c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
* Phải xuất phát từ cái riêng để tìm cái chung:
Vì cái chung chỉ tồn tại thông qua cái riêng, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức về cái chung
trong cái riêng chứ không thể ngoài cái riêng
* Cần nghiên cứu cải biến cái chung khi áp dụng cái chung vào từng trường hợp cái riêng:
Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những
bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”, nên bất cứ “cái chung” nào
cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến.
Tức là, luôn có sự khác biệt một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái riêng” này và “cái chung”
nằm trong “cái riêng” kia. Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của “cái chung”.
Do đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải
biến, cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”,
tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh. * Không
được lãng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng:
Vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới “cái
chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua
việc giải quyết những vấn đề chung.
Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa vào
tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng trước khi giải quyết
những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.
* Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho cái đơn nhất biến thành cái chung và ngược lại:
Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể
biến thành “cái chung” và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện
thuận lợi cho “cái đơn nhất” phát triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi.
Ngược lại, phải tìm cách làm cho “cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái
chung” không còn phù hợp với lợi ích của số đông mọi người.
2 . Nguyên nhân và kết quả : a. Khái niệm:
-Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các
sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định. •
– Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết quả.
Nguyên cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài, không bản chất. •
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng có
tác dụng đối với việc sinh ra kết quả. •
-Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau. VD:
• -Sự tác động của dòng điện lên dây dẫn là nguyên nhân khiến cho dòng điện nóng lên. lOMoAR cPSD| 47028186
• -Dòng điện nóng lên là kết quả
• -Con người chặt phá rừng, xả rác bừa bãi dẫn đến ô nhiễm môi trường.
Trong hai khái niệm này, chúng ta cần lưu ý đối với khái niệm nguyên nhân và nguyên cơ, để
không có sự nhầm lẫn về khái niệm.
• – Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết quả. Nguyên
cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên ngoài, không bản chất.
• – Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng có tác
dụng đối với việc sinh ra kết quả.
b. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
* Nguyên nhân sản sinh ra kết quả:
• – Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả
chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.
• – Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
• + Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
• + Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
• + Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Không học bài dẫn đến việc thi rớt
• * Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động
đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân.
Nhúng một thanh sắt vừa mới nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt độ của nước trong chậu
sẽ tang lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
• * Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả:
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở
thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết
thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
Natri sunfic tác dụng với axit clohidrit sủi bọt khí lưu hình ddioxxit, lưu huỳnh dioxit làm mất màu thuốc tím
c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
• -Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải bắt đầu từ việc đi tìm những nguyên
nhân xuất hiện sự vật, hiện tượng.
• -Cần phải phân loại các nguyên nhân để có những biện pháp giải quyết đúng đắn.  -Phải
tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng,
nhằm đạt mục đích đã đề ra. * Trong nhận thức:
• – Vì mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người nên chỉ
có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng trong chính thế giới của hiện tượng chứ không thể ở bên ngoài. ) lOMoAR cPSD| 47028186
• – Do nguyên nhân luôn có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một hiện tượng, ta
cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
• – Bởi dấu hiệu đặc trưng của mối liên hệ nhân quả là nguyên nhân sinh ra kết quả, nên khi
xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu hiệu đặc trưng này.
• – Vì một hiện tượng có thê do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình tìm nguyên
nhân của một hiện tượng, ta cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra được kết quả tác động của
từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như từng tổ hợp khác nhau của chúng. Từ đó
ta mới có thể xác định đúng về nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
• – Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ khác có thể là
nguyên nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần xem xét nó trong những mối
quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ nó là kết quả. *
Trong hoạt động thực tiễn:
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yêu nên ta có thể dựa vào mối liên hệ nhân quả để hành
động thực tiễn. Khi hành động, ta cần chú ý:
• – Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó.
• – Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần thiết.
Vì hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng thời nên cần
tùy hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
• – Trong hoặt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và nguyên
nhân bên trong. Vì chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của hiện tượng.
• – Để đẩy nhanh hay kìm hãm, loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội nào đó, ta cần
làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều, hay lệch hoặc ngược chiều với
chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
3 . Tất nhiên và ngẫu nhiên : a. Khái niệm:
 -Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ bản chất, do nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật,
hiện tượng quy định và trong điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thế khác. VD: 1+1= 2
Cá không có nước cá sẽ chết
 -Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ không bản chất, do nguyên nhân, hoàn cảnh bên
ngoài quy định nên có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc có
thể xuất hiện cái khác.
