





Preview text:
lOMoAR cPSD| 59732875 MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân, hộ gia
đình sử dụng ổn định, lâu dài. Trong điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam, đất đai
không chỉ là phạm trù kinh tế, mà còn là phạm trù chính trị - xã hội, an ninh - quốc
phòng; đất đai là nguồn lực cho sự phát triển đất nước... Mục tiêu tiên quyết của sở
hữu toàn dân về đất đai là cải thiện điều kiện sống của người lao động. Để hiểu thêm
về vấn đề này em xin chọn đề bài số 15: “Vì sao trong bối cảnh đại đa số các quốc
gia trên thế giới tư nhân hóa đất đai mà Việt Nam vẫn kiên định xây dựng chế độ
sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Hãy cho biết cơ
sở lý luận và thực tiễn để xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam
hiện nay” để làm bài tập học kỳ của mình. NỘI DUNG
1. Nguyên nhân Việt Nam vẫn kiên định xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu
Thứ nhất, xuất phát từ lập trường "tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân", thì nhân dân phải là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đặc biệt quý giá của
quốc gia là đất đai. Ðất đai là thành quả của sự nghiệp giữ nước và dựng nước lâu
dài của cả dân tộc, không thể để cho một số người nào đó may mắn trên thị trường
có quyền độc chiếm sở hữu. Ðất đai của quốc gia dân tộc phải thuộc sở hữu chung
của toàn dân và được sử dụng phục vụ cho mục đích chung của toàn dân tộc, của nhân dân
Thứ hai, sở hữu toàn dân tạo điều kiện để những người lao động có điều kiện
tiếp cận đất đai tự do. Phải tạo cơ chế công bằng ngay từ gốc, tức là người lao động
phải có tư liệu sản xuất, trong đó có đất đai, để lao động mưu sinh. Sở hữu tư nhân
đất đai sẽ làm cho người nghèo mất đất và khi không có tư liệu sản xuất, nhất là đất
đai thì người nghèo không thể thoát nghèo được.
Thứ ba, sở hữu toàn dân về đất đai tạo cơ chế để người lao động có quyền
hưởng lợi ích từ đất đai một cách có lợi hơn, công bằng hơn và bình đẳng hơn. Bởi
vì, sở hữu toàn dân là sở hữu chung của tất cả mọi người dân Việt Nam. Vấn đề là
cần thể chế hóa sở hữu toàn dân về đất đai bằng cơ chế quản lý và sử dụng thích hợp, lOMoAR cPSD| 59732875
nhằm có thể đạt được một lúc hai mục đích: hiệu quả và công bằng đối với người lao
động. Không được sao nhãng mục tiêu công bằng, vì nếu để đạt được hiệu quả bằng
cách hy sinh quyền lợi của phần lớn người lao động, của cải làm ra nhiều hơn nhưng
chui vào túi người giàu thì không phải là hiệu quả chúng ta mong muốn.
Thứ tư, về bản chất, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là nguồn gốc của
thực tế phức tạp hiện nay về đất đai. Thực trạng quản lý, sử dụng đất đai đang đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết, bắt nguồn không phải từ bản chất vốn có của sở hữu
toàn dân về đất đai, mà bắt nguồn từ sự yếu kém kéo dài trong việc không hiện thực
hóa thiết chế thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; bắt nguồn từ hệ lụy yếu
kém trong quản lý đất đai cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô.
Thứ năm, sở hữu toàn dân không phải là sở hữu nhà nước về đất đai. Toàn
dân, tức toàn thể công dân của một nước và thiết chế đại diện chung cho họ là Nhà
nước chia nhau quyền của chủ sở hữu đất đai theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó,
nếu chúng ta nhất trí đất đai thuộc sở hữu nhà nước thì có nghĩa là công dân không
còn chút quyền nào đối với đất đai.
