














Preview text:
lOMoAR cPSD| 23136115
SOẠN CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích quan niệm nghệ thuật về con người qua Nhân sứ (Hòa Vang)?
Quan niệm nghệ thuật gắn liền với thế giới quan, với quan niệm chính trị, triết học
và nó cũng là sự chuyển hóa từ quan niệm triết học, chính trị mà thành. Quan niệm
nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm thấy, hiểu và miêu tả con người trong văn
học. Những nguyên tắc này chịu rất nhiều tác động từ văn hóa, tư tưởng của xã hội và
của cả bản thân người sáng tạo. Cho nên, từ quan niệm nghệ thuật về con người đến
thế giới nhân vật trong tác phẩm là một quá trình.
Nguyên tắc cảm thấy là phải hiểu và miêu tả về con người có thực tế sâu xa trong
lịch sử. Do đó, quan niệm nghệ thuật về con người là một sản phẩm của lịch sử và cũng
là sản phẩm của văn hóa tư tưởng gắn liền với từng thời kì.
Quan niệm nghệ thuật về con người còn mang dấu ấn sáng tạo của nghệ sĩ, gắn
liền với thế giới quan và nhân sinh quan của người sáng tác. Bởi vì nhân vật là đại diện
cho những phát ngôn, là công cụ để nhà văn thể hiện quan niệm.
Trong các thể loại văn học khác nhau, do chức năng và phương tiện biểu hiện khác
nhau nên quan niệm nghệ thuật về con người cũng khác nhau. Sự khác nhau này là cơ
sở để người đọc tiếp cận và có hướng nghiên cứu phù hợp với dặc trưng của từng thể
loại. Con người trong tác phẩm trữ tình chủ yếu là con người nội tâm với những suy
nghĩ, tình cảm, cảm xúc. Con người trong kịch gắn liền với những xung đột, mâu thuẫn
bên ngoài lẫn bên trong tư tưởng. Như vậy, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người
không thể bỏ qua đặt trưng thể loại.
Giới thiệu tác giả, tác phẩm Giai đoạn sáng tác tác phẩm, Hòa vang sáng tác
trong giai đoạn nào?
Hòa Vang - Nhắc đến ông, người ta nhớ đến một giọng văn nhiều ngẫm ngợi, đau đáu
với những cảnh ngộ không bình thường và một lối dựng chuyện với nhiều tình tiết lạ.
Thời thanh niên sôi nổi trong quân ngũ đã đưa Hòa Vang tới những vùng đất lửa xa
xôi. Và những ngày tháng cầm súng ấy đã in hằn trong ký ức ông những ấn tượng và
cảm hứng sâu đậm. Phải chăng vì thế ông đã chọn địa danh Hòa Vang của đất Quảng
Nam làm bút danh cho mình? Ông say mê văn học từ trẻ nhưng mãi đến năm 1991, lOMoAR cPSD| 23136115
khi Nhân sứ đoạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn do báo Văn nghệ tổ chức thì ông mới
chính thức bước vào làng văn
Quan niệm nghệ thuật về con người? - Hòa vang luôn theo đuổi con người đẹp, người
tốt, luôn biết mình muốn gì và phấn đấu, bởi cuối cùng cái mà con người tìm kiếm vẫn là cái đẹp,..
Sử dụng nghệ thuật gì để thể hiện quan niệm đó?
Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cốh u của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là “tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Rõ ràng, con người là con người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể,
trong một thời đại xác định. Thông qua các quan hệ xã hội con người bộc lộ bản chất
xã hội của mình. Với mục đích phải phát hiện cho ra cái bản chất thực sự của con người,
Hòa Vang đã mượn những nhân vật rất quen thuộc trong các truyền thuyết, cổ tích để
giải thiêng về bản chất con người
Mỗi truyện là một hoàn cảnh, một môi trường để cho ở đó nhân vật tự phanh phui, mổ
xẻ cái bản chất “tự có” của mình, đó là bản chất tốt đẹp, cao cả hay xấu xa, bỉ ổi, hèn
hạ, đê tiện. Không dừng lại ở sự giải thiêng về bản chất con người, Hoà Vang còn
hướng đến giải thiêng các vấn đề chính trị xã hội, các vấn đề nhân sinh trong xã hội
đương thời. Tất cả các nhân vật giải thiêng chủ yếu được khai thác từ các góc độ văn
hóa, văn học trong sự kết hợp truyền thống với hiện đại, phương Đông lẫn phương Tây
nh m đi sâu vào các vấn đề cấp hiết của đời sống cũng như vấn đề thiện – ác, dối – thật,
tình yêu – lòng th hận, tham lam – ích kỷ và tình trạng cảm tính trong nhận thức. Hòa
Vang tôn vinh cõi người, tôn vinh hạnh phúc nơi trần thế, “dù ở loại nào thì cái phần
căn cốt nhất của các nhân vật vẫn là những con người trần thế
Hòa Vang sử dụng những yếu tố kỳ ảo vốn có từ mẫu gốc kết hợp với những cái kỳ ảo
do tưởng tượng để đem lại cho hình tượng nhân vật của mình tính khái quát cao, đa t
ng về ng nghĩa, mang tính biểu tượng. Rất nhiều biểu tượng đã được nhà văn xây dựng
trong truyện ngắn của mình nhằm tạo lập những ý nghĩa khái quát về ý chí, nghị lực,
về việc tiếp nhận lời truyền dạy phải có sự chọn lọc Các nhân vật mang giá trị biểu
tượng mang trong nó những thông điệp, bài học sâu sắc về cuộc sống, “có ý nghĩa sâu lOMoAR cPSD| 23136115
thẳm, vĩnh cửu; huyền thoại dân tộc đã trở về để chiếu sáng cho bao nhiêu vấn đề của
cuộc sống thực tại”.
