



















Preview text:
Ly hôn đơn phương là gì? Những điều cần biết khi ly hôn đơn phương
1. Tổng quan về ly hôn đơn phương
1.1. Ly hôn đơn phương là gì?
Theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ly hôn đơn phương (còn gọi
là ly hôn theo yêu cầu của một bên) là việc một trong hai vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết
việc ly hôn khi hòa giải tại Tòa án không thành công, và Tòa án xét thấy có căn cứ để cho ly hôn.
Các căn cứ này bao gồm:
Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình;
Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng;
Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
của hôn nhân không đạt được.
Ngoài ra, Tòa án cũng sẽ giải quyết cho ly hôn trong trường hợp:
Vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn.
Có yêu cầu ly hôn khi chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
1.2. Đặc điểm nhận diện ly hôn đơn phương so với ly hôn thuận tình
Ly hôn trong pháp luật Việt Nam được chia thành hai hình thức chính là ly hôn đơn phương và
ly hôn thuận tình. Sự khác biệt giữa hai hình thức ly hôn này như sau: Tiêu chí Đơn phương ly hôn Thuận tình ly hôn
Ly hôn đơn phương là việc một trong hai Ly hôn thuận tình là hình thức chấm dứt quan hệ hôn
bên vợ, chồng yêu cầu Tòa án giải quyết nhân khi cả hai vợ chồng tự nguyện đồng ý ly hôn và
chấm dứt quan hệ hôn nhân khi hôn Định nghĩa
đã thống nhất hoàn toàn về mọi vấn đề bao gồm
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời quyền nuôi con chung, nghĩa vụ cấp dưỡng, chia tài
sống chung không thể kéo dài, mục đích sản chung, giải quyết nợ chung
hôn nhân không đạt được Căn cứ
Điều 56 Luât Hôn nhân và Gia đình
Điều 55 Luât Hôn nhân và Gia đình pháp lý Bản chất
Vụ án dân sự (có tranh chấp)
Vụ việc dân sự (không có tranh chấp) Sự đồng
Bên kia không đồng ý ly hôn hoặc không Hai bên tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận được mọi
thuận của đồng ý về các vấn đề liên quan vấn đề hai bên - Vợ hoặc chồng Người có
- Cha, mẹ, người thân thích nếu một bên quyền yêu
Cả hai vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn
mất năng lực hành vi dân sự và là nạn cầu nhân bạo lực gia đình
- Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người
Toà án có bị yêu cầu ly hôn đơn phương cư trú thẩm hoặc làm việc.
TAND cấp huyện nơi cư trú của vợ hoặc chồng, tùy quyền giải
theo thỏa thuận giữa hai bên quyết
- Nếu có yếu tố nước ngoài sẽ do Tòa án
nhân dân cấp tỉnh thực hiện
Khoảng 02 – 06 tháng (có thể lâu hơn Thời gian
Khoảng 01 – 03 tháng nếu đủ điều kiện áp dụng thủ
nếu tranh chấp phức tạp, cần điều tra, giải quyết tục rút gọn định giá...) Kết quả
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn (có hiệu lực của quá
Bản án ly hôn (có hiệu lực sau thời gian ngay, không cần chờ thời gian kháng cáo nếu các bên trình giải kháng cáo/phúc thẩm) không thay đổi ý kiến) quyết
1.3. Khi nào nên cân nhắc ly hôn đơn phương?
Ly hôn chưa bao giờ là một quyết định dễ dàng. Tuy nhiên, trong nhiều tình huống, ly hôn đơn
phương lại trở thành giải pháp cần thiết và hợp pháp để một người vợ hoặc chồng bảo vệ
quyền lợi của mình, đồng thời chấm dứt một cuộc hôn nhân không còn giá trị. Vậy, khi nào thì
nên xem xét lựa chọn ly hôn đơn phương? Dưới đây là một số gợi ý dành cho bạn:
Khi đối phương không đồng ý ly hôn nhưng hôn nhân đã rạn nứt nghiêm trọng
Khi bị bạo lực gia đình, xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm
Khi vợ/chồng có hành vi ngoại tình hoặc sống chung với người khác như vợ chồng
Khi người kia bỏ bê gia đình, không thực hiện nghĩa vụ vợ/chồng
Khi không thể thỏa thuận các vấn đề ly hôn (tài sản, con cái) một cách hòa bình
Khi sự tồn tại của cuộc hôn nhân gây tổn hại đến con cái...
Không ai mong muốn kết thúc hôn nhân bằng ly hôn. Tuy nhiên, khi mối quan hệ không còn là
nơi an toàn, tôn trọng và yêu thương, thì việc lựa chọn ly hôn đơn phương là hoàn toàn đúng
đắn và cần thiết. Quan trọng là bạn cần nắm rõ quyền lợi của mình, chuẩn bị hồ sơ đầy đủ và
nếu cần, hãy tìm đến luật sư để được hỗ trợ pháp lý kịp thời.