Sở hữu toàn dân về đất đai là sở hữu chung của toàn dân, nhưng có sự phân
chia việc thực hành quyền sở hữu giữa người sử dụng đất và Nhà nước. Bản chất của
cơ chế đó là phân chia một cách hợp lý các quyền của chủ sở hữu đất đai giữa người
dân và Nhà nước, cũng như giữa các cơ quan nhà nước các cấp. Luật Ðất đai năm
2003 và các văn bản pháp luật liên quan đã trao cho người dân khá nhiều quyền: sử
dụng (theo quy hoạch chung của Nhà nước), chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp
vay vốn, thừa kế, góp vốn... Về cơ bản người dân đã có gần hết quyền của chủ sở
hữu cho phép họ đầu tư, sử dụng đất hiệu quả theo năng lực của họ. Một số hạn chế
của quyền chủ sở hữu mà người sử dụng đất không có là: không được tùy ý chuyển
mục đích sử dụng đất; hạn điền; thời gian giao đất hữu hạn; phải giao lại đất cho Nhà
nước để sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, mục đích công cộng. Tương ứng
với mở rộng quyền cho người sử dụng đất, quyền của cơ quan nhà nước với tư cách
đại diện cho toàn dân thống nhất quản lý đất đai trong cả nước được quy định trên
các mặt sau: quy định mục đích sử dụng cho từng thửa đất (bằng quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất); thu hồi đất phục vụ các mục đích an ninh, quốc phòng, mục đích công
cộng; thu một số khoản dựa trên đất. So sánh với Luật Ðất đai của một số nước duy
trì tư hữu về đất đai, quyền của người sử dụng đất của chúng ta cũng không thua kém
mấy và quyền của Nhà nước cũng không quá nhiều. lOMoAR cPSD| 59732875
Thứ sáu, chế độ sở hữu toàn dân nhấn mạnh quyền của người dân trong sử
dụng quyền của mình để cùng nhau giải quyết các vấn đề bất đồng trong sử dụng và
phân chia lợi ích từ đất. Với việc quy định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai trong
Hiến pháp, khi phần lớn số công dân bị bất lợi trong phân chia lợi ích từ đất đai, họ
có thể yêu cầu Nhà nước sửa Luật Ðất đai phục vụ mục đích chung của công dân,
sửa chữa những mất công bằng trong phân phối lợi ích từ đất đai do cơ chế thị trường
đem lại. Nếu Hiến pháp tuyên bố sở hữu tư nhân về đất đai thì nhân danh quyền chủ
sở hữu, bộ phận nhỏ dân cư sở hữu nhiều đất đai sẽ không cho phép phần lớn còn lại
thay đổi chế độ phân phối lợi ích từ đất đai.
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở
Việt Nam hiện nay
a. Cơ sở lý luận của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
Đất đai là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất
xã hội, vì vậy quan hệ sở hữu về đất đai từ xa xưa đã được các nhà kinh tế học kinh
điển đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Lý luận về địa tô của A-đam Xmit, Đa-vít
Ri-các-đô... tiếp tục được C. Mác, Ph. Ăng-ghen hoàn thiện, đặt nền tảng lý thuyết
cho việc giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế trong nông nghiệp, là cơ sở
để hình thành, hoàn thiện luật pháp, chính sách nhằm phát triển kinh tế cũng như ổn
định xã hội. Sau khi nghiên cứu lý luận địa tô, các Ông đã rút ra một số kết luận, trong đó có vấn đề:
+ Địa tô trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hay có thể nói là địa tô trong nền
kinh tế thị trường có tính ổn định, không phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về đất đai.
+ Khi đã tách quyền sở hữu và quyền chiếm hữu (trong đó trước hết là quyền
sử dụng) đất đai, người chiếm hữu (người sử dụng) nếu đầu tư vào đất sẽ thu được địa tô chênh lệch hai.
Trên cơ sở những nghiên cứu về lý luận địa tô của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I.
Lê-nin đã đưa ra cơ sở lý luận của việc quốc hữu hóa ruộng đất. Trong tác phẩm
“Cương lĩnh ruộng đất của Đảng xã hội dân chủ trong cuộc cách mạng đầu tiên ở
Nga năm 1905 - 1907”, V.I. Lê-nin đã làm sáng tỏ bản chất của khái niệm quốc hữu
hóa ruộng đất và chỉ rõ mối liên hệ của địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối với hai
hình thức độc quyền trong nông nghiệp. Theo Ông, địa tô chênh lệch là kết quả của lOMoAR cPSD| 59732875
sự hạn chế về ruộng đất. Trong chế độ tư bản, việc canh tác ruộng đất của các doanh
nghiệp tư bản vô luận là chế độ tư hữu ruộng đất có tồn tại hay không và hình thức
chiếm hữu ruộng đất như thế nào đều có địa tô chênh lệch. Ông viết: “Địa tô chênh
lệch không tránh khỏi hình thành trong chế độ nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, ngay
cả khi chế độ tư hữu về ruộng đất bị xóa bỏ hoàn toàn”.
