Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội | Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và các nước Đông Âu năm 1989 đã đem đến cho hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới những khủng hoảng nặng nề. Vốn là một thành trì của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đã đạt được những thành tựu rực rỡ, trở thành hình mẫu phát triển của nhiều quốc gia đang trên đà đi lên chủ nghĩa xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Học phần: CN01002.9
Đ Ề TÀI : LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Giảng viên hướng dẫn : TS. Khuất Thị Thanh Vân
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thu Giang
Lớp : Truyền thông quốc tế K41
Hà Nội, ngày 25 tháng 12
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu vấn đề:
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và các nước Đông Âu năm 1989 đã
đem đến cho hệ thống hội chủ nghĩa trên thế giới những khủng hoảng nặng nề.
Vốn một thành trì của hệ thống hội chủ nghĩa, đã đạt được những thành tựu
rực rỡ, trở thành hình mẫu phát triển của nhiều quốc gia đang trên đà đi lên chủ
nghĩa hội, nên sự thất bại của Liên như một giáng lớn vào hệ thống
hội chủ nghĩa, đồng thời trở thành hội để những kẻ chống phá hội “thừa
nước đục thả câu”. Tính tất yếu, đúng đắn của chủ nghĩa hội được đem ra bàn
luận, tranh cãi, các phần tử cực đoan thể hiện thái độ thù địch và chống đối, xuyên
tạc, phủ nhận sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa hội không chỉ
hứng chịu sự báng bổ, chế nhạo của thế lực chống cộng, còn phải giải quyết
vấn đề tưởng nội bộ, khi những người đứng trong hàng ngũ cách mạng cũng
không ngừng hoài nghi, thậm chí hối hận về con đường độc lập dân tộc bằng cách
đi theo chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng dao động này rất nguy hiểm, có thể trở thành kẽ
hở của hệ thống tư tưởng, khiến kẻ thù lợi dụng để truyềnnhững quan điểm sai
lệch, dẫn đến những mâu thuẫn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình đó, chủ nghĩa bản lập tức chớp lấy thời cơ, sử dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật tạo những bước tiến mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế, quân
sự, chính trị - hội... Những thành tựu, bước tiến ấy lớp vỏ hào nhoáng hoàn
hảo, che đậy kín kẽ bản chất bóc lột bên trong. Mặc dù trong bối cảnh phát triển đi
lên của thế giới, sự đối trọng của chủ nghĩa bản chủ nghĩa hội đã không
còn, nhưng để đạt được điều đó, các nước bản đã sự điều chỉnh phù hợp về
chính sách, xoa dịu những cuộc cách mạng giai cấp để tránh bị diệt vong. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa sự bóc lột bản chất của hình thái kinh tế - xã hội này
đã biến mất, thay vào đó, sự bóc lột này còn được che đậy tinh vi hơn, bằng
cách “trung lưu hóa” giai cấp công nhân, khiến họ không còn thiết tha đấu tranh;
sản sinh ra cổ phần, chính sách bảo hiểm hội; phân hóa công nhân thành nhiều
loại: “công nhân cổ cồn trắng”, “công nhân cổ cồn xanh”,… Đặc biệt, những học
giả sản cho rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa hội không còn đúng trong
thời đại mới ngày nay, khi những nỗ lực hòa giải giữa các giai cấp đã đạt được
những thành công về hình thức.
Tuy nhiên, tính ưu việt tất yếu của chủ nghĩa hội vẫn không hề thay đổi.
Bởi trải qua khoảng thời gian 170 năm kể từ khi được ra đời, nó vẫn luôn giữ vững
bản chất đúng đắn về một xã hội nơi chế độ người bóc lột người không còn tồn tại,
con người thực sự được làm chủ bản thân, làm chủ hội không phải điều
không thể xảy ra. Tất cả những yếu tố nêu trên đem đến cho hệ thống hội chủ
nghĩa một thử thách lớn, đòi hỏi niềm tin sự kiên định vào chủ nghĩa Mác
Lênin. Việt Nam đã bỏ qua chủ nghĩa bản, tiến thẳng tới xây dựng hội trong
thời kỳ quá độ và trong quá trình đó, chúng ta luôn trung thành với những tư tưởng
của chủ nghĩa Mác Lênin; không ngừng sáng tạo, đổi mới phù hợp với thực tiễn
đất nước. Con đường quá độ lên chủ nghĩa hội chưa bao giờ dễ dàng, cũng như
lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết 50 năm trước, đó một “cuộc chiến đấu
khổng lồ” để “chống lại những đã kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi”.
Để khẳng định những giá trị vĩ đại của lý luận Mác – Lênin, em lựa chọn đề tài
này với mong muốn được tìm hiểu chuyên sâu về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội; đồng thời tìm ra một số quan điểm không còn phù hợp với thực tiễn đi lên chủ
nghĩa xã hội hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Nắm đượcbản chủ nghĩa Mác Lênin về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
hội, trong đó, đi vào tìm hiểu về quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về chủ
nghĩa hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội những điểm hạn chế về tính
đương thời của chủ nghĩa Mác – Lênin khi nói về quá trình quá độ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu về chủ nghĩa Mác Lênin, nắm được hệ thống luận về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hộidiễn giải hệ thống lý luận ấy dựa trên hiểu biết nhân
và nghiên cứu tài liệu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các nước đi theo chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Về mặt nhận thức, sau khi giải quyết được các vấn đề trong mục 2, em mong
muốn hiểu được tầm quan trọng của con đường đi lên quá độ chủ nghĩa xã hội trên
thế giới. Đồng thời trang bị cho mình những kiến thức hữu ích về tưởng để đạt
mục tiêu trở thành “con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Về mặt hành động, những hiểu biết trong quá trình nghiên cứu, hệ thống thông
tin yếu tố tiên quyết để em liên tục trau dồi luận để thể áp dụng vào thực
tiễn đời sống, đóng góp vào quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Định nghĩa:
Chủ nghĩa xã hội (tiếng Anh: Socialism) được hiểu theo bốn nghĩa:
Một là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống
lại áp bức, bất công, chống các giai cấp thống trị;
Hai là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động
khỏi áp bức, bóc lột, bất công;
Ba là một khoa học - chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân;
Bốn là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong tiểu luận này, chủ nghĩa xã hội được xem xét dưới tư
cách là một chế độ xã hội.
1.2. Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa:
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, quá trình vận động, phát triển của xã hội loài
người tuân theo một quy luật, và quy luật này được quy định bởi yếu tố vật chất.
C.Mác từng viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên”, và theo ông, có năm hình thái kinh tế - xã hội, lần lượt
là cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Những hình thái kinh tế - xã hội chuyển giao kế tiếp nhau bằng con
đường cách mạng xã hội, và nguyên nhân của cuộc cách mạng ấy là mâu thuẫn
không thể dung hòa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. C.Mác và
Ph.Ăngghen đưa ra dự đoán về một hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở bậc cao
nhất, nơi không còn đối kháng giai cấp, chế độ người bóc lột người, thiểu số phục
tùng đa số mang tên cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế giữa hình thái tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là tất yếu, được quyết định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa xã hội là một
giai đoạn, một trình độ phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nói vậy có nghĩa, khi nói chủ nghĩa xã hội là cộng sản chủ nghĩa, cần hiểu rằng
chủ nghĩa xã hội không phải cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn mà chỉ là “giai đoạn
đầu”, “giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa” (C.Mác). Giai đoạn thấp này
bao gồm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao
hơn là cộng sản chủ nghĩa.