2. Điều kiện để được ly hôn đơn phương
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì hiện nay pháp luật cho phép vợ, chồng
được phép ly hôn theo yêu cầu của một bên. Tuy nhiên, việc ly hôn này sẽ phải được thực hiện
trên cơ sở quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết
cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa
án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án
giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
2.1. Đã tiến hành hoà giải tại Toà án nhưng không thành.
Tại khoản 2 Điều 397 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về hòa giải và công nhận thuận tình ly
hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cũng nêu rõ, khi giải quyết yêu cầu ly hôn thuận
tình: "2. Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ; giải thích về quyền và nghĩa
vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, về trách
nhiệm cấp dưỡng và các vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình."
Điều 54 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 về hòa giải tại Tòa án: "Sau khi đã thụ lý đơn yêu
cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự."
Thủ tục hòa giải tại tòa án này được thực hiện trong giai đoạn trong khi chờ đưa vụ án ra xét xử
sau khi vụ án đã được thụ lý. Việc hòa giải này có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể hiện tính trách
nhiệm cao của những người có thẩm quyền xét xử, luôn đề cao việc tạo điều kiện cho đương sự
có cơ hội chia sẻ, trình bày, viết lời khai trước những người có quyền ra quyết định việc ly hôn của hai người.
Việc hòa giải này được thực hiện theo nguyên tắc được quy định tại Khoản 2 Điều 205 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015, quy định vệc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:
Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình;
Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Trước khi tiến hành hòa giải, trong trường hợp xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể chủ động
tham khảo ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ
quan bảo vệ quyền trẻ em, hoặc chính quyền địa phương nơi vợ chồng cư trú. Mục đích của
việc tham khảo này là để nắm bắt rõ hơn về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân dẫn đến mâu
thuẫn, cũng như nguyện vọng của các bên liên quan, bao gồm cả vợ, chồng và con (nếu có).
Thông tin thu thập được sẽ giúp Thẩm phán có cái nhìn toàn diện và đưa ra hướng hòa giải phù
hợp với thực tế từng trường hợp cụ thể.
Trong quá trình hòa giải tại Tòa án, Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải theo hướng đoàn tụ, nghĩa
là sẽ phân tích, giải thích để hai bên hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn
nhân, đặc biệt là nghĩa vụ với con cái, từ đó tạo điều kiện để hàn gắn mối quan hệ, nếu còn khả
năng. Trường hợp hai bên đồng ý đoàn tụ sau khi được hòa giải, Thẩm phán sẽ lập biên bản hòa
giải thành và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Ngược lại, nếu hòa giải không đạt kết quả,
vợ chồng vẫn giữ nguyên quan điểm ly hôn và giữa họ có tranh chấp về con chung, tài sản hoặc
nghĩa vụ tài chính, Thẩm phán sẽ lập biên bản hòa giải không thành và tiến hành các bước tiếp
theo để mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn đơn phương theo quy định của pháp luật.
2.2. Có chứng cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng.
Thứ nhất, hành vi bạo lực gia đình là các hành động của vợ hoặc chồng có hành vi quy định tại
khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2022. Hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
Hành hạ, ngược đãi, đánh đập, đe dọa hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;
Lăng mạ, chì chiết hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người, con vật nhằm gây áp lực thường xuyên về tâm lý;
Bỏ mặc, không quan tâm; không nuôi dưỡng, chăm sóc thành viên gia đình là trẻ em,
phụ nữ mang thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người cao tuổi, người
khuyết tật, người không có khả năng tự chăm sóc; không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em;
Kỳ thị, phân biệt đối xử về hình thể, giới, giới tính, năng lực của thành viên gia đình;
Ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, có quan hệ xã hội hợp pháp, lành mạnh
hoặc hành vi khác nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý;
Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu;
giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
Tiết lộ hoặc phát tán thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình
của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
Cưỡng ép thực hiện hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn của vợ hoặc chồng;
Cưỡng ép trình diễn hành vi khiêu dâm; cưỡng ép nghe âm thanh, xem hình ảnh, đọc nội
dung khiêu dâm, kích thích bạo lực;
Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở kết hôn, ly hôn hợp pháp;
Cưỡng ép mang thai, phá thai, lựa chọn giới tính thai nhi;
Chiếm đoạt, hủy hoại tài sản chung của gia đình hoặc tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình;
Cưỡng ép thành viên gia đình học tập, lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát tài sản, thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng
lệ thuộc về mặt vật chất, tinh thần hoặc các mặt khác;
Cô lập, giam cầm thành viên gia đình;
Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp trái pháp luật.