Nhà văn Lý tưởng hóa nhân vật bằng những mong muốn, dục vọng: thần nhưng vẫn
vướng bụi trần, dù là phật nhưng cốt cách vẫn là con người, đã là con người thì không
hoàn hảo tuyệt đối. Như trong tác phẩm, tính cách nhân vật hiện lên khá rõ ràng, thông
qua hành động, tâm lý, của các nhân vật.
- Sa tăng luôn muốn được trở về với cuộc sống bình thường, nhân vật xin Như Lai
chomình được trở về thế tục, ‘xin người cho con được phế bỏ toàn bộ công lực của
một La Hán, hạ sơn, độc cô hành Đông du về lại sông Lưu Sa xưa, làm một người
thường chài lưới trên sông nước, chiều chiều thổi một ống tiêu, nhấp một ngụm rượu,
nướng con cá nhỏ, và đợi một người đàn bà, lấy vợ sinh con… Sau nữa, thành thường
nhân rồi, qua Ngũ Hành Sơn, con sẽ hái được lá dấu gửi về cho Người.” Nhà văn
còn nói lên hiện thực của con người lúc bấy giờ “Nhạt nhẽo là thuộc tính thứ nhất của Con Người”.
Gồng gánh suốt đời là thuộc tính thứ hai của Con Người.
Có thể ăn thịt người khi đói khát cùng cực cũng lại là một thuộc tính của Con Người.
Qua đó thấy được cái nhìn sâu sắc của tác giả về cuộc đời, và những triết lý mà ông
muốn gửi gắm phần nào thông qua nhân vật Sa Tăng.
- Hình tượng đường tăng bị phá vỡ bởi những câu nói của những đứa trẻ con Miệng
ông ấy luôn bảo: Thật thà là căn cốt của người tu hành, nhưng chính ông ấy lại mở
đầu việc thâu nạp đồ đệ bằng một điều dối trá..., Khi mắc nạn vụ mấy quả nhân sâm,
ông ấy đã đe Tôn Ngộ Không: “Nếu không tìm được cách thoát thì ta lại niệm chú”...,
Ông ấy chỉ nhằm đạt mục đích của mình toàn bằng công sức người khác...
- Tôn ngộ không thì hành động theo bản năng, cười gãi như loài khỉ,..gãi tai cành cạch
rồi cười khẹc khẹc vang động.
- Trư bát giới thì ham ngủ,.có những tham vọng, ham muốn thể chất,..
Anh ta như chuông khánh còn chẳng ăn ai vì lốt khỉ, huống ta, mảnh chĩnh thối lốt lợn,
lười biếng, tham ăn, háu gái, còn bề bề in đậm trong tâm não lũ thường nhân này, thì lOMoAR cPSD| 23136115
còn ló mặt ra làm gì. Thôi, đi về tòa sen, làm một giấc ngủ ngày, há chẳng sung sướng tênh tang ơn sao?”
Và Hòa Vang nghĩ đến một nhân tình thế thái, trắng đen, phải trái lẫn lộn: “Ôi chao!
Nếu như ở tầng thế giới thường nhân không phân biệt được yêu quái với người thường
thì ắt táng gia, vong mạng; lầm lẫn Tiên Phật với ma quỷ thì không thể thóat thiên la
địa võng, trừng phạt khốc hại... ấy vậy mà, tu mãi, tu mãi, tu đến như ta đây là chưa
nhằm nhò gì, còn tu nữa, mãi nữa, thì sẽ đến một thái độ nhập cả ba: Tiên Phật, người
thường và yêu quái làm một”.
Nhà văn HV thức tỉnh người khác, và chính bản thân : “Này, Sa Tăng! Hãy khá nhìn
xem, chung quanh tất thảy các gương mặt đều hồng tươi nhuận sắc... Cớ sao riêng con
vóc hạc mình gầy, trán nhăn, má trũng?”. “Dạ! Thưa thống phụ chí tôn, ít lâu nay con
mắc chứng mất ngủ”. “Hơ! Mất ngủ! Mất ngủ ngay giữa cõi này? Sao lại đến nông nỗi
thế?”. “Dạ một ý nghĩ hành hạ con”. Ông suy tư trăn trở về cuộc đời, về những giá trị
của cuộc sống xung quanh ông. Trong cái xã hội này, còn rất nhiều điều để ông suy
ngẫm, những điều bí mật mà ông chưa thể nào khám phá hết được, đó là cái nhìn trắc
ẩn của nhà văn về cuộc đời
Trong truyện “Nhân sứ”, có ba bức tượng, một của Đường Tăng- sư già, hai của Ngộ
Không- con khỉ, ba của Trư Bát Giới- con lợn, tất cả đang u hoài nhìn theo con đường
xuống triền dốc, nơi Ngộ Tĩnh Sa Tăng là kẻ nhạt nhẽo, bé nhỏ nhất, phép lạ ít nhất,
nhưng là một con người đang đi về cõi làm người để ngộ quả chứng nhân. Đó là một
quan niệm trong cuộc đời sáng tác của ông, ông quan tâm đến những cái đơn giản, bình
thường nhưng lại rất cao quý, ông luôn theo đuổi những thứ tốt đẹp, những con người
mang vẻ đẹp từ nhân cách, vì suy cho cùng, mục đích duy nhất của con người là tìm
đến nhưngx giá trị tích cực, hướng tới những điều tốt đẹp trong nhân cách của con
người cũng như trong cuộc sống
Hòa Vang làm cho người đọc day dứt, dằn vặt, quay đi trở lại, lật lên đặt xuống cái định
nghĩa về con người. Con người là gì, muốn làm người thì con người phải sống ra sao giữa loài người
2. Phân tích các nội dung phê bình nữ quyền trong thơ Xuân Quỳnh. lOMoAR cPSD| 23136115
Trên cơ sở tiếp thu ảnh hưởng văn hóa và văn học phương Tây để sáng tạo nên.