Trong giai đoạn đầu đó, thời kỳ quá độ còn mang nhiều “dấu vết của xã hội cũ
mà nó đã lọt lòng ra”, chưa thể trưởng thành về các phương diện xã hội, đặc biệt là
về kinh tế. Tuy nhiên, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tồn tại
của những tàn tích mà chủ nghĩa tư bản để lại trên mọi mặt đời sống như kinh tế,
chính trị,… là điều không thể tránh khỏi đối với một xã hội vừa “thoái thai” từ
trong lòng hình thái kinh tế - xã hội đi trước ra.
Bên cạnh đó, vì là hình thức đầu tiên của một xã hội mới, chủ nghĩa xã hội dĩ
nhiên sẽ có sự chênh lệch về trình độ phát triển so với cộng sản chủ nghĩa. Sự
chênh lệch này chịu ảnh hưởng bởi nguồn gốc của hai chủ nghĩa nói trên: nếu như
chủ nghĩa xã hội được sinh ra bởi chủ nghĩa tư bản, thì cộng sản chủ nghĩa là hình
thức xã hội cao nhất, chỉ có thể tồn tại sau khi chủ nghĩa xã hội hoàn thiện.
Sau này, V.I.Lênin đã tiếp thu và phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen
cũng như ứng dụng thực tiễn nước Nga, cho rằng đối với những nước chưa có chủ
nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội”. Do đó, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản có hai cách hiểu: đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát
triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, mà theo V.I.Lênin, đó là những “cơn đau đẻ kéo dài”; và đối với các nước
đã trải qua chủ nghĩa tư bản, giữa chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản có một
thời kỳ cải biên, quá độ từ xã hội này sang xã hội kia.
1.3. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội:
1.3.1. Điều kiện kinh tế:
Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại. Khi đánh giá về
chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đứng trên nguyên tắc khách quan,
nguyên tắc toàn diện để khẳng định chủ nghĩa tư bản là một bước tiến rất dài so
với chế độ phong kiến: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy
một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Nền đại công nghiệp của tư bản
chủ nghĩa được áp dụng khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghiệp cơ khí đã đạt
được nhiều thành công vang dội, tạo ra năng suất lao động cao, lực lượng sản xuất
hiện đại, được C.Mác ví như “những trọng pháo bắn vào chế độ phong kiến đang
suy tàn”.
Trong quá trình phát triển của nó, chủ nghĩa tư bản hình thành chế độ người bóc
lột người, cụ thể là giai cấp tư sản áp bức lực lượng sản xuất mà chủ yếu là giai cấp
công nhân. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao và quan
hệ sản xuất mang tính chiếm hữu tư nhân ngày càng trầm trọng, do sự đề cao chế
độ tư hữu không còn phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Vì lẽ đó, chủ nghĩa tư
bản trở thành gông cùm kìm kẹp sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.3.2. Điều kiện chính trị - xã hội:
Mâu thuẫn về kinh tế được phản ánh qua sự đối kháng về giai cấp, giữa giai cấp
tư sản lỗi thời và giai cấp công nhân hiện đại, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên
tiến. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, tư bản chủ nghĩa không chỉ tạo vũ khí để
giết mình mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí đó: những công nhân hiện
đại, những người vô sản. Mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt, dẫn tới một số điều
chỉnh có lợi hơn người lao động, nhưng những điều chỉnh này không vượt qua
được trật tự của chủ nghĩa tư bản. Cùng với sự phát triển về chất và lượng của giai
cấp công nhân, Đảng Cộng sản ra đời, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc, thực sự
của con đẻ nền đại công nghiệp; trực tiếp tham gia lãnh đạo, tiên phong trong cuộc
đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao của những cuộc đấu tranh giai cấp đó chính là cách
mạng vô sản. Và khi cách mạng vô sản giành thắng lợi, chủ nghĩa tư bản sẽ được
thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn: cộng sản chủ
nghĩa.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng của nhân dân lao động, chủ yếu là giai cấp
công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cuộc cách mạng có thể được
thực hiện bằng bạo lực cách mạng hoặc con đường hòa bình. Tuy nhiên, thực tế
đấu tranh cho thấy con đường hòa bình khả thi về mặt lý thuyết, nhưng thực tế
chưa từng xảy ra. Khi đi theo con đường bạo lực cách mạng, giai cấp vô sản tiến
hành lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, cải tổ
xã hội cũ để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà bước đầu là xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân mang trong mình sứ mệnh lịch sử của cả xã
hội, với mục tiêu xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng lực lượng sản
xuất, xây dựng hệ giá trị lao động, công bằng, dân chủ, tự do. Chính vì vậy, cuộc
cách mạng vô sản mang tính sâu sắc và triệt để cao, chỉ có thể thành công khi tích
cực chính trị của giai cấp công nhân và tầng lớp người lao động được khơi dậy.
1.4. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội:
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Định nghĩa:
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôtha”, C.Mác đã nêu lên định nghĩa
kinh điển của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản”. Tiếp nhận và phát triển tư tưởng ấy của C.Mác, V.I.Lênin cũng
khái quát: “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu
tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh,
hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu
diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu.”
Như vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra những
tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
2.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
2.2.1. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản khác nhau về chất, thời kỳ quá độ là
bước chuyển mình cần thiết giữa hai hình thái kinh tế - xã hội:
Tuy chủ nghĩa xã hội chỉ là một nấc thang của hình thái kinh tế - xã hội mới,
nhưng nó hoàn toàn không đối lập một cách “chung chung” với chủ nghĩa tư bản
mà hoàn toàn vượt xa về mọi mặt. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đạt được nhờ sự áp bức, bóc lột
bất công. Bên cạnh đó, nhà nước trong tư bản chủ nghĩa là nhà nước của giai cấp
tư sản, quyền lực của thiểu số trấn áp đại đa số. Chính vì thế, đối kháng giai cấp
càng trở nên trầm trọng, chỉ có thể giải quyết bằng con đường bạo lực cách mạng
vô sản. Sự phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư
bản được phản ánh ở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội đó, không
còn tình trạng áp bức bóc lột, không còn đối kháng giai cấp, mục tiêu phát triển là
vì con người. Nhà nước của chủ nghĩa xã hội tập trung quyền lực của đại đa số
nhân dân, trấn áp thiểu số.
Các nhà Mác xít khẳng định rằng năng suất lao động là yếu tố then chốt, chủ yếu
nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Để có được vị trí như ngày nay, chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra năng suất lao động chưa từng thấy so với chế độ phong kiến.
Do đó, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn có thể bị đánh bại bởi chủ nghĩa xã hội – chế độ
xã hội nơi năng suất lao động mới cao hơn nhiều. Tuy nhiên, sản phẩm của năng
suất lao động ấy sẽ mang tính công hữu, phục vụ cho nhu cầu của đại đa số xã hội.
2.2.2. Chủ nghĩa tư bản tạo tiền đề cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
thời kỳ quá độ có nhiệm vụ sắp xếp lại tiền đề đó:
Những thành tựu khoa học – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là cơ sở vật chất để
chủ nghĩa xã hội phát triển tối ưu, tuy nhiên, để cơ sở vật chất đó phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải có thời gian tổ chức, thiết lập lại. Năng
suất lao động của chủ nghĩa tư bản vốn dành để phục vụ cho giai cấp tư sản, cho
thiểu số, và để biến năng suất lao động ấy thành tư liệu của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động là cả một quá trình dài. Điều này chứng minh sự tất yếu của thời
kỳ quá độ, bên cạnh đó cũng cho thấy rằng đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp vì
phải trải qua nhiều bước trung gian và thực nghiệm.
Các nhà kinh điển theo chủ nghĩa Mác – Lênin, từ thực tiễn của thời kỳ quá độ,
đã phân biệt hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản như sau:
Một là, quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay, hình thức quá độ
này vẫn chưa từng diễn ra trên thế giới.
