lOMoARcPSD| 59908026
1
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
Họ và tên: Lê Minh Hiếu
Lớp: CHK21 đợt 2
Đề bài tình huống 1:
Ngày 3/5/2015, công ty TNHH Thanh Bình do ông Nguyễn Ngọc P (giám đốc
công ty) làm đại diện hợp đồng tín dụng số 26/2015 với chi nhánh Ngân hàng thương
mại cổ phần Á do ông Ngô Đình V (giám đốc chi nhánh) làm đại diện vay số tiền 2,5 tỷ
đồng, thời hạn vay 06 tháng với lãi suất cho vay là 0,85%/tháng.
Để đảm bảo cho khoản vay, các bên thỏa thuận hình thức bảo đảm bảo lãnh bằng
tài sản. Hợp đồng bảo lãnh được cùng ngày 3/5/2015 giữa Chi nhánh Ngân hàng
thương mại cổ phần A (bên nhận bảo lãnh- do ông Vũ Văn Ô làm đại diện theo giấy ủy
quyền hợp lệ của Giám đốc chi nhánh) với ông Bùi Trọng K và Đào Thị H ( bên bảo
lãnh), làm thủ tục công chứng hợp lệ. Tài sản đem bảo lãnh ngôi nhà 4 tầng tọa
lạc trên diện tích đất 80 mà thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của ông K
và bà H, được định giá 3,0 tỷ đồng, với thời hạn bảo lãnh 06 tháng (từ ngày 3/5/2015
đến 3/11/2015), Sau khi nhận được khoản tiền vay 2,5 tỷ đồng do Ngân hàng thương
mại cổ phản A cung cấp, công ty TNHH Thanh Bình thỏa thuận cho vợ chồng ông K
bà H vay lại 300 triệu đồng để làm vốn mở cửa hàng buôn bán.
Đến hạn thanh toán, do Công ty TNHH Thanh Bình không tiền trả nợ ngân hàng
nên toàn bộ khoản nợ vay 2,5 tỷ đồng bị ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất
bằng 150% lãi suất trong hạn. Đến ngày 3/12/2015, do Công ty TNHH Thanh Bình vẫn
không trả được số nợ trong hạn quả hạn nên Ngân hàng thương mại cổ phần A đã
gửi văn bản yêu cầu ông K, H cho phép Ngân hàng làm thủ tục kê biên tài sản đem
bảo lãnh để phát mại, nhưng bị ông K bà H từ chối với li do thời hạn bảo lãnh đã hết
nên ngôi nhà 4 tầng nổi trên không còn là tài sản đem bảo lãnh nữa. Ngày 15/12/2015,
chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A đã làm đơn khởi kiện bên vay và bên bảo
lãnh tại Tòa án nhân dân thành phố H.
Sử dụng phương pháp duy pháp theo thức IRAC để đưa ra cách giải quyết
tình huống:
Bài làm
Bước 1: Xác định vấn đề pháp lý cần giải quyết trong tình huống
Vấn đề pháp lý cần giải quyết
- Thứ nhất, đó Ngân hàng thương mại cổ phần A có quyền đòi Công ty TNHH
Thanh Bình do ông Nguyễn Ngọc P (giám đốc công ty) trả nợ hay không?
- Thứ hai, Ngân hàng có quyền phát mại tài sản ông K và bà H dùng đlàm tài sản
đảm bảo, bảo lãnh cho Công ty TNHH Thanh Bình vay vốn không?
Bước 2: Xác định các quy phạm pháp luật có liên quan để làm căn cứ pháp
lý cho việc giải quyết vấn đề pháp lý trong tình huống.
- Điều 147, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 280, 288, 335, 336, 342, 463 và Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;
lOMoARcPSD| 59908026
2
- Điều 13, 18, 23, 27 Điều 28 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30
/12/2016 Quy định vhoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với khách hàng.
- Điều 23 NQ 03/2012/NQ-HĐTP.
Bước 3: Phân tích các quy phạm pháp luật đã tìm kiếm được để giải quyết
vấn đề pháp lý trong tình huống.