Vẻ đẹp và quyền sống của người phụ nữ trong cuộc sống mới được văn học hiện đại
nhấn mạnh như là sức mạnh nữ giới mà mọi người phải tôn trọng, khiến cho nam giới
phải đề cao. Đó cũng là cách để từng bước thể hiện quyền bình đẳng của nữ giới so với
nam giới thời hiện đại. Đặc biệt trong thời này, nổi lên vai trò của phụ nữ làm thơ. Ý
thức nữ giới của họ trong thời cuộc bấy giờ có thể xem là tiếng nói nữ quyền bằng thơ
ca, với một lối viết nữ rất mới mẻ trong sáng tác của các nhà thơ nữ tiên phong. Điển
hình là nữ sĩ Xuân Quỳnh - với giọng thơ nhẹ nhàng mà độc đáo, giàu chất nữ tính,..
Phê bình nữ quyền (Feminist-criticism) được coi là một hiện tượng đáng chú ý
trong những năm 1970, đặc biệt ở Anh, Pháp và các nước Tây Âu khác. Nguyên của
phê bình nữ quyền là xem xét tác phẩm văn học trong mối quan hệ với phong trào giải
phóng phụ nữ trên thế giới. Lí thuyết chú trọng vào những vấn đề có liên quan đến
quyền của phụ nữ, đến đạo đức và chính trị của tác phẩm văn học. Trong quá khứ,
những thiết chế quyền lực bất bình đẳng giới trên thế giới tồn tại trong suốt một thời
gian dài, phụ nữ vẫn âm thầm vùng dậy đấu tranh giành quyền lợi chính đáng cho mình
nhưng dễ dàng bị dập tắt một cách tàn nhẫn. Vì vậy, khát khao khẳng định vị trí của
phụ nữ chỉ có thể được thể hiện một cách âm thầm và chậm chạp. Ngày nay, phong
trào đấu tranh cho quyền bình đẳng giới đang được hưởng ứng và cổ vũ tích cực ở
nhiều nơi trên thế giới. Có thể thấy, tùy vào hoàn cảnh xã hội cụ thể mà phong trào nữ
quyền ở các nước có cách thức đấu tranh khác nhau, nhưng nhìn chung, đấu tranh nữ
quyền về cơ bản là đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ trong kinh tế, văn hóa xã hội và tất
cả các mặt trong đời sống mà phụ nữ đang phải chịu thiệt thòi do. Trên phương diện
văn học, những người nghệ sỹ văn chương tập trung vào việc xây dựng hình tượng
nhân vật nữ với những đức tính đáng quý và thiên chức cao cả thiên chức làm mẹ, qua
đó tôn vinh, khẳng định vai trò của người phụ nữ trong mỗi gia đình nói riêng và toàn
xã hội nói chung là không thể thiếu. Bên cạnh đó, các nhà văn, nhà thơ cũng thể hiện
đời sống của người phụ nữ cả về vật chất lẫn tinh thần thông qua việc xây dựng tình
huống truyện, không gian bối cảnh, sự kiện. Nhờ đó, khát khao được khẳng định bản
thân, khát vọng về một cuộc sống tự do, bình đẳng của phụ nữ được đề cao.
Trên cơ sở tiếp thu ảnh hưởng văn hóa và văn học phương Tây để sáng tạo nên.
Vẻ đẹp và quyền sống của người phụ nữ trong cuộc sống mới được văn học hiện đại lOMoAR cPSD| 23136115
nhấn mạnh như là sức mạnh nữ giới mà mọi người phải tôn trọng, khiến cho nam giới
phải đề cao. Đó cũng là cách để từng bước thể hiện quyền bình đẳng của nữ giới so với
nam giới thời hiện đại. Đặc biệt trong thời này, nổi lên vai trò của phụ nữ làm thơ. Ý
thức nữ giới của họ trong thời cuộc bấy giờ có thể xem là tiếng nói nữ quyền bằng thơ
ca, với một lối viết nữ rất mới mẻ trong sáng tác của các nhà thơ nữ tiên phong. Điển
hình là nữ sĩ Xuân Quỳnh - với giọng thơ nhẹ nhàng mà độc đáo, giàu chất nữ tính,..