Như vậy, có 16 hành vi được xem là hành vi bạo lực gia đình. Việc vợ hoặc chồng vi phạm các
hành vi trên được xem là có hành vi bạo lực gia đình.
Thứ hai, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng là việc vi phạm quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình 2014 về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia. Ví dụ: Vợ, chồng phá tán tài sản gia đình do cờ bạc,
rượu chè, nghiện ngập...
Thứ ba, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
của hôn nhân không đạt được:
Không có tình nghĩa vợ chồng: Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp
đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng
Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình
Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh
thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau
Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Theo đó, khi ly hôn đơn phương vì những lý do kể trên thì sẽ được xem là lý do hợp pháp.
2.3. Không thuộc trường hợp pháp luật cấm hoặc hạn chế ly hôn đơn phương
Tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng nêu rõ: "Chồng không có quyền
yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng
tuổi." Điều này được thể thiện rõ hơn tại Điều 2 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình, theo đó
trong những trường hợp sau người chồng không có quyền yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn:
Điều 2. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình 1. ...
3. Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng
tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai
nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này.
4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không
phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.
5. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà
không phân biệt con đẻ, con nuôi.
6. Trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì việc xác định quyền yêu cầu giải quyết ly
hôn của chồng như sau:
a) Chồng của người mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang
có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
b) Chồng của người nhờ mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc
đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Trẻ nhỏ cần sự chăm sóc đặc biệt và sự hiện diện của cả hai cha mẹ là rất quan trọng cho sự
phát triển toàn diện của trẻ. Quy định này nhằm bảo đảm rằng trẻ được hưởng đầy đủ tình cảm
và sự chăm sóc từ cả cha lẫn mẹ trong những năm tháng đầu đời.
3. Các trường hợp đặc biệt của ly hôn đơn phương
3.1. Ly hôn đơn phương khi một bên mất tích
3.1.1. Quy trình xử lý ly hôn đơn phương khi một bên mất tích
- Thủ tục tuyên bố một người mất tích được thực hiện theo quy định tại Chương XXVI Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015. Theo đó, thủ tục này được tiến hành gồm các bước sau:
Bước 1: Gửi đơn yêu cầu tuyên bố một người mất tích cho Tòa án
- Người gửi: Người có quyền, lợi ích liên quan;
- Hồ sơ, tài liệu gửi đến Tòa án, gồm:
Đơn yêu cầu tuyên bố mất tích;
Tài liệu, chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích 02 năm
trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết;
Tài liệu, chứng cứ chứng minh người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông
báo tìm kiếm: Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú của Tòa án (bản sao)…
Bước 2: Chuẩn bị xét đơn
Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm
người mất tích. Thời gian thông báo tìm kiếm là 04 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu.
Bước 3: Xét đơn yêu cầu
Sau khi kết thúc thời hạn thông báo, trong vòng 10 ngày, Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
- Thủ tục ly hôn với người mất tích
Để ly hôn với người bị tuyên bố mất tích, người vợ/chồng phải thực hiện thủ tục ly hôn đơn phương.
Theo đó, người yêu cầu ly hôn với người bị tuyên bố mất tích phải chuẩn bị và nộp cho Tòa án
những loại giấy tờ sau:
Đơn xin ly hôn đơn phương (theo mẫu);
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính);
Căn cước hoặc hộ chiếu (bản sao có chứng thực);
Quyết định công bố một người mất tích;
Giấy khai sinh của con (nếu có, bản sao chứng thực);
Giấy tờ về quyền sở hữu tài sản (nếu có, bản sao chứng thực)…
Sau khi chuẩn bị đầy đủ giấy tờ thì nộp tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú cuối cùng của
người bị tuyên bố mất tích (Căn cứ Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).
3.1.2. Bản án về ly hôn với người mất tích số 15/2021/HNGĐ-ST ngày 09/04/2021
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/04/2021 VỀ LY HÔN VỚI NGƯỜI MẤT TÍCH
Ngày 09 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xét xử sơ thẩm công
khai vụ án thụ lý số 51/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm
2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị Tuyết Th, sinh năm 1993.
Địa chỉ: Tổ A, thôn B, xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Bị đơn: Anh Võ Đình Đ, sinh năm 1992.