Hai là, quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với
những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Tiêu biểu của hình thức quá
độ này cần kể đến Trung Quốc, Việt Nam,…; thậm chí là Liên Xô và các nước
Đông Âu. Vì bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, họ sẽ mất
một thời gian dài cáng đáng nhiệm vụ vốn thuộc về chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư
sản: công nghiệp hóa đất nước; đồng thời có những sáng tạo, cải tạo, điều chỉnh
phù hợp với định hướng phát triển của mình.
2.2.3. Thời kỳ quá độ cải tạo, thủ tiêu quan hệ xã hội của chủ nghĩa tư bản và xây
dựng các quan hệ xã hội (đặc biệt là quan hệ sản xuất) mới chủ nghĩa xã hội:
Sự khác nhau về chất giữa 2 chế độ xã hội khiến những quan hệ xã hội của chủ
nghĩa xã hội không thể tự phát trong lòng chủ nghĩa tư bản: quan hệ sản xuất của
chủ nghĩa tư bản là quan hệ sở hữu, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân, nơi thiểu
số không đóng góp sức lao động nhưng vẫn được hưởng một phần thành quả của
giai cấp vô sản; trái lại, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội là quan hệ công hữu,
mang tính xã hội hóa cao, tư liệu sản xuất được phân phối bình đẳng, mức hưởng
dựa trên sức lao động của mỗi cá nhân. Thời kỳ quá độ có nhiệm vụ xây dựng quan
hệ sản xuất mới dựa trên chủ nghĩa xã hội, song, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn nhắc
nhở, những công việc này phải được tiến hành dần dần, từng bước; phải biết sử
dụng những hình thức, giai đoạn trung gian thích hợp.
Chế độ sở hữu của thời kỳ quá độ là sự quá độ từ chế độ tư hữu sang chế độ
công hữu. Giai cấp vô sản khi có được quyền lực chính trị sẽ tiến hành quốc hữu
hóa tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, khiến tài sản công hữu ngày càng nhiều
hơn. Đến khi chế độ công hữu hoàn toàn hình thành, chế độ tư hữu bị diệt vong,
thời kỳ quá độ sẽ kết thúc. Tương tự, sự phân phối trong thời kỳ quá độ sẽ không
hoàn toàn theo lao động, bởi tình trạng bóc lột giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô
sản vẫn còn tồn tại, nhưng đã ít hơn so với tư bản chủ nghĩa. Chấm dứt thời kỳ quá
độ sẽ chấm dứt chế độ bóc lột, bên cạnh đó, lao động sẽ được phân phối hoàn toàn.
Lí do là bởi khi đó, mọi người đều bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất, ai làm
nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít.
2.2.4. Giai cấp công nhân cần thời kỳ quá độ để làm quen với công cuộc xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa:
Sau khi cuộc cách mạng vô sản giành thắng lợi, chính quyền thuộc về giai cấp
công nhân. Giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu, để củng cố vị thế của
mình, giai cấp công nhân cần sử dụng chính quyền, sử dụng nhà nước đó để tổ
chức, quản lý, xây dựng xã hội mới trên các phương diện kinh tế, văn hóa – tư
tưởng, chính trị - xã hội. Những nhiệm vụ này, đối với giai cấp công nhân, đều mới
mẻ và khó khăn, phức tạp, cần trải qua nhiều giai đoạn trung gian, do đó, không
tránh khỏi những sai sót. Thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, bởi giai cấp
công nhân cần từng bước làm quen với việc điều hành nền chuyên chính vô sản.
2.3. Thực chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ:
2.3.1. Thực chất của thời kỳ quá độ:
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng
từ xã hô Ži tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hô Ži xã hội chủ nghĩa.
Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương
diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang
tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ
nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
2.3.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ
Về kinh tế, thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả những
thành phần kinh tế đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Năm 1921, sau khi đưa ra
chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin cho rằng sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ là tất yếu, hợp quy luật, chúng được phép tồn tại trong 1 thời gian
cần thiết, nhất là việc khuyến khích phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như vậy,
nền kinh tế của thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần, mà theo V.I.Lênin là kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Về chính trị, thời kỳ quá độ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Đây là sự thống
trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với
nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử
thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô
sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với giai cấp tư sản đã thất bại
nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới -
giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới - xây dựng
toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức
mới - cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.
Về tư tưởng – văn hóa, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư
sản. Yếu tố tư tưởng – văn hóa mới và cũ thường xuyên đấu tranh với nhau, đòi hỏi
Đảng Cộng sản từng bước xác lập, xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa. Hơn nữa, theo V.I.Lênin, đặc điểm tâm lý, tư tưởng – văn hóa của thời kỳ
quá độ còn là tâm lý luyến tiếc chính quyền và luôn nuôi hi vọng phục hồi “thiên
đường đã mất” của các giai cấp bóc lột; là tâm lý, tập quán tản mạn, vô chính phủ,
thích tự do buôn bán, hay hoang mang, dao động của đông đảo quần chúng tiểu tư
sản. Ngoài ra, thời kỳ ấy còn phải đối mặt với lối sống thiếu văn hóa, không tôn
trọng pháp luật, tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, lười
biếng, ăn không ngồi rồi,…
Về xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp
khác nhau, những giai cấp ấy vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau. Ngoài ra, trong
xã hội của thời kỳ quá độ, tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay. Do đó, thực chất về mặt xã hội của thời kỳ quá độ
là cuộc đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn và tàn dư của xã
hội tư bản chủ nghĩa để lại; bên cạnh đó, thiết lập công bằng xã hội, tuân thủ
nguyên tắc phân phối theo lao động.
2.4. Nội dung, nhiệm vụ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
2.4.1. Lĩnh vực kinh tế:
Về cơ bản, trên lĩnh vực kinh tế, thời kỳ quá độ cần sắp xếp lại lực lượng sản
xuất của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản
xuất mới xã hội chủ nghĩa. Những công tác này cần tuân theo tính tất yếu khách
quan của các quy luật kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, không thể
theo ý muốn chủ quan, nóng vội.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa,
tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật, phục vụ cho quá trình quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành theo
những hình thức, nội dung khác nhau, phụ thuộc vào tình hình thực tế và điều kiện
lịch sử khác nhau của các nước khác nhau.
2.4.2. Lĩnh vực chính trị:
Ph.Ăngghen từng khái quát nội dung cơ bản trên lĩnh vực chính trị của thời kỳ
quá độ như sau: “Muốn không để mất một lần nữa quyền thống trị mà chính mình
vừa mới giành được, giai cấp công nhân đó, một mặt phải gạt bỏ toàn bộ bộ máy
áp bức cũ từ trước đến nay vẫn được dùng để chống lại mình, nhưng mặt khác lại
phải đề phòng những đại biểu và viên chức của chính mình bằng cách tuyên bố tất
cả những người này, không trừ một ai, đều có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào”.
Như vậy, thời kỳ quá độ không chỉ có nhiệm vụ chống lại những thế lực thù
địch, phản động, chống phá; mà còn phải củng cố chính quyền của giai cấp vô sản,
xây dựng xã hội mới, xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh và đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
2.4.3. Lĩnh vực tư tưởng – văn hóa:
Về tư tưởng – văn hóa, thời kỳ quá độ cần tiếp thu, tuyên truyền những tư tưởng
khoa học, thực tiễn cách mạng giai cấp của giai cấp công nhân thế giới; trấn áp
những tư tưởng chống phá tiêu cực, gây ảnh hưởng tới tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, các nước cần xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ
nghĩa, phát huy bản sắc riêng trong quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa chung.