Địa tô tuyệt đối diễn ra bắt nguồn từ chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân. Chế độ
tư hữu này đã cản trở việc cạnh tranh tự do, cản trở việc san bằng lợi nhuận thành
lợi nhuận bình quân giữa các doanh nghiệp nông nghiệp và doanh nghiệp phi nông nghiệp.
Nếu địa tô chênh lệch là vốn có của bất kỳ nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa
nào, thì địa tô tuyệt đối không phải với bất kỳ, mà chỉ với điều kiện của chế độ sở
hữu ruộng đất tư nhân.
V.I. Lê-nin viết: “Như vậy là vấn đề quốc hữu hóa ruộng đất trong xã hội tư
bản chủ nghĩa chia thành hai phần khác nhau về bản chất: vấn đề địa tô chênh lệch
và vấn đề địa tô tuyệt đối. Quốc hữu hóa thay đổi người hưởng địa tô chênh lệch và
xóa bỏ ngay cả sự tồn tại của địa tô tuyệt đối. Vậy quốc hữu hóa một mặt là một cải
cách bộ phận trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản (thay đổi người làm chủ một bộ
phận giá trị thặng dư), và mặt khác, là sự xóa bỏ các độc quyền gây trở ngại cho sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản nói chung”(2). Thiếu sự phân biệt hai mặt này sẽ
không thể hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc quốc hữu hóa ruộng đất - vấn đề quyết
định ý nghĩa của các cơ sở lý luận về ruộng đất.
V.I. Lê-nin chỉ rõ rằng, nhận thức đúng đắn cơ sở lý luận của việc quốc hữu
hóa ruộng đất và tiếp đó là vấn đề ruộng đất có ý nghĩa rất to lớn. Những sai lầm
trong lý luận dẫn tới những kết luận không đúng đắn và dẫn đến những sai lầm về
chính trị. Chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân là sự trở ngại của việc đầu tư tự do tư bản
vào ruộng đất. Ông cũng viết: “Do đó, thủ tiêu chế độ tư hữu ruộng đất tức là xóa
bỏ đến mức tối đa có thể có được trong xã hội tư sản, tất cả những trở ngại, ngăn
cản việc tự do dùng tư bản vào nông nghiệp và tự do chuyển tư bản từ ngành sản
xuất này sang ngành sản xuất khác. Sự phát triển tự do, rộng rãi nhanh chóng của
chủ nghĩa tư bản, sự xóa bỏ tất cả những khâu trung gian không cần thiết khiến cho
nền nông nghiệp giống như một nền công nghiệp có những “nhịp độ kinh khủng”, -
quốc hữu hóa ruộng đất dưới chế độ sản xuất tư bản chủ nghĩa là như thế đấy”. lOMoAR cPSD| 59732875
b. Cơ sở thực tiễn về chế độ sở hữu đất đai
Về chế độ sở hữu đất đai: Trên thế giới hiện nay, đang song song tồn tại cả
chế độ công hữu và chế độ tư hữu về đất đai. Các nước có chế độ tư hữu phần lớn về
đất đai, bao gồm tuyệt đại đa số là các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, tại các
nước này vẫn còn đang tồn tại cả sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân về đất đai. Ví
dụ: ở Mỹ 40% là đất công, 60% là đất tư, ở Ô-xtrây-li-a, về pháp lý toàn bộ đất đai
là của Nữ hoàng Anh, sau đó bán dần cho thần dân sử dụng, đến nay 93% lãnh thổ
vẫn là đất của nhà nước, nhưng 7% còn lại thuộc sở hữu tư nhân, chủ yếu nằm trong
các đô thị, đất tư nhân chiếm đến 90%. Ở Đài Loan, toàn bộ đất nông nghiệp là thuộc
tư nhân. Ở Nhật Bản, trong số 25 triệu héc-ta rừng thì của nhà nước là 10 triệu héc- ta.