- Vấn đề thứ nhất, Ngân hàng thương mại cổ phần A quyền đòi Công ty TNHH
Thanh Bình trả nợ hay không?
Về hợp đồng tín dụng: Xét hợp đồng cho vay hạn tín dụng số 26/2015 giữa Chi
nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A với ông Bùi Trọng K được xác lập trên cơ sở
tự nguyện tự thỏa thuận của các bên. Về nội dung hình thức hợp đồng đều tuân
thủ đúng quy định pháp luật phù hợp theo quy định Điều 13, 18, 23, 27 Điều 28
Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 Quy định về hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng; lãi suất áp dụng
phù hợp theo quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng 2010. Trong trường hợp
này, Công ty TNHH Thanh Bình nhu cầu vay số tiền 2,5 tỷ đồng của Ngân hàng
trong thời hạn vay 06 tháng, với lãi suất vay 0,85%/tháng. Mức lãi suất này là phù
hợp với mức lãi suất trong giới hạn được cho phép tại thời điểm đó và không có gì bất
thường. Xét trong tình huống này, giả định hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với Công
ty TNHH Thanh Bình là có hiệu lực đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên (chúng tôi gọi
giả định, bởi để đi sâu làm về hiệu lực của hợp đồng này đòi hỏi phải được tiếp
cận hồ sơ thực tế, có sự hỗ trợ của các cơ quan có liên quan).
- Vấn đề thứ hai, Ngân hàng có quyền phát mại tài sản ông K bà H ng đlàm
tài sản đảm bảo, bảo lãnh cho Công ty TNHH Thanh Bình vay vốn không?
Để giải quyết vấn đề này, Tòa án sẽ xem xét đến hợp đồng bảo lãnh ký cùng ngày
3/5/2015 giữa Ngân hàng với ông K và bà H, có làm thủ tục công chứng hợp lệ. Trong
trường hợp này, giả định (vì không được xem xét hồ thực tế) hợp đồng bảo lãnh có
hiệu lực pháp luật. Tài sản được sử dụng để bảo lãnh ngôi n4 tầng tọa lạc trên diện
tích 80m2 thuộc quyền sở hữu quyền sử dụng hợp pháp của ông K H. Thời hạn
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp này trong 06 tháng, kể từ ngày 03/5/2015
đến ngày 3/11/2015.
Về biện pháp giao dịch bảo đảm: Đối với hợp đồng bảo lãnh số được cùng
ngày 3/5/2015 giữa Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A (bên nhận bảo lãnhdo
ông Văn Ô làm đại diện theo giấy ủy quyền hợp lệ của Giám đốc chi nhánh) với ông
Bùi Trọng K Đào Thị H (bên bảo lãnh) nhằm “bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ” cho
bên vay, có làm thủ tục công chứng hợp lệ. Tài sản đem bảo lãnh là ngôi nhà 4 tầng tọa
lạc trên diện tích đất 80 mà thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của ông K
và bà H, được định giá 3,0 tỷ đồng, với thời hạn bảo lãnh là 06 tháng (từ ngày 3/5/2015
đến 3/11/2015). Về nội dung hình thức hợp đồng đều tuân thủ đúng quy định pháp
luật phù hợp theo quy định tại Điều 335, 336 của Bộ luật Dân snăm 2015, do đó
cũng phát sinh quyền nghĩa vụ bảo lãnh của Đào Thị H đối với hợp đồng hợp
đồng cho vay hạn mức số 26/2015 giữa Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A
với ông Bùi Trọng K.
lOMoARcPSD| 59908026
3
Như vậy, có thể thấy, trong vai trò bảo lãnh, giúp Công ty TNHH Thanh Bình vay
vốn của ngân hàng sdụng tài sản ngôi nhà trên diện tích đất 80m2 làm tài sản
bảo lãnh, thì ông K và bà H phải có nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong thời gian
hợp đồng bảo lãnh còn hiệu lực.