Nơi cư trú cuối cùng: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
(Chị Th, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa). NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn, chị Lê Thị Tuyết Th trình bày: Sau
khi tìm hiểu nhau được 03 năm thì chị Th và anh Võ Đình Đ mới đi đến hôn nhân. Hôn nhân trên
cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn ngày 11-02-2015 tại Ủy ban nhân dân
(UBND) xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình
chồng tại xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng
tháng 10-2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Đ sống không có trách
nhiệm, không quan tâm tới cuộc sống gia đình. Theo chị Th thì anh Đ còn có quan hệ tình cảm
với người phụ nữ khác bên ngoài nhưng chị Th không có chứng cứ. Đến tháng 4-2016 thì chị Th
và anh Đ ly thân. Từ tháng 8-2016 thì anh Đ đi khỏi địa phương nhưng chị Th cũng không biết lý
do. Sau thời gian tìm kiếm, liên lạc nhưng vẫn không biết tin tức nên chị Th đã làm đơn đề nghị
Tòa án tuyên bố anh Đ mất tích. Ngày 29-9-2020, Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu đã có Quyết định số 09/2020/QĐDS-ST về việc tuyên bố anh Đ mất tích từ ngày 01-9-
2016. Nay, chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết:
Về hôn nhân: Chị Th xin được ly hôn với anh Đ.
Về nuôi con chung: Chị Th và anh Đ có 01 người con chung là Võ Đình Minh Tr, sinh ngày 02-12-
2015. Chị Th có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Tr và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với anh Võ Đình Đ đã được Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tuyên bố mất tích theo Quyết
định số 09/2020/QĐDS-ST ngày 29-9-2020 vì vậy không lấy lời khai và tiến hành hòa giải được.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa,
nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.
Về nuôi con chung: Giao 01 người con chung cho chị Th được quyền nuôi dưỡng;anh Đ không
cấp dưỡng nuôi con chung.
Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu nên không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Chị Th và anh Đ sống chung với nhau có đăng ký kết hôn nay chị Th yêu cầu ly
hôn nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Nơi cư trú cuối cùng của anh Võ Đình Đ là xã
B, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nên Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý, giải quyết là đúng
thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chị Th vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt
theo quy định tại khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. [2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Th và anh Đ trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký
kết hôn ngày 11-02-2015 tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Theo chị Th sau khi kết
hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 10-2015 thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân do anh Đ sống không có trách nhiệm, không quan tâm tới cuộc sống gia đình. Đến
tháng 4-2016 thì chị Th và anh Đ ly thân. Tại Quyết định số 09/2020/QĐDS-ST ngày 29-9-2020
của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức tuyên bố anh Võ Đình Đ, sinh năm 1992 mất tích từ ngày
01-09-2016. Xét thấy, anh Đ là người bị Tòa án tuyên bố mất tích nên yêu cầu ly hôn của chị Th
thuộc trường hợp xin ly hôn với người mất tích do vậy cần áp dụng khoản 2 Điều 56 của Luật
Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 68 của Bộ luật Dân sự xử cho chị Th được ly hôn với anh Đ.
[2.2] Về nuôi con chung: Xét thấy, từ khi chị Th và anh Đ ly thân thì con chung là cháu Võ Đình
Minh Tr, sinh ngày 02-12-2015 do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Nay, chị Th có nguyện vọng được
tiếp tục nuôi dưỡng cháu Tr nên cần áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình giao
con chung cho chị Th nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.
[2.3] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[3] Về án phí: Chị Th phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (DSST)
đối với yêu cầu ly hôn. Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4
Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản
5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa
án. Căn cứ khoản 2 Điều 68 Bộ luật Dân sự; Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;
1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Tuyết Th và anh Võ Đình Đ.
2.Về nuôi con chung: Chị Lê Thị Tuyết Th và anh Võ Đình Đ có 01 người con chung là Võ Đình
Minh Tr, sinh ngày 02-12-2015;
Giao con chung Võ Đình Minh Tr, sinh ngày 02-12-2015 cho chị Lê Thị Tuyết Th trực tiếp nuôi
dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của chị Lê Thị Tuyết Th không yêu cầu anh Võ Đình Đ cấp dưỡng
nuôi con chung. Anh Võ Đình Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà mình không trực
tiếp nuôi dưỡng không ai được quyền cản trở.
Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu
đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền
yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84
Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3.Về chia tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4.Về án phí: Chị Lê Thị Tuyết Th phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí DSST đối với
yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn
đồng) mà chị Th đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C theo biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số TU/2020/0005132 ngày 24 tháng 02 năm 2021; chị Lê Thị Tuyết Th đã nộp xong
án phí DSST đối với yêu cầu ly hôn.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc
bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.