Về chế độ sử dụng đất đai: Việc mua bán ruộng đất về pháp lý được hiểu là
mua bán quyền sử dụng đất giữa các chủ đầu tư và trở thành hoạt động bình thường
của thị trường bất động sản, chỉ khác với thị trường khác ở chỗ sau khi đạt được thỏa
thuận ký được hợp đồng mua bán thì các bên phải tiến hành đăng ký về biến động
của bất động sản với cơ quan có thẩm quyền của nhà nước. Do nhu cầu của phát triển
(tách thửa, gộp thửa, đổi chủ...) mà thị trường này ngày càng sôi động, sử dụng nhiều
hình thức khác nhau, như đấu thầu, đấu giá... Hình thức cho thuê đất cũng được áp
dụng ngày càng phổ biến, nhất là ở các nước châu Á đang trong quá trình công
nghiệp hóa, phân công lại lao động xã hội. Vì thế, sở hữu ruộng đất không còn nhiều
ý nghĩa trên thực tế. Điều làm mọi người quan tâm hơn là những lợi ích kinh tế thu
được khi đầu tư vào đất đai và những quyền phụ thuộc mà người đầu tư có được; về
lâu dài đó là lợi nhuận ổn định và khả năng tránh được rủi ro của đồng vốn kinh doanh vào đất đai.
- Về vấn đề quốc hữu hóa và tập trung đất
+ Vấn đề quốc hữu hóa: Kết quả của những cuộc cách mạng ở các nước châu
Âu và các cuộc cải cách ruộng đất ở các nước châu Á đã hình thành nên một hệ thống
về chế độ sở hữu, sử dụng đất đai rất đa dạng hiện nay trên thế giới.
+ Tập trung ruộng đất: Khái niệm về “tích tụ” và “tập trung” được dùng để
mô tả sự lớn lên của quy mô tư bản cá biệt. Theo C. Mác, “tích tụ tư bản” là sự tăng
lên của tư bản cá biệt bằng cách chuyển một phần giá trị thặng dư thành tư bản làm
cho tư bản xã hội cũng tăng lên; còn “tập trung tư bản” chỉ là việc tăng quy mô tư lOMoAR cPSD| 59732875
bản cá biệt bằng cách hợp nhất các tư bản đã có. Áp dụng những khái niệm này vào
đất đai, thì trên mặt bằng của toàn bộ một nền kinh tế sẽ không có khái niệm tích tụ
ruộng đất mà chỉ có khái niệm tập trung ruộng đất vì suy cho cùng, việc tập trung
này không làm cho tổng quỹ đất xã hội tăng lên (vẫn là đất thì chia thành mảnh nhỏ
hoặc tập trung lại thành mảnh to).
Như vậy, từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn của chế độ sở hữu đất đai, có thể
nói: quyền sở hữu đất đai có tính độc lập tương đối với quyền chiếm hữu (trong đó
trước hết là quyền sử dụng) và vì vậy người sử dụng đất đai vẫn thực hiện được lợi
ích kinh tế của mình khi đầu tư vào đất đai bất luận là chế độ sở hữu nào; quyền sở
hữu tư nhân về đất đai dẫn tới độc quyền kinh doanh và do đó cản trở việc giải phóng
sức sản xuất trong nông nghiệp, từ đó làm giảm sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế; chế độ sở hữu về đất đai mang tính đa dạng bởi được quyết định trên các cơ sở
của những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, lịch sử phù hợp đối với từng quốc gia nhất định. KẾT LUẬN
Đất đai thuộc sở hữu nhà nước được xem như là nguồn dự trữ để giải quyết
các nhu cầu công cộng, điều tiết thị trường, biến đổi dân số. Tóm lại, cần tiếp cận sở
hữu toàn dân về đất đai một cách hiện thực theo những quyền mà sở hữu đất đai có
được (cũng cần nhấn mạnh rằng, các quyền này không cố định một cách cứng nhắc
mà có thể thay đổi theo thời gian cũng như tính năng của đối tượng sở hữu) và phân
chia quyền đó một cách hợp lý giữa người dân và cơ quan nhà nước.