Mặt khác, tài sản được dùng để bảo lãnh là tài sản cụ thể ngôi nhà trên đất 80m2,
nên cần xác định đây là dạng hợp đồng thế chấp trong bảo lãnh. Do đó, tài sản nhà đất
được dùng để bảo lãnh được coi tài sản thế chấp. Đây chính dạng thế chấp trong
nghĩa vbảo lãnh, hay nói cách khác, hợp đồng bảo lãnh còn ý nghĩa thế chấp
bằng tài sản để phía Ngân hàng tin tưởng cho Công ty vay vốn. giả sử nếu ông K và bà
H chỉ ký hợp đồng bảo lãnh cho công ty, trong hợp đồng không có tài sản nhà đất
như nêu trên (hoặc tài sản khác gtrị lớn hơn khoản vay vốn) thì chắc chắn, Ngân
hàng sẽ không thể duyệt cho Công ty TNHH Thanh Bình vay vốn.
Trong trường hợp này, khi xét án, Tòa án sgiải quyết vấn đđối với từng hợp
đồng.
Quan điểm thứ nhất: Đối với Ngân hàng khởi kiện ông Bùi Trọng K yêu cầu trả
nợ vay theo Hợp đồng tín dụng cả tiền gốc lãi suất thì Tòa án thụ quan htranh
chấp tranh chấp hợp đồng tín dụng. Quá trình thụ lý, giải quyết xem xét tính hợp pháp
của hợp đồng tín dụng theo quy định pháp luật và Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời
hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này
phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc
theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của BLTTDS. Trường hợp bị đơn ông Bùi Trọng K
yêu cầu Tòa án cấp thẩm áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thì Tòa án giải
quyết theo hướng xác định lại quan htranh chấp “Đòi lại tài sản”, không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện nguyên đơn Ngân hàng đối với phần lãi suất trên số tiền nợ gốc theo
Hợp đồng tín dụng.
Quan điểm thứ hai: Khác với quan điểm thứ nhất, cho rằng không ngẫu nhiên
TANDTC lại có thêm giải đáp câu 3 phần III về Dân sự: Đối với các loại hợp đồng
dân sự: hợp đồng vay tài sản của các nhân, tập thể với nhau (không phải hợp
đồng tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều 429 của BLDS
năm 2015 Điều 184 của BLTTDS. Trong nội dung giải đáp câu 3, TANDTC đã
khẳng định nội dung giải đáp câu 2: “Đối với vụ án Ngân hàng cho vay thì Ngân hàng
chỉ khởi kiện yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc), một khi thời hiệu khởi kiện đã hết đối với
Hợp đồng tín dụng Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp đòi lại tài sản mà không
phụ thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng hay không”. Nvậy, trường hợp Ngân
hàng khởi kiện yêu cầu trả nợ cả tiền gốc lãi suất theo Hợp đồng tín dụng, mà Tòa
án thụ lý quan hệ tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng tín dụng, quá trình giải quyết xem
xét đã hết thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo
quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 của BLTTDS.
Quan điểm thứ ba: Lập luận quan điểm thứ hai có phần đoán định hướng dẫn giải
đáp của TANDTC căn cứ đình chỉ theo điểm điểm h khoản 1 Điều 217 của BLTTDS
là chưa vững chắc. Trường hợp Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông A trả cả tiền nợ gốc
lãi suất theo hợp đồng, đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định Điều 429 của BLDS
năm 2015 để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng 03 năm, kể từ ngày
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm”, và Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của
lOMoARcPSD| 59908026
4
một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp
thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của
BLTTDS, nghĩa là khi và chỉ khi đối với vụ án trên bị đơn A yêu cầu áp dụng thời hiệu
khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc thì Tòa
án phải đình chỉ đối với ván quan hệ tranh chấp hợp đồng tín dụng, với lý do bị đơn
yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp thẩm ra bản án, quyết định giải
quyết vụ án thời hiệu khởi kiện đã hết. Như vậy, khác với quan điểm thứ nhất, Tòa
án không thay đổi quan hệ tranh chấp thành “Đòi lại tài sản”. Theo đó, Ngân hàng cho
rằng quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm đối với phần nợ gốc sẽ khởi
kiện thành vụ án khác Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết.
Bước 4: Kết luận về phương án giải quyết tình huống.