3.1.3. Một số vướng mắc và bất cập trong thực tiễn
Tuyên bố mất tích là một biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên
quan khi một cá nhân không thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình, tuyên bố mất tích là một trong những căn cứ để Toà án giải quyết yêu cầu ly hôn. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy có những trường hợp, do mục đích tư lợi, một bên có hành vi cố ý che
giấu thông tin, khai báo thông tin không đúng sự thật gây khó khăn trong việc xác định tin tức
xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Việc lạm dụng biện pháp pháp lý trên có thể
nhằm những muc đích tiêu cực để nhanh chóng kết thúc hôn nhân, trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng, phân chia tài sản, hoặc kết hôn với người khác mà không cần chờ đợi. Điều này có thể
đẫn dến những hệ luỵ nghiêm trọng khi người bị tuyên bố mất tích trở về.
Tại điều 70 Luật Dân sự năm 2015 quy đinh:
Điều 70. Hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích
1. Khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo
yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó.
2. Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao
sau khi đã thanh toán chi phí quản lý.
3. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được ly hôn thì dù người bị
tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống, quyết định cho ly hôn
vẫn có hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 69 BLDS 2015, tài sản của người bị tuyên bố mất tích sẽ được giao cho người quản lý
tài sản (thường là con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những
người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân
thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản). Khi người bị tuyên bố mất tích trở về, họ có
quyền nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản
lý. Tuy nhiên, trên thực tế, việc này có thể gặp khó khăn nếu tài sản đã được sử dụng, chuyển
nhượng hoặc hao hụt trong quá trình quản lý.
Bên cạnh đó, trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích đã được Tòa án giải
quyết cho ly hôn theo đúng trình tự, thủ tục luật định, thì dù người bị tuyên bố mất tích sau đó
trở về hoặc có tin xác thực là người đó còn sống, bản án hoặc quyết định ly hôn vẫn giữ nguyên
hiệu lực pháp luật, và quan hệ hôn nhân giữa hai người không được khôi phục. Trong bối cảnh
đó, nếu người vợ hoặc chồng cũ đã tái hôn với người khác thì việc quay trở lại quan hệ cũ là
điều không thể. Đây không chỉ là một sự thay đổi mang tính pháp lý đơn thuần mà còn là một
cú sốc nặng nề về tinh thần đối với người được tuyên bố mất tích.
3.2. Ly hôn đơn phương do người thân yêu cầu (khi một bên mất năng lực hành vi dân sự)
3.2.1. Ai là người có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng bị mất năng lực hành vi dân sự
Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:
Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn 1. ...
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ,
chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Như vậy để cha, mẹ, hoặc người thân thích khác có quyền đứng ra yêu cầu ly hôn thì cần thoả mãn 2 điều kiện:
Mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015:
Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức
hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Là nạn nhân của bạo lực gia đình nghiêm trọng. Người bi mất năng lực hành vi dân sự
đồng thời là nạn nhân của hành vi bao lực gia đình. Hành vi bạo lực này do chính người
vợ hoặc chồng của họ gây ra. Hâu quả của hành vi bạo lực ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khoẻ, tinh thần của người bị mất năng lực hành vi dân sự. Đây là yếu tố
quan trọng để Toà án chấp nhận yêu cầu ly hôn từ người thân để bảo vệ người yếu thế
3.2.2. Bản án về ly hôn với người mất năng lưc hành vi dân sự số 82/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018
BẢN ÁN 82/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 177/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2018
về tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2018/QĐXX-HNGĐ
ngày 25 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà H'D (Vắng mặt) Địa chỉ: Buôn K, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk Người đại
diện theo pháp luật của bà H'D: Chị H'N, sinh năm: 1994(có mặt) Địa chỉ: Buôn K, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
2. Bị đơn: Ông Y B (Có mặt) Địa chỉ: Buôn Đ, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 06 tháng 3 năm 2018 và quá trình giải quyết vụ án người đại diện
theo pháp luật của nguyên đơn bà H'D là chị H'N trình bày:
Bà H'D là người bị mất năng lực hành vi dân sự theo Quyết định tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự số: 02/2018/QĐST-DS ngày 18/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột.
Ông Y B và bà H'D tìm hiểu yêu thương nhau tự nguyện, sống chung từ năm 1994, có tổ chức lễ
cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã C, thành phố B vào ngày 13/10/1994.
Trong thời gian chung sống, đến năm 2004 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu
thuẫn là do bất đồng quan điểm, tâm thần bà H'D không ổn định và ông Y B có hành vi bạo lực
đối với bà H'D. Mâu thuẫn trầm trọng nên đến năm 2007 ông Y B và bà H'D sống ly thân, không
quan tâm chăm sóc đến nhau nữa. Nay với tư cách là người giám hộ đương nhiên của bà H'D,
chị H'N yêu cầu Tòa án cho bà H'D được ly hôn với ông Y B.