2.4.4. Lĩnh vực xã hội:
Trong lĩnh vực xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải bài trừ, loại bỏ
những tệ nạn xã hội do chủ nghĩa tư bản để lại; thúc đẩy những quan hệ xã hội tốt
đẹp dựa trên lý tưởng tự do của người này là tiền đề cho sự tự do của người khác.
Bên cạnh đó, cần khắc phục sự chênh lệch của các tầng lớp trong giai cấp vô sản
và sự thiếu cân đối trong phát triển giữa các vùng miền; giai cấp công nhân cũng
cần liên minh với giai cấp tiểu nông, cải tạo, giúp đỡ họ chuyển từ lối sản xuất cá
nhân sang sản xuất tập thể.
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ KHẢ
NĂNG RÚT NGẮN HOẶC BỎ QUA CHỦ NGHĨA BẢN ĐỂ ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
3.1. Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua hoặc rút ngắn chủ
nghĩa tư bản:
Ở các nước tư bản phát triển, khi quan hệ sản xuất theo chế độ tư hữu và lực
lượng sản xuất theo chế độ công hữu có sự mâu thuẫn nặng nề không thể dung hòa,
ắt sẽ xảy ra cách mạng vô sản bởi quan hệ sản xuất lạc hậu, bóc lột kìm hãm, trói
buộc khả năng phát triển và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hơn nữa,
những nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa cũng đã có sẵn cơ sở vật chất, được củng
cố bởi nền đại công nghiệp, trở thành cơ sở hạ tầng để xây dựng kiến trúc thượng
tầng tương ứng: chủ nghĩa xã hội. Do đó, các nước tư bản chủ nghĩa hoàn toàn có
khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại, sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội ở các
nước diễn ra không giống nhau; bên cạnh những nước có trình độ phát triển cao là
những nước phát triển thấp, thậm chí lạc hậu. Vậy những nước kém phát triển đó
có nhất thiết phải trải qua mọi giai đoạn mà các nước tiên tiến đã đi qua mới có thể
đi lên chủ nghĩa xã hội không? Thay vì phải trải qua chế độ chủ nghĩa tư bản, liệu
họ có thể “rút ngắn”, hay bỏ qua nó không?
Ph.Ăngghen sau này đã bổ sung thêm, rằng cách mạng vô sản không chỉ xuất
hiện ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển - nơi chuẩn bị những tiền đề vật
chất chín muồi cho sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản - mà còn có thể nổ ra ở những
quốc gia lạc hậu, chậm phát triển. Ph.Ăngghen và C.Mác nhận định đó là con
đường “phát triển rút ngắn”, mà sau này V.I.Lênin nêu thành khả năng “không qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các
nước, các dân tộc chậm phát triển.
3.2. Điều kiện để khả năng quá độ “phát triển rút ngắn” xảy ra:
3.2.1. Điều kiện để khả năng quá độ “phát triển rút ngắn” xảy ra:
Điều kiện bên trong: Có Đảng Cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử
dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết
để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã
giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực
tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp,
thông qua Chính sách kinh tế mới.
3.2.2. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin:
Một là, trong nông nghiệp, thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chính
sách thuế lương thực. Chính sách thuế lương thực tạo ra một cơ chế thoáng trong
nông nghiệp, giúp cải thiện nền kinh tế nông dân; từ đó, người nông dân sẽ làm
việc yên tâm, hăng hái hơn do được quyền tự do sử dụng phần lương thực thừa sau
khi nộp thuế.
Hai là, tự do trao đổi hàng hóa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tự do trao đổi hàng hóa thì không thể phát triển
kinh tế, không thể có sự giao lưu đầy đủ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa
thành thị và nông thôn, không thể phát triển được nền kinh tế đại công nghiệp.
Không chỉ vậy, nhà nước còn phải đảm bảo “công nghiệp thỏa mãn nông dân, còn
nông dân thì nhờ có thương nghiệp mà thỏa mãn được nhu cầu của mình”. Chính
sách thuế lương thực và chính sách tự do trao đổi hàng hóa cho thấy sự quan tâm
đến lợi ích của người nông dân, sự kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội; sự
thay đổi địa vị của người nông dân trong xã hội; đặc biệt là sự nhận thức mới của
V.I.Lênin về vai trò của sản xuất hàng hóa.
Ba là, phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, hướng nền kinh tế quốc dân theo
con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Người lao động, nhờ chủ nghĩa tư bản nhà
nước, có thể tận dụng được sức mạnh thời đại; tranh thủ vốn liếng, kỹ thuật của các
nước phương Tây. Ngoài ra, đây còn là phương pháp cải tạo hòa bình giai cấp tư
sản, phát triển đội ngũ giai cấp công nhân. Do đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước, theo
V.I.Lênin vừa là phương tiện, vừa là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các
nước lạc hậu.
Chứng minh cho sự khoa học, đúng đắn của Chính sách kinh tế mới của
V.I.Lênin là dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã, đang và sẽ luôn trung thành với lý
tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trước Đổi mới năm 1986, Việt Nam vốn là
nước nghèo nàn, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, phải gánh chịu thiệt hại nặng
nề về người, về của, về môi trường sinh thái. Sau khi thực hiện đường lối đổi mới,
đất nước đã thay đổi tốt đẹp, gặt hái được nhiều thành công nhờ sự nhận thức sâu
sắc và vận dụng phù hợp Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ. Điều này cho thấy tính đúng đắn, cơ bản phù hợp
với xu thế của tác phẩm kinh điển này.
Tóm lại, theo Ph.Ăngghen, các nước lạc hậu và các nước tiền tư bản chủ nghĩa
hoàn toàn có thể đi theo con đường “rút ngắn” nếu như có Đảng Cộng sản lãnh đạo
và sử dụng pháp luật tuân theo quyền lực đại đa số; có sự ủng hộ tích cực của các
nước phát triển và sự thất bại của chủ nghĩa tư bản.
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM KHÔNG CÒN PHÙ HỢP VỚI TÌNH
HÌNH CÁCH MẠNG CỦA V.I.LÊNIN
4.1. Về Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin:
Về thực chất, Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin là chính sách cho phép
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong một phạm vi nhất định, dưới
sự khống chế và điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích của chính sách
vừa là củng cố, xây dựng chủ nghĩa xã hội; vừa là đánh bại chủ nghĩa tư bản. Để
thực hiện được mục đích thứ hai, V.I.Lênin khẳng định cần cho phép chủ nghĩa tư
bản phát triển trong một phạm vi nhất định để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đồng
thời trấn áp, kìm hãm sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự
mâu thuẫn trong mục đích khiến V.I.Lênin không thực hiện
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin có mục đích củng cố, xây dựng chủ nghĩa xã
hội; đồng thời đánh bại chủ nghĩa tư bản, loại trừ những thành phần kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Để thực hiện được mục đích thứ hai một cách lâu dài và phù hợp,
V.I.Lênin cho phép thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong một phạm
vi nhất định, dưới sự điều tiết, kìm hãm của nhà nước chuyên chính vô sản. Tuy
nhiên, Chính sách kinh tế mới không được thực hiện triệt để, lại chỉ được thực hiện
trong thời gian ngắn. Trong Đại hội đại biểu Đảng lần thứ XI (năm 1922),
V.I.Lênin đã tuyên bố kết thúc Chính sách kinh tế mới sau một năm thực hiện, cho
| 1/26

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Học phần: CN01002.9 Đ Ề TÀI
: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Giảng viên hướng dẫn : TS. Khuất Thị Thanh Vân
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thu Giang
Lớp : Truyền thông quốc tế K41
Hà Nội, ngày 25 tháng 12 MỞ ĐẦU 1.