Hình tượng người phụ nữ trong thơ của Xuân Quỳnh, người phụ nữ gắn với những đặc
điểm thiên tính nữ, ngoại hình, tính cách: khao khát tình yêu đích thực, giàu đức hy
sinh,.. Trong Sóng, ta dễ dàng thấy được một nỗi nhớ nhung da diết, một sự khao khát
tình yêu chân thành vô cùng mãnh liệt thông qua hình tượng “sóng”, những đợt sóng
có lúc diệu êm, lặng lẽ khi thì lại dữ dội ồn ào, đó là những cung bậc tình cảm của một
người con gái khi yêu. Có thể nói khổ thơ thứ năm rất đăc sắc, đó chính là nỗi nhớ
nhung da diết em dành cho anh:̣
Con sóng trên măt nước ̣ Con sóng dưới lòng sâu Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức
Từ nỗi nhớ không thể nhìn thấy cho đến nỗi nhớ thấy rõ mồn môt, Xuân Quỳnh
đã ̣ rất thành công về viêc thể hiệ n nỗi nhớ của sóng, nỗi nhớ ấy rất mãnh liệ t và lâu
dài tồn tạị cả ngày lẫn đêm. Từ nỗi nhớ của sóng đối với bờ, Xuân Quỳnh liên hê đến
nỗi nhớ eṃ dành cho anh, nỗi nhớ ấy cũng không kém phần mãnh liêt so với nỗi nhớ
của sóng. Nỗị nhớ của em tồn tại trong ý thức, xen lẫn cả vào tiềm thức. Có ai đó đã
nói rằng nhớ chính là nhắc nhở mình đang yêu. Phải có yêu thì mới có nhớ, có yêu sâu
đâm thì mới nhớ mãnḥ liêt. Mộ t lần nữa, ta không thể phủ nhậ n nét đẹp tâm hồn người
phụ nữ trong tình yêu.̣ Tình yêu trong thơ của Xuân Quỳnh không chỉ được thể hiện
qua hình tượng con sóng, mà bên cạnh đó, tình ty của nữ sĩ còn được thể hiện qua các
hình ảnh như, trái tim, thuyền và biển, chẳng hạn như là lời của trái tim đến với trái lOMoAR cPSD| 23136115
tim, âm điệu ấy thật dạt dào, cuồng si và rất đỗi dễ thương của một người phụ nữ qua Tự hát:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Bằng sự ý thức giới tính, XQ đã đưa vào thơ những hình ảnh, tâm sự, tình cảm của
chính mình để cứu cánh. Nhà thơ gửi gắm vào thơ những vui buồn, trăn trở, âu lo,
cuồng nộ và cả những ích kỷ, nhỏ nhen của chính bản thân. Xuân Quỳnh đã trở về đúng
với bản thể của con người, chị sống thật với tình yêu của mình và nơi duy nhất đúng
để thể hiện cho lòng chân thành, thủy chung đó chính là trái tim của chị, một “trái tim”
không bao giờ biết dối lừa, trái tim bé nhỏ ấy đã biết sống đúng nghĩa với tình yêu của
mình, đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong cuộc đời của chị. Xuân
Quỳnh đã tự hát về trái tim “máu thịt” của mình không bao phủ vẻ hào nhoáng của
những điều giả dối, nó bộc lộ một tình yêu không biết khoa trương, trái tim ấy thật
dung dị, bình thường với một tình yêu đằm thắm luôn khao khát được hiến dâng cho người mình yêu
Thơ XQ ngoài đề tài với tình yêu, hình ảnh người mẹ cũng xuất hiện rất đều đặn
trong các tập thơ của nữ sĩ. Những bài thơ viết về tình mẹ con của chị như “Lời ru trên
mặt đất”, “Lời ru của mẹ”, “Mẹ của anh” viết về một thứ tình cảm đã quá quen thuộc
ngỡ như khó mà có thêm điều gì mới vào đấy nữa, mà rồi ra khi vào tay Xuân Quỳnh,
thơ vẫn mang đầy nét mới. Một câu thơ của nàng dâu Xuân Quỳnh viết mẹ chồng đã
đủ đánh đổ cái lề thói bất hòa giữa mẹ chồng nàng dâu muôn thuở, ấy là:
“Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em”
Đó là tấm lòng của con dâu dành cho người mẹ chồng, mà nữ sĩ xem như “mẹ”, Nói
yêu mẹ chồng mà không gượng gạo, vì được bảo lãnh bởi tình yêu chồng thắm thiết.
Từ những nhọc nhằn, từ những chắt chiu của ngày xa xưa mẹ đã sinh anh cho em, chính
vì vậy mẹ là ân nhân vĩ đại nhất của cuộc đời em. Anh yêu em bao nhiêu, anh tuyệt vời lOMoAR cPSD| 23136115
bao nhiêu, em càng ơn mẹ bấy nhiêu. Tình yêu của em giành cho anh tỉ lệ thuận với
tình cảm em giành cho mẹ. Mẹ của anh là bài thơ viết về tình cảm của con dành cho
mẹ, nhưng không chỉ như thế bài thơ còn là tình đời, tình người sâu sắc. Vượt qua mọi
giới hạn của thời gian, bài thơ mãi mãi thiêng liêng, mãi mãi có dư âm vang vọng trong
lòng bạn đọc chính vì giá trị nhân văn đẹp đẽ của nó.