Trong thời gian sống chung, ông Y B và bà H'D có 6 con chung là: - H'N, sinh năm 1994 - Y M, sinh năm 1997 - Y E, sinh ngày 13/5/1999 - H'J, sinh ngày 25/8/2001 - H'Y, sinh ngày 13/8/2005 - H'Đ, sinh ngày 02/02/2007
Từ khi ông Y B và bà H'D ly thân đến nay thì các con chung ở với bà H'D, do bà H'D bị tâm thần
phân liệt, mất năng lực hành vi dân sự nên các con chung do H'N và dì ruột H'G trực tiếp chăm
sóc, nuôi dưỡng. Nay Tòa án giải quyết ly hôn thì nguyện vọng của H'N là H'N, Y M, Y E đã thành
niên nên việc ở với ai là quyền của các con chung. Các con chung H'J, H'Y, H'Đ, giao cho ông Y Bi
Niê trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do bà H'D bị mất năng lực hành vi dân sự nên bà H'D do
con cả là H'N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng cho bà H'D và các con chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án bị đơn ông Y B trình bày:
Việc ông Y B và bà H'D tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, thành phố B vào
ngày 13/10/1994 và có sáu con chung là đúng.
Sống chung hạnh phúc một thời gian thì đến 2004 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân
mâu thuẫn là do bà H'D hay ghen tuông, cãi vã, tâm thần không ổn định. Mâu thuẫn trầm trọng
nên đến năm 2007 vợ chồng ly thân, không quan tâm chăm sóc đến nhau nữa. Nay ông chấp nhận ly hôn với bà H'D.
Trong thời gian sống chung, ông và bà H'D có 6 con chung là: - H'N, sinh năm 1994 - Y M, sinh năm 1997 - Y E, sinh ngày 13/5/1999 - H'J, sinh ngày 25/8/2001 - H'Y, sinh ngày 13/8/2005 - H'Đ, sinh ngày 02/02/2007
Từ khi vợ chồng ly thân đến nay thì các con chung ở với bà H'D. Nay Tòa án giải quyết ly hôn thì
nguyện vọng của ông xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung H'J, sinh ngày
25/8/2001, H'Y, sinh ngày 13/8/2005, H'Đ, sinh ngày 02/02/2007 còn các con chung: H'N, sinh
năm 1994, Y M, sinh năm 1997, Y E, sinh năm 1999 đã trưởng thành nên việc ở với ai là quyền
của các cháu. Do bà H'D bị mất năng lực hành vi dân sự nên bà H'D do con cả là chị H'N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng cho bà H'D và các con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay đương sự có mặt vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý đến khi ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán đã tuân thủ đúng theo trình tự của BLTTDS, tại phiên tòa HĐXX
cũng như nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
-Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật. Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của chị H’N.
Về quan hệ hôn nhân: Bà H'D được ly hôn ông Y B;
Về con chung: H'N, sinh năm 1994, Y M, sinh năm 1997, Y E, sinh ngày 13/5/1999 đã thành niên,
nên việc ở với ai là quyền của các cháu.
Giao các con chung: H'J, sinh ngày 25/8/2001, H'Y, sinh ngày 13/8/2005, H'Đ, sinh ngày
02/02/2007 cho ông Y B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.
Bà H'D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.
Do bà H'D bị mất năng lực hành vi dân sự nên bà H'D do con cả là chị H'N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi bà H'D: Không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết;
Về chia tài sản: Không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn
ông Y B cư trú tại xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều
35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn bà H'D đã bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự theo Quyết định số 02/2018/QĐST-DS ngày 18/01/2018. Theo quy định tại Điều
22, Điều 53, Điều 136 của Bộ luật dân sự thì người giám hộ đương nhiên của bà H'D là chị H'N,
do đó chị H'N tham gia tố tụng với tư cách là đại diện theo pháp luật của bà H'D.
[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn bà H'D là
chị H'N yêu cầu cho bà H'Dđược ly hôn ông Y B, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà H'D và ông Y B tự
nguyện lấy nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ngày 13/10/1994
là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ .
Quá trình Tòa án giải quyết vụ án cả người giám hộ của nguyên đơn, bị đơn đều thừa nhận
trong thời gian sống chung ông Y B và bà H'D có xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau, bà H'D bị bệnh
tâm thần và ông Y B đã có hành vi đánh đập đối với bà H'D, từ năm 2007 vợ chồng đã sống ly
thân nhưng mâu thuẫn vẫn không khắc phục được, nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu
thuẫn đã rất trầm trọng nên người giám hộ của bà H'D là chị H'N yêu cầu cho bà H'D được ly
hôn ông Y B, ông Y B cũng đồng ý ly hôn với bà H'D.