Lý do nghiên cứu vấn đề:
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và các nước Đông Âu năm 1989 đã
đem đến cho hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới những khủng hoảng nặng nề.
Vốn là một thành trì của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đã đạt được những thành tựu
rực rỡ, trở thành hình mẫu phát triển của nhiều quốc gia đang trên đà đi lên chủ
nghĩa xã hội, nên sự thất bại của Liên Xô như một cú giáng lớn vào hệ thống xã
hội chủ nghĩa, đồng thời trở thành cơ hội để những kẻ chống phá có cơ hội “thừa
nước đục thả câu”. Tính tất yếu, đúng đắn của chủ nghĩa xã hội được đem ra bàn
luận, tranh cãi, các phần tử cực đoan thể hiện thái độ thù địch và chống đối, xuyên
tạc, phủ nhận sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội không chỉ
hứng chịu sự báng bổ, chế nhạo của thế lực chống cộng, mà còn phải giải quyết
vấn đề tư tưởng nội bộ, khi những người đứng trong hàng ngũ cách mạng cũng
không ngừng hoài nghi, thậm chí hối hận về con đường độc lập dân tộc bằng cách
đi theo chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng dao động này rất nguy hiểm, có thể trở thành kẽ
hở của hệ thống tư tưởng, khiến kẻ thù lợi dụng để truyền bá những quan điểm sai
lệch, dẫn đến những mâu thuẫn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong tình hình đó, chủ nghĩa tư bản lập tức chớp lấy thời cơ, sử dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật tạo những bước tiến mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế, quân
sự, chính trị - xã hội... Những thành tựu, bước tiến ấy là lớp vỏ hào nhoáng hoàn
hảo, che đậy kín kẽ bản chất bóc lột bên trong. Mặc dù trong bối cảnh phát triển đi
lên của thế giới, sự đối trọng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đã không
còn, nhưng để đạt được điều đó, các nước tư bản đã có sự điều chỉnh phù hợp về
chính sách, xoa dịu những cuộc cách mạng giai cấp để tránh bị diệt vong. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa sự bóc lột bản chất của hình thái kinh tế - xã hội này
đã biến mất, mà thay vào đó, sự bóc lột này còn được che đậy tinh vi hơn, bằng
cách “trung lưu hóa” giai cấp công nhân, khiến họ không còn thiết tha đấu tranh;
sản sinh ra cổ phần, chính sách bảo hiểm xã hội; phân hóa công nhân thành nhiều
loại: “công nhân cổ cồn trắng”, “công nhân cổ cồn xanh”,… Đặc biệt, những học
giả tư sản cho rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không còn đúng trong
thời đại mới ngày nay, khi những nỗ lực hòa giải giữa các giai cấp đã đạt được
những thành công về hình thức.
Tuy nhiên, tính ưu việt và tất yếu của chủ nghĩa xã hội vẫn không hề thay đổi.
Bởi trải qua khoảng thời gian 170 năm kể từ khi được ra đời, nó vẫn luôn giữ vững
bản chất đúng đắn về một xã hội nơi chế độ người bóc lột người không còn tồn tại,
và con người thực sự được làm chủ bản thân, làm chủ xã hội không phải điều
không thể xảy ra. Tất cả những yếu tố nêu trên đem đến cho hệ thống xã hội chủ
nghĩa một thử thách lớn, đòi hỏi niềm tin và sự kiên định vào chủ nghĩa Mác –
Lênin. Việt Nam đã bỏ qua chủ nghĩa tư bản, tiến thẳng tới xây dựng xã hội trong
thời kỳ quá độ và trong quá trình đó, chúng ta luôn trung thành với những tư tưởng
của chủ nghĩa Mác – Lênin; không ngừng sáng tạo, đổi mới phù hợp với thực tiễn
đất nước. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ dễ dàng, cũng như
lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết 50 năm trước, đó là một “cuộc chiến đấu
khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.
Để khẳng định những giá trị vĩ đại của lý luận Mác – Lênin, em lựa chọn đề tài
này với mong muốn được tìm hiểu chuyên sâu về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; đồng thời tìm ra một số quan điểm không còn phù hợp với thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. 2.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Nắm được cơ bản chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội, trong đó, đi vào tìm hiểu về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những điểm hạn chế về tính
đương thời của chủ nghĩa Mác – Lênin khi nói về quá trình quá độ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu về chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm được hệ thống lý luận về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và diễn giải hệ thống lý luận ấy dựa trên hiểu biết cá nhân và nghiên cứu tài liệu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các nước đi theo chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Về mặt nhận thức, sau khi giải quyết được các vấn đề trong mục 2, em mong
muốn hiểu được tầm quan trọng của con đường đi lên quá độ chủ nghĩa xã hội trên
thế giới. Đồng thời trang bị cho mình những kiến thức hữu ích về tư tưởng để đạt
mục tiêu trở thành “con người mới xã hội chủ nghĩa”.
Về mặt hành động, những hiểu biết trong quá trình nghiên cứu, hệ thống thông
tin là yếu tố tiên quyết để em liên tục trau dồi lý luận để có thể áp dụng vào thực
tiễn đời sống, đóng góp vào quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1.1. Định nghĩa:
Chủ nghĩa xã hội (tiếng Anh: Socialism) được hiểu theo bốn nghĩa:
Một là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động chống
lại áp bức, bất công, chống các giai cấp thống trị;
Hai là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao động
khỏi áp bức, bóc lột, bất công;
Ba là một khoa học - chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân;
Bốn là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong tiểu luận này, chủ nghĩa xã hội được xem xét dưới tư
cách là một chế độ xã hội.
1.2. Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, quá trình vận động, phát triển của xã hội loài
người tuân theo một quy luật, và quy luật này được quy định bởi yếu tố vật chất.
C.Mác từng viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên”, và theo ông, có năm hình thái kinh tế - xã hội, lần lượt
là cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Những hình thái kinh tế - xã hội chuyển giao kế tiếp nhau bằng con
đường cách mạng xã hội, và nguyên nhân của cuộc cách mạng ấy là mâu thuẫn
không thể dung hòa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. C.Mác và
Ph.Ăngghen đưa ra dự đoán về một hình thái kinh tế - xã hội phát triển ở bậc cao
nhất, nơi không còn đối kháng giai cấp, chế độ người bóc lột người, thiểu số phục
tùng đa số mang tên cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế giữa hình thái tư bản chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là tất yếu, được quyết định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa xã hội là một
giai đoạn, một trình độ phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nói vậy có nghĩa, khi nói chủ nghĩa xã hội là cộng sản chủ nghĩa, cần hiểu rằng
chủ nghĩa xã hội không phải cộng sản chủ nghĩa hoàn toàn mà chỉ là “giai đoạn
đầu”, “giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa” (C.Mác). Giai đoạn thấp này
bao gồm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao
hơn là cộng sản chủ nghĩa.
Trong giai đoạn đầu đó, thời kỳ quá độ còn mang nhiều “dấu vết của xã hội cũ
mà nó đã lọt lòng ra”, chưa thể trưởng thành về các phương diện xã hội, đặc biệt là
về kinh tế. Tuy nhiên, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tồn tại
của những tàn tích mà chủ nghĩa tư bản để lại trên mọi mặt đời sống như kinh tế,
chính trị,… là điều không thể tránh khỏi đối với một xã hội vừa “thoái thai” từ
trong lòng hình thái kinh tế - xã hội đi trước ra.