Trường hợp công ty TNHH Thanh Bình ông Bùi Trọng K không trả hết số nợ gốc
khoản lãi phát sinh cho ngân hàng thì bên bảo lãnh ông Bùi Trọng K phải dùng tài
sản riêng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Công ty TNHH Thanh Bình với Chi nhánh
Ngân hàng thương mại cổ phần A theo Hợp đồng cho vay hạn mức số số 26 /2015, ông
Văn Ô có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xác minh, biên, phát mại các tài sản
khác thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bà Đào Thị H là người bảo lãnh nghĩa
vụ cho công ty TNHH Thanh Bình để thanh toán nợ tại Chi nhánh Ngân hàng thương
mại cổ phần A.
Theo khoản 3 điều 23 NQ 03/2012/NQ-HĐTP, bản chất hợp đồng tín dụng là hợp
đồng vay tài sản và giao dịch dân sự này có 2 loại tranh chấp có thể phát sinh, đó là: (i)
tranh chấp về hợp đồng vay và/hoặc (ii) tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản
lý, chiếm hữu. Trong trường hợp hết thời hiệu khởi kiện theo Điều 429 BLDS 2015,
nếu nguyên đơn khởi kiện đòi trả lại nợ gốc và lãi và bị đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu
khởi kiện thì Toà án sẽ giải quyết như sau: (i) chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi
lại tài sản (nợ gốc) không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về đòi lại
tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự. ( ii) không giải
quyết yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi vì đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng, vẫn
áp dụng thời hiệu khởi kiện. Về cơ bản, quyết định của Toà án về tranh chấp hợp đồng
tín dụng trong tình huống nêu trên Công văn chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn đối với bị đơn, cụ thể: buộc bị đơn trả tiền nợ gốc cho nguyên đơn
nhưng không chấp nhận yêu cầu thanh toán tiền lãi. Như vậy, Tán cần xác định lại
quan hệ tranh chấp là “đòi lại tài sản”, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn
Ngân hàng đối với phần lãi suất trên số tiền nợ gốc theo Hợp đồng tín dụng.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59908026
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
Họ và tên: Lê Minh Hiếu Lớp: CHK21 đợt 2
Đề bài tình huống 1:
Ngày 3/5/2015, công ty TNHH Thanh Bình do ông Nguyễn Ngọc P (giám đốc
công ty) làm đại diện kí hợp đồng tín dụng số 26/2015 với chi nhánh Ngân hàng thương
mại cổ phần Á do ông Ngô Đình V (giám đốc chi nhánh) làm đại diện vay số tiền 2,5 tỷ
đồng, thời hạn vay 06 tháng với lãi suất cho vay là 0,85%/tháng.
Để đảm bảo cho khoản vay, các bên thỏa thuận hình thức bảo đảm là bảo lãnh bằng
tài sản. Hợp đồng bảo lãnh được kí cùng ngày 3/5/2015 giữa Chi nhánh Ngân hàng
thương mại cổ phần A (bên nhận bảo lãnh- do ông Vũ Văn Ô làm đại diện theo giấy ủy
quyền hợp lệ của Giám đốc chi nhánh) với ông Bùi Trọng K và bà Đào Thị H ( bên bảo
lãnh), có làm thủ tục công chứng hợp lệ. Tài sản đem bảo lãnh là ngôi nhà 4 tầng tọa
lạc trên diện tích đất 80 mà thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của ông K
và bà H, được định giá 3,0 tỷ đồng, với thời hạn bảo lãnh là 06 tháng (từ ngày 3/5/2015
đến 3/11/2015), Sau khi nhận được khoản tiền vay 2,5 tỷ đồng do Ngân hàng thương
mại cổ phản A cung cấp, công ty TNHH Thanh Bình thỏa thuận cho vợ chồng ông K
bà H vay lại 300 triệu đồng để làm vốn mở cửa hàng buôn bán.