Kết quả xác minh tại địa phương xác định: Ông Y B và bà H'D có đăng ký kết hôn và sinh sống với
nhau tại Buôn K, xã C, thành phố B, trong thời gian chung sống vợ chồng Y B và bà H'D có xảy ra
mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, thường xuyên xảy ra cãi vã, tinh
thần của bà H'D không ổn định, hay cáu gắt chồng con nên có việc ông Y B đánh đập bà H'D,
mặc dù đã được chính quyền địa phương động viên hòa giải nhưng không giải quyết được mâu
thuẫn. Năm 2007, ông Y B bỏ đi sống ở nơi khác cho đến nay, vợ chồng không quan tâm chăm
sóc đến nhau nữa. Bà H'D bị mắc bệnh tâm thần và được gia đình đưa đi điều trị.
Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình duy trì hôn nhân ông Y B và bà H’D thường xuyên xảy ra
mâu thuẫn, và có bạo lực gia đình chính quyền địa phương hòa giải, can thiệp nhưng vẫn không
khắc phục được, từ năm 2007 vợ chồng sống ly thân đến nay, không ai quan tâm, chăm sóc ai,
mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn người giám hộ của bà
H'D là phù hợp theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Người giám hộ đương nhiên của bà H'D là chị H'N tự nguyện trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc bà
H'D và không yêu cầu ông Y B cấp dưỡng nuôi bà H'D.
-Về con chung: ông Y B và bà H'D có 06 con chung là H'N, sinh năm 1994; Y M, sinh năm 1997; Y
E, sinh ngày 13/5/1999; H'J, sinh ngày 25/8/2001; H'Y, sinh ngày 13/8/2005; H'Đ, sinh ngày 02/02/2007.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án chị H'N và ông Y B thống nhất giao các con chung H'J;
H'Y; H'Đ cho ông Y B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng còn H'N, Y M, Y E đã thành niên nên không
yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy, việc thỏa thuận của ông Y B và chị
H'N là phù hợp với nguyện vọng của các con chung, hơn nữa bà H’D bị mất năng lực hành vi dân
sự nên để đảm bảo quyền lợi của các con chung cần giao các con chung chưa thành niên là H'J,
H'Y, H'Đ cho ông Y B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là có căn cứ phù hợp theo quy định tại
khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. H'N, Y M, Y E đã thành niên nên Tòa án không xem xét
giải quyết. Bà H'D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp
với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
Việc cấp dưỡng nuôi con chung các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết .
[3] Về án phí: Chị H'N và bà H’D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều
147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên, QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227;
khoản 4 Điều 147; Điều 220; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 22, Điều 53, Điều 136 Bộ luật dân sự;
- Căn cứ các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H'N.
Về quan hệ hôn nhân: Bà H'D được ly hôn với ông Y B.
Về nuôi con chung: Giao các con chung là H'J, sinh ngày 25/8/2001; H'Y, sinh ngày 13/8/2005;
H'Đ, sinh ngày 02/02/2007 cho ông Y B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi).
Các con chung: H'N, sinh năm 1994; Y M, sinh năm 1997; Y E, sinh năm 1999 đã trưởng thành
nên việc ở với ai là quyền của các cháu, Tòa án không xem xét giải quyết.
Bà H'D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về việc nuôi dưỡng bà H'D: Chị H'N tự nguyện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng bà H'D.
Về cấp dưỡng nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi bà H'D: Các đương sự tự thỏa thuận, không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị H'N và bà H D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm,
bà H D được nhận lại 300.000đ tạm ứng án phí chị H'N đã nộp thay cho bà H'D theo biên lai thu
số AA/2017/0003334 ngày 13/3/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, Đắk Lắk.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự
vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn
kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .
3.2.3. Khó khăn trong giải quyết ly hôn đơn phương do người thân yêu cầu
Khó khăn trong việc chứng minh hành vi “bạo lực gia đình nghiêm trọng”. Trước hết, bản
chất của bạo lực gia đình trong các trường hợp này thường diễn ra âm thầm và khó bị
phát hiện. Người bị hại do mất năng lực hành vi dân sự nên không thể nhận thức đầy
đủ, tự bảo vệ mình, hoặc trình bày sự việc trước cơ quan chức năng. Họ không thể tố
giác, không thể khai báo và thường không để lại chứng cứ trực tiếp về hành vi bạo lực
mà mình phải chịu đựng. Thêm vào đó, hành vi bạo lực thường không có nhân chứng
nếu có thì là những người trong gia đình vốn dễ bị chi phối bởi tình cảm hoặc lệ thuộc vào người bạo hành
Thiếu rõ ràng trong viêc xác định: "người thân thích khác" Luật Hôn nhân và Gia đình chỉ
quy định người có quyền yêu cầu ly hôn thay cho người bị mất năng lực hành vi dân sự
là “cha, mẹ, người thân thích khác”, nhưng lại không định nghĩa rõ thế nào là “người
thân thích khác” dẫn đến nhiều tranh cãi và cách hiểu không thống nhất trong thực tiễn
xét xử dẫn đến thiếu nhất quán giữa các Tòa án địa phương, và dễ bị hiểu sai trong quá
trình áp dụng pháp luật
3.3. Ly hôn đơn phương khi một bên ở nước ngoài
3.3.1. Thủ tuc ly hôn đơn phương khi một bên ở nước ngoài
Bước 1: Tiến hành Nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án
Người khởi kiện nộp hồ sơ xin ly hôn đơn phương có yếu tố nước ngoài tại Tòa án nhân dân cấp
tỉnh/thành phố có thẩm quyền. Hồ sơ bao gồm:
Giấy chứng nhận kết hôn bản gốc.