Bên cạnh đó, vì là hình thức đầu tiên của một xã hội mới, chủ nghĩa xã hội dĩ
nhiên sẽ có sự chênh lệch về trình độ phát triển so với cộng sản chủ nghĩa. Sự
chênh lệch này chịu ảnh hưởng bởi nguồn gốc của hai chủ nghĩa nói trên: nếu như
chủ nghĩa xã hội được sinh ra bởi chủ nghĩa tư bản, thì cộng sản chủ nghĩa là hình
thức xã hội cao nhất, chỉ có thể tồn tại sau khi chủ nghĩa xã hội hoàn thiện.
Sau này, V.I.Lênin đã tiếp thu và phát triển tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen
cũng như ứng dụng thực tiễn nước Nga, cho rằng đối với những nước chưa có chủ
nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội”. Do đó, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản có hai cách hiểu: đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát
triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, mà theo V.I.Lênin, đó là những “cơn đau đẻ kéo dài”; và đối với các nước
đã trải qua chủ nghĩa tư bản, giữa chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản có một
thời kỳ cải biên, quá độ từ xã hội này sang xã hội kia.
1.3. Điều kiện ra đời của chủ nghĩa xã hội:
1.3.1. Điều kiện kinh tế:
Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển mới của nhân loại. Khi đánh giá về
chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đứng trên nguyên tắc khách quan,
nguyên tắc toàn diện để khẳng định chủ nghĩa tư bản là một bước tiến rất dài so
với chế độ phong kiến: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy
một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Nền đại công nghiệp của tư bản
chủ nghĩa được áp dụng khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghiệp cơ khí đã đạt
được nhiều thành công vang dội, tạo ra năng suất lao động cao, lực lượng sản xuất
hiện đại, được C.Mác ví như “những trọng pháo bắn vào chế độ phong kiến đang suy tàn”.
Trong quá trình phát triển của nó, chủ nghĩa tư bản hình thành chế độ người bóc
lột người, cụ thể là giai cấp tư sản áp bức lực lượng sản xuất mà chủ yếu là giai cấp
công nhân. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao và quan
hệ sản xuất mang tính chiếm hữu tư nhân ngày càng trầm trọng, do sự đề cao chế
độ tư hữu không còn phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Vì lẽ đó, chủ nghĩa tư
bản trở thành gông cùm kìm kẹp sự phát triển của lực lượng sản xuất.
1.3.2. Điều kiện chính trị - xã hội:
Mâu thuẫn về kinh tế được phản ánh qua sự đối kháng về giai cấp, giữa giai cấp
tư sản lỗi thời và giai cấp công nhân hiện đại, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên
tiến. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, tư bản chủ nghĩa không chỉ tạo vũ khí để
giết mình mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí đó: những công nhân hiện
đại, những người vô sản. Mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt, dẫn tới một số điều
chỉnh có lợi hơn người lao động, nhưng những điều chỉnh này không vượt qua
được trật tự của chủ nghĩa tư bản. Cùng với sự phát triển về chất và lượng của giai
cấp công nhân, Đảng Cộng sản ra đời, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc, thực sự
của con đẻ nền đại công nghiệp; trực tiếp tham gia lãnh đạo, tiên phong trong cuộc
đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao của những cuộc đấu tranh giai cấp đó chính là cách
mạng vô sản. Và khi cách mạng vô sản giành thắng lợi, chủ nghĩa tư bản sẽ được
thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn: cộng sản chủ nghĩa.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng của nhân dân lao động, chủ yếu là giai cấp
công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cuộc cách mạng có thể được
thực hiện bằng bạo lực cách mạng hoặc con đường hòa bình. Tuy nhiên, thực tế
đấu tranh cho thấy con đường hòa bình khả thi về mặt lý thuyết, nhưng thực tế
chưa từng xảy ra. Khi đi theo con đường bạo lực cách mạng, giai cấp vô sản tiến
hành lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, cải tổ
xã hội cũ để xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà bước đầu là xây dựng xã hội
xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân mang trong mình sứ mệnh lịch sử của cả xã
hội, với mục tiêu xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng lực lượng sản
xuất, xây dựng hệ giá trị lao động, công bằng, dân chủ, tự do. Chính vì vậy, cuộc
cách mạng vô sản mang tính sâu sắc và triệt để cao, chỉ có thể thành công khi tích
cực chính trị của giai cấp công nhân và tầng lớp người lao động được khơi dậy.
1.4. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội:
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 2.1. Định nghĩa:
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôtha”, C.Mác đã nêu lên định nghĩa
kinh điển của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa
và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản”. Tiếp nhận và phát triển tư tưởng ấy của C.Mác, V.I.Lênin cũng
khái quát: “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu
tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh,
hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu
diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu.”
Như vậy, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra những
tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó, những
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội sẽ được thực hiện.
2.2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
2.2.1. Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản khác nhau về chất, thời kỳ quá độ là
bước chuyển mình cần thiết giữa hai hình thái kinh tế - xã hội:
Tuy chủ nghĩa xã hội chỉ là một nấc thang của hình thái kinh tế - xã hội mới,
nhưng nó hoàn toàn không đối lập một cách “chung chung” với chủ nghĩa tư bản
mà hoàn toàn vượt xa về mọi mặt. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đạt được nhờ sự áp bức, bóc lột
bất công. Bên cạnh đó, nhà nước trong tư bản chủ nghĩa là nhà nước của giai cấp
tư sản, quyền lực của thiểu số trấn áp đại đa số. Chính vì thế, đối kháng giai cấp
càng trở nên trầm trọng, chỉ có thể giải quyết bằng con đường bạo lực cách mạng
vô sản. Sự phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư
bản được phản ánh ở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội đó, không
còn tình trạng áp bức bóc lột, không còn đối kháng giai cấp, mục tiêu phát triển là
vì con người. Nhà nước của chủ nghĩa xã hội tập trung quyền lực của đại đa số
nhân dân, trấn áp thiểu số.
Các nhà Mác xít khẳng định rằng năng suất lao động là yếu tố then chốt, chủ yếu
nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Để có được vị trí như ngày nay, chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra năng suất lao động chưa từng thấy so với chế độ phong kiến.
Do đó, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn có thể bị đánh bại bởi chủ nghĩa xã hội – chế độ
xã hội nơi năng suất lao động mới cao hơn nhiều. Tuy nhiên, sản phẩm của năng
suất lao động ấy sẽ mang tính công hữu, phục vụ cho nhu cầu của đại đa số xã hội.
2.2.2. Chủ nghĩa tư bản tạo tiền đề cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội,
thời kỳ quá độ có nhiệm vụ sắp xếp lại tiền đề đó:
Những thành tựu khoa học – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là cơ sở vật chất để
chủ nghĩa xã hội phát triển tối ưu, tuy nhiên, để cơ sở vật chất đó phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải có thời gian tổ chức, thiết lập lại. Năng
suất lao động của chủ nghĩa tư bản vốn dành để phục vụ cho giai cấp tư sản, cho
thiểu số, và để biến năng suất lao động ấy thành tư liệu của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động là cả một quá trình dài. Điều này chứng minh sự tất yếu của thời
kỳ quá độ, bên cạnh đó cũng cho thấy rằng đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp vì
phải trải qua nhiều bước trung gian và thực nghiệm.
Các nhà kinh điển theo chủ nghĩa Mác – Lênin, từ thực tiễn của thời kỳ quá độ,
đã phân biệt hai loại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản như sau:
Một là, quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với
những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Cho đến nay, hình thức quá độ
này vẫn chưa từng diễn ra trên thế giới.