Âm hưởng nữ tính còn xuất phát từ những gì mà Xuân Quỳnh đã trải qua trong
cuộc sống. Đó là một tuổi thơ mồ côi thiếu tình thương, lớn lên lại vấp ngã trong tình
yêu, hôn nhân. Trong các sáng tác của mình, chị nói về tình yêu, tình thương, lúc dạt
dào cháy bỏng, lúc lại khắc khoải bất an. Chị lúc nào cũng dự cảm lo âu, kể cả trong
lúc hạnh phúc viên mãn nhất. Xuân Quỳnh viết nhiều về tình cảm gia đình, về người
mẹ, về chồng, về con. Theo cái nhìn truyền thống, đấy là bản năng tự nhiên của người
phụ nữ. Nhưng trên hết, những vần thơ viết về gia đình của Xuân Quỳnh còn xuất phát
từ ẩn ức cá nhân. Tuổi thơ bơ vơ côi cút đã hằn in trong kí ức, trở thành nỗi ám ảnh
suốt một đời thơ. Nỗi đau mất mẹ, nỗi cơ cực của tuổi thơ côi cút trở thành một ẩn ức sâu sắc:
Tôi không có một căn phòng
Em đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ
Hái rau dền rau dệu nấu
canh Tập vá may, tết tóc một mình
Rồi úp mặt lên bàn tay khóc mẹ. (Bàn tay em)
Trong thơ Xuân Quỳnh, người ta thường nghĩ, chuyện thơ vận vào chuyện mình
hoặc ngược lại, nên thơ chị được nhiều bạn đọc thích thú bởi tính đồng hiện tâm trạng
trong thơ, của nhà thơ, của nhân vật nữ, hay của số đông tâm trạng phụ nữ đang yêu,
khao khát yêu,...Và nói chung, thơ chị là “tiếng lòng” nói thay những tâm sự rất “đàn
bà” của cả thế giới phụ nữ. Hình ảnh thơ mang tính dự báo, lo sợ về sự đổi thay về tình
yêu, số phận tình yêu qua những tính từ biểu cảm như: lo âu, cô đơn,...Ngay khi đang lOMoAR cPSD| 23136115
tâm trạng yêu đang trong kỳ thăng hoa nhất, tình yêu đang tràn đầy hạnh phúc viên
mãn thì vẫn không không nguôi ngoai những trăn trở, âu lo, bất ổn:
“Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi, …” (Nói với anh).
Hay trong Sóng, bài thơ mang vẻ đẹp của sự thủy chung, son sắt, khát khao được yêu
và hy sinh vì tình yêu, đó vừa mang vẻ đẹp của một người phụ nữ VN với những nét
truyềnt thống, vừa thể hiện được sự độc đáo, cá tính chủ động trong tình yêu của một
người phụ nữ hiện đại, những vẻ đẹp đó đã phần nào được XQ phác hoạ qua các bài
thơ của mình. Có lẽ chính từ đồng cảm đối với những người phụ nữ khi yêu mà XQ
mới có thể viết hay và thực như thế, nữ si đã viết lên những bài ca chạm tới tình người,
từ đó nữ sỹ xq còn ngợi ca hình tượng người phụ nữ VN với những vẻ đẹp về tâm hồn rất đáng chân quý.
Nhà thơ ý thức về giới nữ và quyền bình đẳng nữ giới cụ thể hơn và lý tính hơn.
Họ có cách cảm nhận khác và ý thức khác về vai trò, địa vị của mình trong cuộc sống
hiện đại của thời bình. Họ không còn ám ảnh và chịu tác động từ hậu quả chiến tranh
quá khứ như các nhà thơ lớp trước. Giờ đây, văn - thơ nữ trẻ đã làm nên một bước ngoặt
mới trong cách nhìn nghệ thuật về phái tính và âm hưởng nữ quyền so với văn - thơ nữ trước đó
1. Phân tích một số phương diện nghệ thuật trần thuật trong tập truyện Không ai
qua sông của Nguyễn Ngọc Tư.
Phân tích một số phương diện nghệ thuật trần thuật trong tập truyện Không ai qua
sông của Nguyễn Ngọc Tư.
Nghệ thuật trần thuật?
Trần thuật là một phương diện nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Nó quyết định đến sự
thành công của một tác phẩm Các phương diện?
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Nguyễn Ngọc Tư – Nhà văn của mộc mạc và bình dị thôn quê lOMoAR cPSD| 23136115
Tập truyện là 13 truyện ngắn, đưa người đọc len lỏi khắp xóm làng của miền sông nước
để sống cùng với những mảnh đời đơn độc. Những nhân vật của chị cũng quanh quẩn
với cái tên thường gọi ở Nam bộ: chị Hai, chị Tám, thằng Sáu,…
Chủ thể - ngôi kể: thứ nhất hoăc thứ 3
Tập truyện không ai qua sông, sử dụng đồng thời 2 ngôi kể, nhưng ngôi thứ 3 được sử
dụng nhiều hơn. Ở truyện ngắn Vực không đáy, tác giả sử dụng ngôi kể thư 3, các sự
kiện, các mối liên hệ về nhân vât được tác giả nhìn nhận từ một góc độ bên ngoài, tác
giả giấu mình, không trực tiếp tham gia vào các hành động trong truyện, tuy không
xuất hiện trực tiếp, nhưng tác giả dường như có mặt xuyên suốt trong mạch truyện,
việc sử dụng ngôi kể thứ 3 trong tác phẩm của mình, NNT muốn cho người đọc mọt
cái nhìn khách quan hơn về nhân vật của mình, thông qua việc khắc họa nhân vật bằng
hành động, lời nói biểu thị tính cách mà không phải bó buộc suy nghĩ người đọc thông
qua cách kể ở ngôi thứ nhất. Qua việc lựa chọn ngôi kể thứ 3, giúp ta thấy được những
suy nghĩ của nhà văn đối với nhân vật của mình, nhà văn miêu tả, khắc họa nhân vật
ấy đồng thời đưa ra những ý kiến, suy nghĩ bình phẩm về nhân vật của mình. Ngoài ra
ta còn có thấy sự xuất hiện của ngôi kể thứ nhất, như ở truyện ngắn nhổ quá, tác giả
xưng tôi, kể về câu chuyện ở quán cơm của cô Mười, mở quán nhưng thực ra đó là câu
chuyện tình cảm của nhân vật Mười, chỉ vì có tình ý với anh Cao Bồi, mà chị bán cơm
nhưng không cần khách, vì trong đầu chỉ bán cơm chỉ để cho Cao Bồi ăn, cô chăm sóc
anh một cách tận tâm. Ở ngôi kể này, người kể xưng tôi có cơ hội được tham gia vào
câu chuyện, thêm thế nữa, việc sử dụng ngôi kể thứ 3 còn tạo nên sự chân thực, đáng
tin cho tác phẩm, bởi ở ngôi kể này, truyện được kể lại là những câu chuyện được tác
giả, nghe, nhìn thấy, hoặc người kể là chính nhân vật trong truyện.