VD: việc giảng viên gọi tên sinh viên trả lời câu hỏi là ngẫu nhiên
b. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
* Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại một cách khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người:
• – Dù con người có nhận thức được hay chưa, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn tồn tại và phát
huy vai trò của nó đối với sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
• – Trong quá trình phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng:
• + Cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật. lOMoAR cPSD| 47028186
• + Cái ngẫu nhiên có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của sự vật, có thể làm cho sự
phát triển đó diễn ra nhanh hoặc chậm.
Sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu nhiên, kể cả những cái
ngẫu nhiên rất nhỏ, ví dụ như cá tính của người lúc đầu lãnh đạo phong trào cách mạng.
• * Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt thống nhất và đối lập.
• * Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
Việc quả trứng bị vỡ do con người đập là tất nhiên. Việc quá trứng bị vỡ do rơi hoặc do bi ddajpj là ngẫu nhiên
c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Tất nhiên nhất định phải xảy ra đúng như thế nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa
vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên và như vậy, nhiệm vụ của khoa học là tìm cho
được mối liên hệ tất nhiên của hiện tượng khách quan. •
-Tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần túy nên trong hoạt động nhận thức chỉ có thể
chỉ ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên phải đi qua. •
-Ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển, thậm chí còn có thể làm cho tiến trình
phát triển của sự vật, hiện tượng đột ngột biến đổi; do vậy, không nên bỏ qua ngẫu nhiên mà
phải có những phương án dự phòng trường hợp các sự cố ngẫu nhiên xuất hiện bất ngờ. •
-Ranh giới giữa tất nhiên với ngẫu nhiên chỉ là tương đối nên sau khi nhận thức được
các điều kiện có thể tạo ra sự chuyển hóa trên, có thể tạo ra điều kiện thuận lợi để “biến” ngẫu
nhiên phù hợp với thực tiễn thành tất nhiên và tất nhiên không phù hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên
4 . Nội dung và hình thức : a. Khái niệm:
• -Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng.
• -Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện
tượng ấy, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cấu thành nội
dung của sự vật, hiện tượng và không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái thể
hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng. VD:
• -Một món ăn ngon sẽ gồm nhiều nguyên liệu bên trong là nội dung, hình thức là phương
thức chế biến nó (xào, chiên, luộc,...) và bày trí nó.
• -Một ly trà sữa thì nội dung là nguyên liệu gồm có topping và trà sữa còn hình thức là có
thể để trà trước sữa sau hoặc sữa trước trà sau hoặc topping trước b. Quan hệ biện chứng
giữa nội dung và hình thức:

• * Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.
• – Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức. Không có sự vật nào chỉ
có nội dung mà không có hình thức, hoặc chỉ có hình thức mà không có nội dung. Do vậy,
nội dung và hình thức phải thống nhất với nhau thì sự vật mới tồn tại.
• – Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng những mặt, những yếu tố
này không tách rời nhau, mà thống nhất, gắn kết với nhau.
Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, và cũng không có nội dung nào lại
không tồn tại trong hình thức.
• – Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình thức. Ngược
lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau. ) lOMoAR cPSD| 47028186
Cùng là bán sản phẩm nhưng 1 công ty bán trực tiếp tại cửa hang, 1 công ty bán online trên
fanpage cùng là chiên nhưng 1 món sử dụng thịt gà, 1 món sử dụng thịt heo
• * Nội dung quyết định hình thức:
Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất; nó có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi. Còn hình
thức là mặt tương đối bền vững; khuynh hướng chủ đạo của nó là ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển của nội dung.
Còn hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội dung.
Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.
• - Chế độ sở hữu nhân dân Để đáp ứng sự thay đổi nội dung nhiệm vụ chức năng của nhà
nước thì hình thức bộ máy của nhà nước cũng thay đổi. nhiệm vụ chức năng của nhà nước
phong kiến bảo vệ và phát triển chễố phong kiễốn, duy trì sự bóc lột của phong kiễốn đồối
với nông dân và các tấồng lớp lao động khác, quyễồn lực nằồm trong tay của lãnh chúa phong kiễốn Nội dung
* Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung:
Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại, nếu
không phù hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội dung phát triển.
một số doanh nghiệp có cùng một nội dung kinh doanh nhưng lại có hình thức kinh doanh khác
nhau nên sự phát triển của các doanh nghiệp khác nhau
• – Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình phát triển của sự vật.
Lúc đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối
bền vững của hình thức. Nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó,
hệ thống mối liên hệ tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội
dung. Lúc này, hình thức không phù hợp với nội dung nữa.
Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ phá bỏ hình thức
cũ, hình thức mới sẽ hình thành. Trên cơ sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi, phát
triển và chuyển sang trạng thái mới về chất. c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
• -Không tách rời nội dung với hình thức
• -Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật  -Phải theo dõi sát mối quan hệ
giữa nội dung và hình thức  -Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.
5 . Bản chất và hiện tượng : a. Khái niệm:
-Bản chất là phạm trù chỉ tổng thể các mối liên hệ khách quan, tất nhiên, tương đối ổn
định bên trong, quy định sự vận động, phát triển của đối tượng và thể hiện mình qua các hiện
tượng tương ứng của đối tượng. •
-Hiện tượng là phạm trù chỉ những biểu hiện của các mặt, mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi hơn và là hình thức thể hiện của bản chất đối tượng. •
-Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định
ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó. •
-Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản chất của sự
vật, hiện tượng ra bên ngoài. lOMoAR cPSD| 47028186 •
– Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách quan. Nó
ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những hiện tượng ấy. VD:
-Trí tuệ nhân tạo có thể sử dụng ngôn ngữ và có cảm xúc như một con người nhưng bản
chất nó là một cỗ máy tất cả đều do con người tạo ra. •
-Bản chất của một ngôi nhà là để ở, che mưa. che nắng và sinh hoạt . To, rộng, nhỏ,
hẹp, đẹp, xấu là hiện tượng vẻ ngoài của ngôi nhà
b. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
* Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống: Lý do là vì: •
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham
gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật. •
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở
bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan. •
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên
hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
* Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Trong nghiên cứu khoa học người ta thường bắt đầu từ việc quan sát, thống kê các hiện tượng
( quan sát tự nhiên hay qua thí nghiệm) trên cơ sở đó tiến hành nghiên cứu (có thể thông qua
việc xác lập các mô hình giả thuyết,...) về bản chất của hiện tượng để giải thích hiện tượng quan sát được.
• – Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ, gắn
bó hết sức chặt chẽ với nhau.
• – Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
• + Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ
qua những hiện tượng tương ứng.
• + Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự
bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào tồn tại một cách
thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải
là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
• – Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản chất mất
đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
• – Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động,
phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái
chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.
• * Tuy thống nhất với nhua, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn;
• -Nhúng một phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.
• -“Đừng trông mặt mà bắt hình dong” c. Ý nghĩa phương pháp luận: ) lOMoAR cPSD| 47028186
• – Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại ở hiện tượng
mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
• – Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét rất nhiều hiện tượng khác
nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
6 . Khả năng và hiện thực : a. Khái niệm:
• -Khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới nhưng nó sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện thích hợp.
• -Hiện thực là những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự. VD:
• -Xét về mặt hiện thực thì một quốc gia nào đó vẫn đang ở tình trạng là một nước nghèo
nhưng khả năng trong tương lai quốc gia đó có thể trở thành một nước giàu khi nó phát huy
được những lợi thế hiện tại
• -Trong mỗi hạt thóc có khả năng thực tế hạt thóc sẽ thành cây lúa
• -Mua một tấm vé số sẽ có khả năng trúng nhưng hiện thực thì đang có tờ vé số và đợi dò b.
Quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
* Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn chuyển hóa lẫn nhau.
khi chúng ta thi đỗ đại học và theo học một trường đại học nào đó thì chúng ta có khả năng trở
thành kỹ sư, cử nhân. Nếu khả năng trở thành kỹ sư, cử nhân trở thành hiện thực thì sẽ xuất
hiện khả năng có việc làm tốt. Nếu khả năng có việc làm tốt được thực hiện thì sẽ làm nảy sinh
khả năng có thu nhập cao, v.v. * Các khả năng có thể cùng tồn tại với nhau.
Người nội trợ mua nguyên liệu là khổ qua. Có khả năng bà ấy sẽ nấu món hầm cũng có khả năng nấu món xào
* Sự biến đổi của mỗi khả năng.
Khả năng sinh viên nhân được điểm xấu hay điểm tốt là tùy thuộc vào việc học tập của mối người
c. Ý nghĩa của phương pháp luận:
• -Trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào thực tiễn nhưng cũng cần tính đến các khả năng
• -Thực hiện quy trình, cách thức xác định các khả năng trong thực tiễn  -Tiến hành lựa
chọn và thực hiện các khả năng Ở đây, ta cần tránh hai thái cực sai lầm:
• + Tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan. Tức là chỉ cần có con người là khả năng sẽ biến thành hiện thực.