Hai là, quá độ gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản đối với
những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển. Tiêu biểu của hình thức quá
độ này cần kể đến Trung Quốc, Việt Nam,…; thậm chí là Liên Xô và các nước
Đông Âu. Vì bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, họ sẽ mất
một thời gian dài cáng đáng nhiệm vụ vốn thuộc về chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư
sản: công nghiệp hóa đất nước; đồng thời có những sáng tạo, cải tạo, điều chỉnh
phù hợp với định hướng phát triển của mình.
2.2.3. Thời kỳ quá độ cải tạo, thủ tiêu quan hệ xã hội của chủ nghĩa tư bản và xây
dựng các quan hệ xã hội (đặc biệt là quan hệ sản xuất) mới chủ nghĩa xã hội:
Sự khác nhau về chất giữa 2 chế độ xã hội khiến những quan hệ xã hội của chủ
nghĩa xã hội không thể tự phát trong lòng chủ nghĩa tư bản: quan hệ sản xuất của
chủ nghĩa tư bản là quan hệ sở hữu, dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân, nơi thiểu
số không đóng góp sức lao động nhưng vẫn được hưởng một phần thành quả của
giai cấp vô sản; trái lại, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội là quan hệ công hữu,
mang tính xã hội hóa cao, tư liệu sản xuất được phân phối bình đẳng, mức hưởng
dựa trên sức lao động của mỗi cá nhân. Thời kỳ quá độ có nhiệm vụ xây dựng quan
hệ sản xuất mới dựa trên chủ nghĩa xã hội, song, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn nhắc
nhở, những công việc này phải được tiến hành dần dần, từng bước; phải biết sử
dụng những hình thức, giai đoạn trung gian thích hợp.
Chế độ sở hữu của thời kỳ quá độ là sự quá độ từ chế độ tư hữu sang chế độ
công hữu. Giai cấp vô sản khi có được quyền lực chính trị sẽ tiến hành quốc hữu
hóa tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, khiến tài sản công hữu ngày càng nhiều
hơn. Đến khi chế độ công hữu hoàn toàn hình thành, chế độ tư hữu bị diệt vong,
thời kỳ quá độ sẽ kết thúc. Tương tự, sự phân phối trong thời kỳ quá độ sẽ không
hoàn toàn theo lao động, bởi tình trạng bóc lột giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô
sản vẫn còn tồn tại, nhưng đã ít hơn so với tư bản chủ nghĩa. Chấm dứt thời kỳ quá
độ sẽ chấm dứt chế độ bóc lột, bên cạnh đó, lao động sẽ được phân phối hoàn toàn.
Lí do là bởi khi đó, mọi người đều bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất, ai làm
nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít.
2.2.4. Giai cấp công nhân cần thời kỳ quá độ để làm quen với công cuộc xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa:
Sau khi cuộc cách mạng vô sản giành thắng lợi, chính quyền thuộc về giai cấp
công nhân. Giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu, để củng cố vị thế của
mình, giai cấp công nhân cần sử dụng chính quyền, sử dụng nhà nước đó để tổ
chức, quản lý, xây dựng xã hội mới trên các phương diện kinh tế, văn hóa – tư
tưởng, chính trị - xã hội. Những nhiệm vụ này, đối với giai cấp công nhân, đều mới
mẻ và khó khăn, phức tạp, cần trải qua nhiều giai đoạn trung gian, do đó, không
tránh khỏi những sai sót. Thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, bởi giai cấp
công nhân cần từng bước làm quen với việc điều hành nền chuyên chính vô sản.
2.3. Thực chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ:
2.3.1. Thực chất của thời kỳ quá độ:
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng
từ xã hô Ži tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hô Ži xã hội chủ nghĩa.
Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn dư về mọi phương
diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và những yếu tố mới mang
tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới phát sinh chưa phải là chủ
nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
2.3.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ
Về kinh tế, thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả những
thành phần kinh tế đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Năm 1921, sau khi đưa ra
chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin cho rằng sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ là tất yếu, hợp quy luật, chúng được phép tồn tại trong 1 thời gian
cần thiết, nhất là việc khuyến khích phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước. Như vậy,
nền kinh tế của thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần, mà theo V.I.Lênin là kinh tế gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Về chính trị, thời kỳ quá độ thiết lập nền chuyên chính vô sản. Đây là sự thống
trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với
nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử
thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô
sản đã chiến thắng nhưng chưa phải đã toàn thắng với giai cấp tư sản đã thất bại
nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh diễn ra trong điều kiện mới -
giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền, với nội dung mới - xây dựng
toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức
mới - cơ bản là hòa bình tổ chức xây dựng.
Về tư tưởng – văn hóa, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
còn tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư
sản. Yếu tố tư tưởng – văn hóa mới và cũ thường xuyên đấu tranh với nhau, đòi hỏi
Đảng Cộng sản từng bước xác lập, xây dựng hệ tư tưởng và nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa. Hơn nữa, theo V.I.Lênin, đặc điểm tâm lý, tư tưởng – văn hóa của thời kỳ
quá độ còn là tâm lý luyến tiếc chính quyền và luôn nuôi hi vọng phục hồi “thiên
đường đã mất” của các giai cấp bóc lột; là tâm lý, tập quán tản mạn, vô chính phủ,
thích tự do buôn bán, hay hoang mang, dao động của đông đảo quần chúng tiểu tư
sản. Ngoài ra, thời kỳ ấy còn phải đối mặt với lối sống thiếu văn hóa, không tôn
trọng pháp luật, tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, lười
biếng, ăn không ngồi rồi,…
Về xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp
khác nhau, những giai cấp ấy vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau. Ngoài ra, trong
xã hội của thời kỳ quá độ, tồn tại sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay. Do đó, thực chất về mặt xã hội của thời kỳ quá độ
là cuộc đấu tranh giai cấp chống áp bức, bất công, xóa bỏ tệ nạn và tàn dư của xã
hội tư bản chủ nghĩa để lại; bên cạnh đó, thiết lập công bằng xã hội, tuân thủ
nguyên tắc phân phối theo lao động.
2.4. Nội dung, nhiệm vụ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: 2.4.1. Lĩnh vực kinh tế:
Về cơ bản, trên lĩnh vực kinh tế, thời kỳ quá độ cần sắp xếp lại lực lượng sản
xuất của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản
xuất mới xã hội chủ nghĩa. Những công tác này cần tuân theo tính tất yếu khách
quan của các quy luật kinh tế phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, không thể
theo ý muốn chủ quan, nóng vội.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa,
tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật, phục vụ cho quá trình quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Việc tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành theo
những hình thức, nội dung khác nhau, phụ thuộc vào tình hình thực tế và điều kiện
lịch sử khác nhau của các nước khác nhau.
2.4.2. Lĩnh vực chính trị:
Ph.Ăngghen từng khái quát nội dung cơ bản trên lĩnh vực chính trị của thời kỳ
quá độ như sau: “Muốn không để mất một lần nữa quyền thống trị mà chính mình
vừa mới giành được, giai cấp công nhân đó, một mặt phải gạt bỏ toàn bộ bộ máy
áp bức cũ từ trước đến nay vẫn được dùng để chống lại mình, nhưng mặt khác lại
phải đề phòng những đại biểu và viên chức của chính mình bằng cách tuyên bố tất
cả những người này, không trừ một ai, đều có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào”.
Như vậy, thời kỳ quá độ không chỉ có nhiệm vụ chống lại những thế lực thù
địch, phản động, chống phá; mà còn phải củng cố chính quyền của giai cấp vô sản,
xây dựng xã hội mới, xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh và đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân lao động.