Dù là ở ngôi kể nào đi chăng nữa, ngôi kể vẫn tham gia vào sự thành công của truyện.
Điểm nhìn bên ngoài.
Về mặt lí luận có thể hiểu điểm nhìn bên trong là sự quan sát nhân vật từ cảm nhận nội
tâm của mình. Điểm nhìn bên ngoài luôn tạo ra khoảng cách giữa người trần thuật và
nhân vật. Vì vậy, Nuyễn Ngọc Tư chọn điểm nhìn này với mục đích để người trần thuật
sẽ có cái nhìn khách quan, tỉnh táo kể lại, tả lại các nhân vật và sự kiện. Từ đó làm nổi
bật những khía cạnh khác nhau của bức tranh xã hội phong phú đa dạng. Do đa phần lOMoAR cPSD| 23136115
các truyện ngắn trong tập truyện Không ai qua sông đều sử dụng ngôi kể thứ 3, nên
điềm nhìn bên ngoài cũng được khắc họa một cách sâu sắc. Ở điểm nhìn này tác giả
dường như biết tường tận mọi truyện và đồng hành xuyên suốt trong tác phẩm của
mình. Nếu điểm nhìn bên trong của nhân vật Tím là một con người với hoàn cảnh bất
hạnh, bởi chị bị xâm hại bởi một người đàn ông nào đó, và lúc nào cũng trong tâm thế
xem xét các sự việc xảy ra xung quanh mình để tìm ra kẻ tàn bạo ấy. Thì điểm nhìn bên
ngoài lại cho thấy một cô gái với những hành động kì lạ, khó hiểu, lúc nào cũng quan
sát xem xung quanh, nhìn vào nét mặt, xem từng cái nút áo của mọi người xung quanh
cô. Hay nhân vật bào lão trong vực không đáy, tác giả nhìn nhận nhân vật thông qua
cách miêu tả ngoại hình, ...
Lựa chọn điểm nhìn bên ngoài, để tô đậm tính khách quan hiện thực. Mặc dù chọn trần
thuật khách quan, nhưng người kể chuyện không hoàn toàn lạnh lùng. Trong tác phẩm
bằng cách này hay cách khác, khi trực tiếp lúc gián tiếp, chủ thể trần thuật vẫn khéo
léo bộc lộ cảm xúc của mình trước những sự việc mà mình mô tả. Giọng điệu.
Giọng điệu là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ, gắn với phong cách
nhà văn, một phương diện cơ bản tạo nên hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Một mặt,
giọng điệu có vai trò liên kết các yếu tố hình thức tác phẩm tạo thành một âm hưởng,
một tiếng nói với nhiều cấp độ, mặt khác nó biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế và tình
cảm của chủ thể phát ngôn qua lời văn nghệ thuật.
Giọng châm biếm là nhà văn của thôn quê, NNT luôn biết cách dùng những hình ảnh
nông thôn ấy để phê phán hiện thực cuộc sống đầy châm chọc, tuy đơn giản, mộc mạc
nhưng qua từng tập thơ là cả một sự đấu tranh, phê phán. Chị thẳng thắn đả kích thứ
“sượng sùng diễn một ân tình dàn dượng theo lý lẽ nhà báo” mà bỏ qua tình cảm thực
sự trong truyện ngắn Thầm hay miêu tả một cái ao đã cạn khô nước bởi “từ khi người
ta dọn sạch đám rừng cạnh ao để xây dựng hoang phí tượng đài đồ xộ” đụng mạch
nước ngầm. Nhưng qua đó, nhà văn cũng có cái nhưng đầy thương xót, bàng hoàng khi
nhận ra được nhiều mặt trái của xã hội. Người nông dân chân chất, thật thà cũng bị
cuốn theo những vòng xoay đó mà tha hóa, hại nhau, kẻ xấu người tốt mong manh như lOMoAR cPSD| 23136115
sợi chỉ nhỏ. Như trong Đất, tác phẩm đặc sắc nhất của tập truyện ngắn, từ nhưungx con
người hiền lành, vì Đất mà họ biến chất, trở nên hung tợn nhiều mưu đồ hơn.