Giấy tờ tùy thân (bản sao có chứng thực căn cước hoặc hộ chiếu của cả hai vợ chồng).
Bản sao có công chứng còn hiệu lực giấy khai sinh của các con (nếu có).
Đơn xin ly hôn theo mẫu (có thể tải tại đây).
Giấy tờ chứng minh tài sản như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở… Lưu ý:
Nếu hai vợ chồng kết hôn tại Việt Nam, nhưng một người xuất ngoại và không có địa chỉ
cư trú cụ thể, cần bổ sung Giấy chứng nhận của chính quyền địa phương về việc xuất ngoại vào hồ sơ.
Nếu kết hôn ở nước ngoài, phải làm thủ tục ghi chú kết hôn tại UBND cấp huyện theo
quy định tại Điều 34 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP. Nếu không ghi chú, cần nêu lý do trong đơn.
Bước 2: Tòa án xử lý đơn
Sau khi nộp đơn, Tòa án sẽ xác nhận bằng hình thức trực tiếp, qua bưu điện hoặc qua Cổng
thông tin điện tử. Trong vòng 3 ngày làm việc, Chánh án hoặc Phó chánh án sẽ phân công một
thẩm phán xem xét hồ sơ. Sau 5 ngày làm việc, thẩm phán sẽ quyết định:
Yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ nếu hồ sơ chưa đạt đủ yêu cầu theo quy định.
Tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo hình thức rút gọn.
Nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án, thẩm phán sẽ chuyển đơn và thông báo cho
người khởi kiện. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, thẩm phán sẽ thông báo bằng văn bản nêu rõ vấn đề
cần bổ sung và thời hạn (không quá 1 tháng), có thể gia hạn thêm 15 ngày trong trường hợp đặc biệt.
Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm
Người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận thông báo.
Sau khi nộp, nguyên đơn sẽ nhận biên lai và cần nộp lại cho Tòa án để thụ lý vụ án.
Tòa án sẽ thông báo cho nguyên đơn và bị đơn trong vòng 3 ngày làm việc sau khi thụ lý vụ án.
Bước 4: Tòa triệu tập các bên để tiến hành thủ tục
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án sẽ triệu tập các bên chuẩn bị xét xử. Thời gian chuẩn bị xét xử cho
vụ án ly hôn là 4 tháng, có thể gia hạn thêm tối đa 2 tháng nếu có lý do chính đáng.
Những công việc trong bước giải quyết này bao gồm: Hoàn thiện hồ sơ.
Xác định tư cách hợp pháp của đương sự và người tham gia tố tụng.
Làm rõ các tình tiết khách quan, xác định quan hệ tranh chấp.
Thông báo văn bản tố tụng và thu thập chứng cứ.
Tổ chức phiên họp hòa giải.
Lưu ý: Nếu đương sự ở nước ngoài, Tòa án sẽ ủy thác cho các cơ quan nước ngoài thực hiện việc tống đạt.
Bước 5: Xét xử tại Tòa án
Tòa án sẽ mở phiên tòa trong vòng 1 tháng kể từ khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, có thể kéo
dài thành 2 tháng trong những trường hợp bắt buộc. Lưu ý:
Khi Tòa triệu tập lần đầu, người tham gia phải có mặt. Nếu vắng mặt không có lý do, Tòa
sẽ hoãn phiên tòa trừ khi có đơn xin xét xử vắng mặt.
Nếu vắng mặt lần 2 mà không có lý do, Tòa sẽ xử vắng mặt nguyên đơn, và đơn sẽ bị
đình chỉ trừ khi có đơn xin xét xử vắng mặt.
Sau phiên tòa, Tòa sẽ cấp trích lục bản án trong 3 ngày làm việc. Bản án sẽ bao gồm:
Chấm dứt quan hệ hôn nhân. Chia tài sản chung.
Quy định về nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng.
3.3.2. Bản án về việc ly hôn với người nước ngoài số 930/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 930/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2020 VỀ LY HÔN