2.4.3. Lĩnh vực tư tưởng – văn hóa:
Về tư tưởng – văn hóa, thời kỳ quá độ cần tiếp thu, tuyên truyền những tư tưởng
khoa học, thực tiễn cách mạng giai cấp của giai cấp công nhân thế giới; trấn áp
những tư tưởng chống phá tiêu cực, gây ảnh hưởng tới tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, các nước cần xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ
nghĩa, phát huy bản sắc riêng trong quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa chung. 2.4.4. Lĩnh vực xã hội:
Trong lĩnh vực xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải bài trừ, loại bỏ
những tệ nạn xã hội do chủ nghĩa tư bản để lại; thúc đẩy những quan hệ xã hội tốt
đẹp dựa trên lý tưởng tự do của người này là tiền đề cho sự tự do của người khác.
Bên cạnh đó, cần khắc phục sự chênh lệch của các tầng lớp trong giai cấp vô sản
và sự thiếu cân đối trong phát triển giữa các vùng miền; giai cấp công nhân cũng
cần liên minh với giai cấp tiểu nông, cải tạo, giúp đỡ họ chuyển từ lối sản xuất cá
nhân sang sản xuất tập thể.
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ KHẢ
NĂNG RÚT NGẮN HOẶC BỎ QUA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỂ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
3.1. Khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua hoặc rút ngắn chủ nghĩa tư bản:
Ở các nước tư bản phát triển, khi quan hệ sản xuất theo chế độ tư hữu và lực
lượng sản xuất theo chế độ công hữu có sự mâu thuẫn nặng nề không thể dung hòa,
ắt sẽ xảy ra cách mạng vô sản bởi quan hệ sản xuất lạc hậu, bóc lột kìm hãm, trói
buộc khả năng phát triển và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hơn nữa,
những nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa cũng đã có sẵn cơ sở vật chất, được củng
cố bởi nền đại công nghiệp, trở thành cơ sở hạ tầng để xây dựng kiến trúc thượng
tầng tương ứng: chủ nghĩa xã hội. Do đó, các nước tư bản chủ nghĩa hoàn toàn có
khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại, sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội ở các
nước diễn ra không giống nhau; bên cạnh những nước có trình độ phát triển cao là
những nước phát triển thấp, thậm chí lạc hậu. Vậy những nước kém phát triển đó
có nhất thiết phải trải qua mọi giai đoạn mà các nước tiên tiến đã đi qua mới có thể
đi lên chủ nghĩa xã hội không? Thay vì phải trải qua chế độ chủ nghĩa tư bản, liệu
họ có thể “rút ngắn”, hay bỏ qua nó không?
Ph.Ăngghen sau này đã bổ sung thêm, rằng cách mạng vô sản không chỉ xuất
hiện ở các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển - nơi chuẩn bị những tiền đề vật
chất chín muồi cho sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản - mà còn có thể nổ ra ở những
quốc gia lạc hậu, chậm phát triển. Ph.Ăngghen và C.Mác nhận định đó là con
đường “phát triển rút ngắn”, mà sau này V.I.Lênin nêu thành khả năng “không qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các
nước, các dân tộc chậm phát triển.
3.2. Điều kiện để khả năng quá độ “phát triển rút ngắn” xảy ra:
3.2.1. Điều kiện để khả năng quá độ “phát triển rút ngắn” xảy ra:
Điều kiện bên trong: Có Đảng Cộng sản lãnh đạo giành được chính quyền và sử
dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết
để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã
giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực
tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp,
thông qua Chính sách kinh tế mới.
3.2.2. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin:
Một là, trong nông nghiệp, thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chính
sách thuế lương thực. Chính sách thuế lương thực tạo ra một cơ chế thoáng trong
nông nghiệp, giúp cải thiện nền kinh tế nông dân; từ đó, người nông dân sẽ làm
việc yên tâm, hăng hái hơn do được quyền tự do sử dụng phần lương thực thừa sau khi nộp thuế.
Hai là, tự do trao đổi hàng hóa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tự do trao đổi hàng hóa thì không thể phát triển
kinh tế, không thể có sự giao lưu đầy đủ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa
thành thị và nông thôn, không thể phát triển được nền kinh tế đại công nghiệp.
Không chỉ vậy, nhà nước còn phải đảm bảo “công nghiệp thỏa mãn nông dân, còn
nông dân thì nhờ có thương nghiệp mà thỏa mãn được nhu cầu của mình”. Chính
sách thuế lương thực và chính sách tự do trao đổi hàng hóa cho thấy sự quan tâm
đến lợi ích của người nông dân, sự kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội; sự
thay đổi địa vị của người nông dân trong xã hội; đặc biệt là sự nhận thức mới của
V.I.Lênin về vai trò của sản xuất hàng hóa.
Ba là, phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, hướng nền kinh tế quốc dân theo
con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Người lao động, nhờ chủ nghĩa tư bản nhà
nước, có thể tận dụng được sức mạnh thời đại; tranh thủ vốn liếng, kỹ thuật của các
nước phương Tây. Ngoài ra, đây còn là phương pháp cải tạo hòa bình giai cấp tư
sản, phát triển đội ngũ giai cấp công nhân. Do đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước, theo
V.I.Lênin vừa là phương tiện, vừa là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các nước lạc hậu.
Chứng minh cho sự khoa học, đúng đắn của Chính sách kinh tế mới của
V.I.Lênin là dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã, đang và sẽ luôn trung thành với lý
tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trước Đổi mới năm 1986, Việt Nam vốn là
nước nghèo nàn, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, phải gánh chịu thiệt hại nặng
nề về người, về của, về môi trường sinh thái. Sau khi thực hiện đường lối đổi mới,
đất nước đã thay đổi tốt đẹp, gặt hái được nhiều thành công nhờ sự nhận thức sâu
sắc và vận dụng phù hợp Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ. Điều này cho thấy tính đúng đắn, cơ bản phù hợp
với xu thế của tác phẩm kinh điển này.
Tóm lại, theo Ph.Ăngghen, các nước lạc hậu và các nước tiền tư bản chủ nghĩa
hoàn toàn có thể đi theo con đường “rút ngắn” nếu như có Đảng Cộng sản lãnh đạo
và sử dụng pháp luật tuân theo quyền lực đại đa số; có sự ủng hộ tích cực của các
nước phát triển và sự thất bại của chủ nghĩa tư bản.
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM KHÔNG CÒN PHÙ HỢP VỚI TÌNH
HÌNH CÁCH MẠNG CỦA V.I.LÊNIN
4.1. Về Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin:
Về thực chất, Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin là chính sách cho phép
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong một phạm vi nhất định, dưới
sự khống chế và điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích của chính sách
vừa là củng cố, xây dựng chủ nghĩa xã hội; vừa là đánh bại chủ nghĩa tư bản. Để
thực hiện được mục đích thứ hai, V.I.Lênin khẳng định cần cho phép chủ nghĩa tư
bản phát triển trong một phạm vi nhất định để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đồng
thời trấn áp, kìm hãm sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự
mâu thuẫn trong mục đích khiến V.I.Lênin không thực hiện
Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin có mục đích củng cố, xây dựng chủ nghĩa xã
hội; đồng thời đánh bại chủ nghĩa tư bản, loại trừ những thành phần kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Để thực hiện được mục đích thứ hai một cách lâu dài và phù hợp,
V.I.Lênin cho phép thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển trong một phạm
vi nhất định, dưới sự điều tiết, kìm hãm của nhà nước chuyên chính vô sản. Tuy
nhiên, Chính sách kinh tế mới không được thực hiện triệt để, lại chỉ được thực hiện
trong thời gian ngắn. Trong Đại hội đại biểu Đảng lần thứ XI (năm 1922),
V.I.Lênin đã tuyên bố kết thúc Chính sách kinh tế mới sau một năm thực hiện, cho