+ Xem thường nhân tố chủ quan. Tức là không tin tưởng vào năng lực của con người trong
việc biến khả năng thành hiện thực.
Quan điểm của Lênin về thực tiễn đời sống…….
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích
mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội”. Quan điểm thực tiễn
là quan điểm cơ bản và quan trọng nhất trong triết học Mác. Toàn bộ hệ thống lý luận của triết
học Mác đã được xây dựng trên hòn đá tảng thực tiễn. Theo quan điểm của Lenin: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận nhận thức”. Chỉ khi
có quan điểm thực tiễn khoa học mới có thể hình thành nên thế giới quan, phương pháp luận, lOMoAR cPSD| 47028186
nhận thức luận, giá trị quan của triết học Mác. Thực tiễn, theo quan niệm của C.Mác, là hoạt
động cảm tính của con người, hoạt động có tính đối tượng và là sự thống nhất giữa hoạt động
cải tạo hoàn cảnh với hoạt động của con người hoặc với hoạt động tự cải tạo của con người. Do
vậy, thực tiễn là quá trình tác động tương hỗ lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể, quá trình trao
đổi qua lại của vật chất, năng lượng và thông tin. Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của
con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với
thế giới bên ngoài, thì con người hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa
mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một thiên nhiên thứ hai của mình,
một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển
của con người vốn không có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con
người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn
tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận
thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu
và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ
không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và
trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta
cải biên tự nhiên”. Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con
người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế
giới buộc thế giới phải bị lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để con người nhận thức
chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát
triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật sẽ không có
khoa học, không có lý luận. Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến
đổi luôn cả bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh
tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế
giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế
nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.Thực tiễn là cơ sở để chế tạo công cụ,
phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức, khám phá, chinh phục
thế giới. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý. Theo Mạc và Ăngghen thì “Vấn để tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới
chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề
của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Thực tiễn có vai
trò làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức, nó còn bổ
sung, chỉnh sửa, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. Thực tiễn là điểm
xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển
của nhận thức, cũng là nơi nhận thức luôn hướng đến để kiểm nghiệm tính đúng đắn.
Nói tóm lại, quan điểm thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ
sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn. Ví dụ:
+ Nghiên cứu cây lúa phải bám sát quá trình gieo mạ và tiến trình sinh trưởng, phát triển của
cây lúa trực tiếp trên cánh đồng, đồng thời kết hợp với những tri thức đã có về cây lúa trong
những tài liệu chuyên ngành. Ta không thể nghiên cứu về cây lúa chỉ bằng việc đọc sách, báo, tài liệu.
+ Nghiên cứu về cách mạng xã hội thì cũng không thể chỉ dựa vào sách, báo, tài liệu, mà cần
phải có cả quá trình tiếp xúc, tìm hiểu đời sống của các giai cấp, tầng lớp…
+ Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu. ) lOMoAR cPSD| 47028186
+ Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các vật liệu mới,
nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh mới. Chẳng hạn như qua hàng nghìn lần
miệt mài thử nghiệm đúng và sai của Edison mà ta mới có bóng đèn như hiện nay, hay nhờ
những nhà khoa học ngày đêm nghiên cứu để điều chế ra vacxin ngừa Covid,...
+ Để bảo vệ môi trường, nhiều người đã nghĩ ra các vật liệu thân thiện với môi trường như cốc
tái chế, ống hút giấy... Việc tạo ra những vật liệu, đồ dùng này chính là nhằm phục vụ cho mục
đích bảo vệ môi trường
1 . Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện a. Định nghĩa
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta
phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính
khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự
vật, hiện tượng đó với sự vật hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải nắm
được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng; tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của
thuật nguy biện, coi cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc
ngược lại, dẫn đến sự nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ biến nên cũng có những
tính chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
b. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối
liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối
liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình
vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
2 . Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi
phối sự tồn tại của bản thân sự vật. Sẽ xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…; lOMoAR cPSD| 47028186
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ
bản, tất nhiên, ổn định…sẽ lý giải được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các
mối quan hệ, liên hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…), phát hiện ra quy luật ( bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối
liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt
là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt…) của bản thân sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để
phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo
đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ
giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy
biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện: •
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất
nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật;
chỉ xem xét sự vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi. •
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của
sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của
sự vật; mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện. •
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ
bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích
của mình một cách tinh vi.
Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân, quan
điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
II. Vận dụng vào việc học của sinh viên khi áp dụng nguyên tắc toàn diện ta sẽ đặt việc học
vào các mối liên hệ như: học gì, học như thế nào, khi nào học, … và khi rút ra được mối liên
hệ giữa chúng, ta sẽ có được một hệ thống kiến thức, phương pháp học thích hợp. Về việc tiếp
cận và tiếp thu kiến thức sinh viên không nên quá rập khuôn đối với những gì được truyền đạt
từ giảng viên hay đọc trên sách vở, rập khuôn ở đây không phải nói những trí thức nhận được
từ giảng viên hay sách vở là sai mà nó có nghĩa là sinh viên không nên quá tuyệt đối hóa
những trí thức đó mà không bổ sung, không phát triển. Ví dụ: khi ta học môn hóa có kiến thức
mà trong môn học chỉ nói khái quát, chung chung nhưng khi ta học môn khác chẳng hạn môn ) lOMoAR cPSD| 47028186
sinh thì những vấn đề đó sẽ được nói cụ thể hơn và lúc đó chúng ta cần phải tìm hiểu vấn đề
đó để hiểu rõ, sâu sắc hơn và phải tiếp thu những quan điểm khác nhau để so sánh. Và như ta
đã biết thì “học đi đôi với hành” do vậy ta còn phải áp dụng những kiến thức đó vào thực tế
để biết chúng đã đúng chưa hay vẫn còn phát sinh những vấn đề khác. 2 TUỲ CƠ ỨNG BIẾN
Tuỳ theo hoàn cảnh, tình hình mà đối phó, hành động (thường chỉ người nhanh nhẹn, thông
minh). Tùy việc xảy ra mà tìm cách cư xử, không theo khuôn khổ nào. Bất biến – vạn biến
mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến, giữa cái không thay đổi và cái thay đổi, giữa bản thể
và hiện tượng, giữa cái nhất (cái một) và cái đa (cái nhiều),... là vấn đề trung tâm của triết học
xuyên suốt từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Dĩ bất biến ứng vạn biến tức là lấy cái bất biến (
không thay đổi) mà ứng phó với cái vạn biến (cái luôn thay đổi). Ý nghĩa triết lý trên là ở chỗ
dù mọi sự vật hiện tượng thiên sai vạn biệt, phong phú, đa dạng, thay đổi khôn lường nhưng
đều xoay quanh trục của nó, đó là bản thể, cái mà Trang Tử gọi là "Chốt của đạo". Trong mối
quan hệ giữa bản thể và hiện tượng thì bản thể là bất biến, không sinh không diệt; còn các
hiện tượng biến chuyển không ngừng nay còn mai mất. Trong mỗi nền triết học, cái bất biến -
bản thể không thêm không bớt này được gọi bằng những cái tên khác nhau, chẳng hạn như
“Brahman” trong triết học Ấn Độ, “Đạo” trong học thuyết Lão Trang, “Thái cực” trong Kinh
dịch, “vật chất” trong chủ nghĩa duy vật, “tâm” trong chủ nghĩa duy tâm; ... Trong chủ nghĩa
duy vật biện chứng, bản thể là vật chất, nhưng nó luôn vận động biến đổi, luôn chuyển hóa từ
dạng này sang dạng khác; nó vĩnh viễn, vô cùng, vô tận; nó bất biến so với hiện tượng luôn
luôn thay đổi. Mọi sự vật hiện tượng đều là những dạng cụ thể của vật chất, có kết cấu hoặc
nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá
trình vật chất đang vận động, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân, kết quả của nhau.
Tại sao nói 3 quy luật là sự cụ thể hoá nguyên lý phát triển
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó: •
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển •
Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt
phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những người Cộng sản.
Theo Các Mác: Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh
hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giao điếu của chúng mà thôi, vì trong quan

niệm tích cực về cái đang tồn tại, phép biện chứng cũng bao hàm cả quan niệm, sự phủ định
cái đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đều được phép biện chứng
xét trong sự vận động, tức xét cả mặt nhất thời của hình thái đó;… vì phép biện chứng không
khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng.[1]
Ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận
động, phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các lOMoAR cPSD| 47028186
quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng. Vì vậy đây
là nền tảng cho sự phát triển của sự vật hiện tượng sau này.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ
ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy luật chuyển hoá từ những biến
đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự
phát triển thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra.
Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù và đến lượt
mình, những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức
cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.
Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật với các quy luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành tạo nên cơ sở khách
quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học chuyên ngành. )