Đến hạn thanh toán, do Công ty TNHH Thanh Bình không có tiền trả nợ ngân hàng
nên toàn bộ khoản nợ vay 2,5 tỷ đồng bị ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất
bằng 150% lãi suất trong hạn. Đến ngày 3/12/2015, do Công ty TNHH Thanh Bình vẫn
không trả được số nợ trong hạn và quả hạn nên Ngân hàng thương mại cổ phần A đã
gửi văn bản yêu cầu ông K, bà H cho phép Ngân hàng làm thủ tục kê biên tài sản đem
bảo lãnh để phát mại, nhưng bị ông K và bà H từ chối với li do thời hạn bảo lãnh đã hết
nên ngôi nhà 4 tầng nổi trên không còn là tài sản đem bảo lãnh nữa. Ngày 15/12/2015,
chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A đã làm đơn khởi kiện bên vay và bên bảo
lãnh tại Tòa án nhân dân thành phố H.
Sử dụng phương pháp tư duy pháp lý theo mô thức IRAC để đưa ra cách giải quyết tình huống: Bài làm
Bước 1: Xác định vấn đề pháp lý cần giải quyết trong tình huống
Vấn đề pháp lý cần giải quyết
- Thứ nhất, đó là Ngân hàng thương mại cổ phần A có quyền đòi Công ty TNHH
Thanh Bình do ông Nguyễn Ngọc P (giám đốc công ty) trả nợ hay không?
- Thứ hai, Ngân hàng có quyền phát mại tài sản ông K và bà H dùng để làm tài sản
đảm bảo, bảo lãnh cho Công ty TNHH Thanh Bình vay vốn không?
Bước 2: Xác định các quy phạm pháp luật có liên quan để làm căn cứ pháp
lý cho việc giải quyết vấn đề pháp lý trong tình huống.
- Điều 147, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 280, 288, 335, 336, 342, 463 và Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; 1 lOMoAR cPSD| 59908026
- Điều 13, 18, 23, 27 và Điều 28 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30
/12/2016 Quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với khách hàng.
- Điều 23 NQ 03/2012/NQ-HĐTP.
Bước 3: Phân tích các quy phạm pháp luật đã tìm kiếm được để giải quyết
vấn đề pháp lý trong tình huống.
- Vấn đề thứ nhất, Ngân hàng thương mại cổ phần A có quyền đòi Công ty TNHH
Thanh Bình trả nợ hay không?
Về hợp đồng tín dụng: Xét hợp đồng cho vay hạn tín dụng số 26/2015 giữa Chi
nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A với ông Bùi Trọng K được xác lập trên cơ sở
tự nguyện và tự thỏa thuận của các bên. Về nội dung và hình thức hợp đồng đều tuân
thủ đúng quy định pháp luật và phù hợp theo quy định Điều 13, 18, 23, 27 và Điều 28
Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 Quy định về hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng; lãi suất áp dụng
phù hợp theo quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng 2010. Trong trường hợp
này, Công ty TNHH Thanh Bình có nhu cầu vay số tiền 2,5 tỷ đồng của Ngân hàng
trong thời hạn vay 06 tháng, với lãi suất vay là 0,85%/tháng. Mức lãi suất này là phù
hợp với mức lãi suất trong giới hạn được cho phép tại thời điểm đó và không có gì bất
thường. Xét trong tình huống này, giả định hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng với Công
ty TNHH Thanh Bình là có hiệu lực vì đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên (chúng tôi gọi
là giả định, bởi để đi sâu làm rõ về hiệu lực của hợp đồng này đòi hỏi phải được tiếp
cận hồ sơ thực tế, có sự hỗ trợ của các cơ quan có liên quan).
- Vấn đề thứ hai, Ngân hàng có quyền phát mại tài sản ông K và bà H dùng để làm
tài sản đảm bảo, bảo lãnh cho Công ty TNHH Thanh Bình vay vốn không?
Để giải quyết vấn đề này, Tòa án sẽ xem xét đến hợp đồng bảo lãnh ký cùng ngày
3/5/2015 giữa Ngân hàng với ông K và bà H, có làm thủ tục công chứng hợp lệ. Trong
trường hợp này, giả định (vì không được xem xét hồ sơ thực tế) hợp đồng bảo lãnh có
hiệu lực pháp luật. Tài sản được sử dụng để bảo lãnh là ngôi nhà 4 tầng tọa lạc trên diện
tích 80m2 thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của ông K và bà H. Thời hạn
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp này trong 06 tháng, kể từ ngày 03/5/2015 đến ngày 3/11/2015.