Giọng triết lý, xót thương, đồng cảm ta có thể thấy rõ điều đó qua tập tuyện của
NNT, nhà văn chia đều cảm xúc cho 2 đề tài trong tập truyện, một nửa viết về con
người sông nước, nửa kia mô tả đời sống sinh hoạt bình thường của cư dân nơi xóm
nhỏ. Tác giả xót thương trước số phận của những người phụ nữ với hạnh phúc chưa
được trọn vẹn, người phụ nữ với những áp bức, những thiếu thốn trong mảnh ghép của
cuộc đời họ. Đó là cuộc đời không cha không mẹ, từ nhỏ phải sống tròn cảnh mồ côi,
hay Tím người đàn bà mang vẻ đẹp của sự hy sinh, chấp nhận đánh đổi tất cả, bám trụ
tại nơi xóm nhỏ để vạch mặt kẻ thủ ác đã hại đời con gái. Hay đó là hình ảnh chống lại
nạn bạo hành phụ nữ, tiếng kêu phản kháng 1 cách đầy yếu ớt qua TN Không ai qua
sông,..ngoài ra, Nhà văn còn nói lên số phận đau khổ của Thiếp, chỉ vì lỡ lầm trong
quá khứ “bỏ nhà, bỏ chồng con, trốn đi theo anh lơ xe, không đem theo món gì”. Còn
Trầm thì khốn khổ hơn, chị đang cấn bầu đứa con thứ ba và cả ba đứa con ấy đều là
những đứa trẻ không cha. qua đó tác gải cho ta thấy cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc đời,
đặc biệt là sự thể hiện của hình ảnh người phụ nữ qua góc nhìn của NNT, đồn thời ngợi
ca phẩm chất của người phụ nữ, thương iu chồng con, hy sinh, cam chịu,..
Ngoài ra, ngôn ngữ trong truyện ngắn mang âm hưởng của miền Nam, một trong những
nét độc đáo nhất trong văn hóa Nam Bộ được thể hiện trong tất cả các sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư là việc sử dụng các phương ngữ địa phương đậm đặc. Nguyễn Ngọc
Tư không ngại đưa những từ ngữ vùng miền vào trong các sáng tác có tính phổ biến
toàn dân của mình như: giọng giòn rụm, kêu má, mình ên, má mình đang rinh chữ
không nên đánh phụ nữ bằng một cành hoa; Út Lẹ lượm mấy trái bàng khô chọi dạt
đám con nít khỏi đoàn người; Điện thoại trong túi chị nào cứ nhấp nhổm đổ chuông,
nghe nôn ruột…. Cách sử dụng phương ngữ khéo léo, tinh tế, tự nhiên khiến bạn đọc
ở miền Bắc hay miền Trung đọc không cảm thấy xa lạ, không chỉ hiểu rõ nghĩa mà còn
vô cùng thích thú chất “ngọt lịm” trong ngôn ngữ của người phương Nam. Nguyễn
Ngọc Tư chắt lọc ngôn ngữ từ cuộc sống đưa vào trong văn học một cách thản nhiên,
nhẹ nhàng, không hề khiên cưỡng. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, không khoa trương
vòng vo mà đi thẳng vào vấn đề lOMoAR cPSD| 23136115
2. Phân tích không gian nghệ thuật trong Bến trần gian (Lưu Sơn Minh)?
Lưu Minh Sơn là cây bút thành công khá sớm với tác phảm Bến trần gian được
giải thưởng Tạp chí Văn nghệ quân đội 1994. Đề tai chủ yếu của ông là đề tài về lịch sử, kháng chiến,..
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Đó là không
gian tồn tại, sinh hoạt của nhân vật, là bối cảnh để nhân vật thể hiện tính cách suy nghĩ,
hành động… không gian nghệ thuật còn là nền, cảnh cho những sự kiện …”
Không gian trong Bến trần gian là nơi thể hiện sự sống, khát vọng sống của con
người, được thể hiện chủ yếu ở không quan bến sông, hình ảnh chiếc thuyền được nhân
vật Thùy chèo, như mong muốn về một cuộc sống tốt đẹp, đưa con người đến những
mong muốn, mà cụ thể chiếc thuyền đã đưa Lăng qua sông để trở về gặp bà cụ lần cuối.
Nhưng ở tác phẩm, chị đã để mặc thuyền xuôi theo dòng nước, không còn những mong
muốn một cuộc sống không bị ràng buộc nữa, mà đã để con thuyền xuôi theo dòng
xoáy của định mệnh, con thuyền trôi dần vào bóng tối của cây si.
Bối cảnh thiên nhiên
Trong sáng tác, các nhà văn thường chú ý miêu tả thiên nhiên. Chọn thiên nhiên
làm không gian để trải lòng bao cảm xúc, tâm tư tình cảm ẩn khuất bên trong. Thiên
nhiên gắn bó mật thiết như một người bạn thân tình trong đời sống con người, làm nền
để nổi bật sự kiện, hoàn cảnh, con người trong tác phẩm. Trong tác phẩm Bến trần gian,
bối cảnh thiên nhiên được miêu tả chủ yếu qua các hình ảnh cây si, khu rừng, dòng sông, ánh trăng,..