Về biện pháp giao dịch bảo đảm: Đối với hợp đồng bảo lãnh số được kí cùng
ngày 3/5/2015 giữa Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A (bên nhận bảo lãnhdo
ông Vũ Văn Ô làm đại diện theo giấy ủy quyền hợp lệ của Giám đốc chi nhánh) với ông
Bùi Trọng K và bà Đào Thị H (bên bảo lãnh) nhằm “bảo lãnh toàn bộ nghĩa vụ” cho
bên vay, có làm thủ tục công chứng hợp lệ. Tài sản đem bảo lãnh là ngôi nhà 4 tầng tọa
lạc trên diện tích đất 80 mà thuộc quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của ông K
và bà H, được định giá 3,0 tỷ đồng, với thời hạn bảo lãnh là 06 tháng (từ ngày 3/5/2015
đến 3/11/2015). Về nội dung và hình thức hợp đồng đều tuân thủ đúng quy định pháp
luật và phù hợp theo quy định tại Điều 335, 336 của Bộ luật Dân sự năm 2015, do đó
cũng phát sinh quyền và nghĩa vụ bảo lãnh của bà Đào Thị H đối với hợp đồng hợp
đồng cho vay hạn mức số 26/2015 giữa Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A với ông Bùi Trọng K. 2 lOMoAR cPSD| 59908026
Như vậy, có thể thấy, trong vai trò bảo lãnh, giúp Công ty TNHH Thanh Bình vay
vốn của ngân hàng và sử dụng tài sản là ngôi nhà trên diện tích đất 80m2 làm tài sản
bảo lãnh, thì ông K và bà H phải có nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong thời gian
hợp đồng bảo lãnh còn hiệu lực.
Mặt khác, tài sản được dùng để bảo lãnh là tài sản cụ thể ngôi nhà trên đất 80m2,
nên cần xác định đây là dạng hợp đồng thế chấp trong bảo lãnh. Do đó, tài sản nhà đất
được dùng để bảo lãnh được coi là tài sản thế chấp. Đây chính là dạng thế chấp trong
nghĩa vụ bảo lãnh, hay nói cách khác, hợp đồng bảo lãnh còn có ý nghĩa là thế chấp
bằng tài sản để phía Ngân hàng tin tưởng cho Công ty vay vốn. giả sử nếu ông K và bà
H chỉ ký hợp đồng bảo lãnh cho công ty, mà trong hợp đồng không có tài sản là nhà đất
như nêu trên (hoặc tài sản khác có giá trị lớn hơn khoản vay vốn) thì chắc chắn, Ngân
hàng sẽ không thể duyệt cho Công ty TNHH Thanh Bình vay vốn.
Trong trường hợp này, khi xét án, Tòa án sẽ giải quyết vấn đề đối với từng hợp đồng.
Quan điểm thứ nhất: Đối với Ngân hàng khởi kiện ông Bùi Trọng K yêu cầu trả
nợ vay theo Hợp đồng tín dụng cả tiền gốc và lãi suất thì Tòa án thụ lý quan hệ tranh
chấp là tranh chấp hợp đồng tín dụng. Quá trình thụ lý, giải quyết xem xét tính hợp pháp
của hợp đồng tín dụng theo quy định pháp luật và Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời
hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này
phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc
theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của BLTTDS. Trường hợp bị đơn ông Bùi Trọng K
yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thì Tòa án giải
quyết theo hướng xác định lại quan hệ tranh chấp “Đòi lại tài sản”, không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện nguyên đơn Ngân hàng đối với phần lãi suất trên số tiền nợ gốc theo Hợp đồng tín dụng.
Quan điểm thứ hai: Khác với quan điểm thứ nhất, cho rằng không ngẫu nhiên mà
TANDTC lại có thêm giải đáp ở câu 3 phần III về Dân sự: Đối với các loại hợp đồng
dân sự: … hợp đồng vay tài sản của các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp
đồng tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều 429 của BLDS
năm 2015 và Điều 184 của BLTTDS. Trong nội dung giải đáp câu 3, TANDTC đã
khẳng định nội dung giải đáp câu 2: “Đối với vụ án Ngân hàng cho vay thì Ngân hàng
chỉ khởi kiện yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc), một khi thời hiệu khởi kiện đã hết đối với
Hợp đồng tín dụng và Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp đòi lại tài sản mà không
phụ thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng hay không”. Như vậy, trường hợp Ngân
hàng khởi kiện yêu cầu trả nợ cả tiền gốc và lãi suất theo Hợp đồng tín dụng, mà Tòa
án thụ lý quan hệ tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng tín dụng, quá trình giải quyết xem
xét đã hết thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo
quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 của BLTTDS.
Quan điểm thứ ba: Lập luận quan điểm thứ hai có phần đoán định hướng dẫn giải
đáp của TANDTC và căn cứ đình chỉ theo điểm điểm h khoản 1 Điều 217 của BLTTDS
là chưa vững chắc. Trường hợp Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông A trả cả tiền nợ gốc
và lãi suất theo hợp đồng, đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định Điều 429 của BLDS
năm 2015 để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày
người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm”, và Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của 3 lOMoAR cPSD| 59908026
một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp
sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của
BLTTDS, nghĩa là khi và chỉ khi đối với vụ án trên bị đơn A yêu cầu áp dụng thời hiệu
khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc thì Tòa
án phải đình chỉ đối với vụ án quan hệ tranh chấp là hợp đồng tín dụng, với lý do bị đơn
có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải
quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết. Như vậy, khác với quan điểm thứ nhất, Tòa
án không thay đổi quan hệ tranh chấp thành “Đòi lại tài sản”. Theo đó, Ngân hàng cho
rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm đối với phần nợ gốc sẽ khởi
kiện thành vụ án khác Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết.
Bước 4: Kết luận về phương án giải quyết tình huống.
Trường hợp công ty TNHH Thanh Bình ông Bùi Trọng K không trả hết số nợ gốc
và khoản lãi phát sinh cho ngân hàng thì bên bảo lãnh ông Bùi Trọng K phải dùng tài
sản riêng để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Công ty TNHH Thanh Bình với Chi nhánh
Ngân hàng thương mại cổ phần A theo Hợp đồng cho vay hạn mức số số 26 /2015, ông
Vũ Văn Ô có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xác minh, kê biên, phát mại các tài sản
khác thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bà Đào Thị H là người bảo lãnh nghĩa
vụ cho công ty TNHH Thanh Bình để thanh toán nợ tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần A.
Theo khoản 3 điều 23 NQ 03/2012/NQ-HĐTP, bản chất hợp đồng tín dụng là hợp
đồng vay tài sản và giao dịch dân sự này có 2 loại tranh chấp có thể phát sinh, đó là: (i)
tranh chấp về hợp đồng vay và/hoặc (ii) tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản
lý, chiếm hữu. Trong trường hợp hết thời hiệu khởi kiện theo Điều 429 BLDS 2015,
nếu nguyên đơn khởi kiện đòi trả lại nợ gốc và lãi và bị đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu
khởi kiện thì Toà án sẽ giải quyết như sau: (i) chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi
lại tài sản (nợ gốc) vì không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về đòi lại
tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự. ( ii) không giải
quyết yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi vì đây là tranh chấp về hợp đồng tín dụng, vẫn
áp dụng thời hiệu khởi kiện. Về cơ bản, quyết định của Toà án về tranh chấp hợp đồng
tín dụng trong tình huống nêu trên ở Công văn là chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn đối với bị đơn, cụ thể: buộc bị đơn trả tiền nợ gốc cho nguyên đơn
nhưng không chấp nhận yêu cầu thanh toán tiền lãi. Như vậy, Toà án cần xác định lại
quan hệ tranh chấp là “đòi lại tài sản”, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn
Ngân hàng đối với phần lãi suất trên số tiền nợ gốc theo Hợp đồng tín dụng. 4