Bối cảnh thiên nhiên còn gắn với tâm trạng của người kể, tạo cảm hứng cho người
kể, người đọc. Đồng thời, nhờ những bối cảnh thiên nhiên miêu tả đan xen trong tác
phẩm mà chúng ta thấy tác phẩm như có thêm sự mượt mà của cuộc sống, bởi truyện
sẽ rất khô khan, nhạt nhẽo nếu chỉ diễn ra hết sự kiện này đến sự kiện khác. Bối cảnh xã hội
Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội được xây dựng bằng ngôn từ
thông qua cái nhìn chủ quan, sáng tạo của tác giả. Cho nên bao giờ tác phẩm cũng có
một bối cảnh xã hội nhất định. Bối cảnh xã hội trong tác phẩm có tính bao quát rộng lOMoAR cPSD| 23136115
lớn, lại rất đa dạng. Có khi, bối cảnh xã hội trong tác phẩm đồng thời là hoàn cảnh xã
hội mà tác phẩm ra đời được tái hiện, cũng có khi bối cảnh đó được các tác giả tập họp
từ nhiều hoàn cảnh khác nhau, sáng tạo bằng sự trải nghiệm thực tế và bằng cảm nhận
của bản thân để truyền đạt một dụng ý nghệ thuật nào đó.
Trong tác phẩm, không gian bối cảnh xã hội là nơi diễn ra các mối quan hệ xã
hội, cuộc sống của mọi tầng lớp mà tác giả muốn phản ánh. Đồng thời cũng thể hiện
hoàn cảnh và số phận con người trước những tác động của xã hội đó.
Không gian sự kiện
Không gian của những sự kiện xảy ra trong đời sống hàng ngày có tác động đến
nhân vật và gây ra những sự kiện khác.
Không gian trong tác phẩm rất đa dạng, không gian nghệ thuật trong tác phẩm một
không gian nghệ thuật khá đa dạng Nó là kiểu không gian nửa thực nửa ảo, cái thực và
ảo đan cải vào nhau nhằm bộc lộ những tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Trước hềt là
không gian gia đình, ở đó có bà cụ Lăng, có Thùy những người mả Lăng yêu thương,
mỏi mòn chờ đời: “Anh đã đi mấy chục năm mà vẫn luần quần trong rừng”, “mấy chục
năm rồi, nhanh lên, tôi không thể đứng đây được nữa”, “xin đừng đưa tôi về xứ của
ma, tôi còn phải về thăm u, mấy chục năm rồi...” để được gặp lại. Cứ như thế, khát
khao “hoài vọng cố hương” của Lăng như một dư ba xoáy say vào cõi lòng người đọc.
Tiếp nói là không gian bến sông được nhà văn kiến tạo nên nhằm góp phần phục dựng
bi kịch của người sau cuộc chiến. Bến sông như một tác nhân kéo dài, khơi sâu nối bắt
hạnh và bi kịch của đời Lăng: tuổi xuân mãi miết xuôi dòng, còn niềm vui, hạnh phúc
bình dị thì như con đò bỏ bến sang ngang. Nếu không giian bến sông là nơi diễn ra
cuộc gặp gỡ của Lăng và mẹ Lăng thì Không gian ở rừng, nơi mà Lăng gặp được ông
già tóc bạc tặng cho chiếc lá để có thể trở về gặp mẹ. Tuy không được miêu tả một cách
thoát qua, nhưng không quan ấy cũng tạo nên các sự việc sau đó, là cầu nối cho cuộc
gặp gỡ giữa lăng và mẹ được phát triển. Không chỉ thế, một không gian tuy khong rõ
nét những cũng góp phần tạo nên màu sắc huyề bí cho tác phẩm, đó là sự hiện diện của
một không gian mang ám ảnh huyền thoại, ma quái. Trong Bền trằn gian, không gian
của cõi trần thế mang không khí hư ảo. Cuộc gặp gỡ giữa hồn ma (Lăng) và người (mẹ
Lăng) ở bến sông được tạo nên từ ý thức của nhà văn. Đó là sự nhập nhòe đồng hiện lOMoAR cPSD| 23136115
cõi trần và cối âm, giữa ma và người. Nơi đó có sự giao hòa giữ hai thế giới âm dương
và con đò sẽ là cầu nối đưa người chết trở về gặp lại người thân của mình. Một bến
sông nơi trần gian nhưng huyễn hoặc, đầy sức ám ảnh giúp người đọc lằn bước đi vào
những khúc quanh tâm trạng và khám phá tằng sâu vô thức của con người.
Ngoài ra còn có sự xuất hiện của không gian tâm lý. Không gian tâm lý là không gian
xuất hiện trong suy nghĩ, tâm thức nhân vật. Trong tác phẩm, không gian này xuất hiện
chủ yếu qua dòng hồi nhớ của nhân vật Lăng Ngày xưa có một người con gái chết
đuối,.. nhớ về những ngày còn bé, bà thường kể cho anh nghe ở bến sông có ma với
tiếng ma gọi đò,,.. thêm vào đó là những ký ức của mẹ lăng về lăng bà nhớ lại đêm
trước thằng Lăng đi bộ đội sau khi đi hội điễn từ ngoài đình trở về, nó lặng lẽ ngồi dầu hè thổi sáo đến sáng
7. Phê bình sinh thái MB:
Phê bình sinh thái (Ecocriticism) là thuật ngữ bao gồm tiền tố “eco-” (sinh thái)
và “criticism” (sự phê bình). Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ
Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết, khoa học). Hiểu theo
nguyên gốc thì sinh thái học là khoa nghiên cứu về “nhà”, “nơi ở” của sinh vật. Mặt
khác, hiểu một cách rộng hơn thì sinh thái học là khoa nghiên cứu mối quan hệ giữa
sinh vật hoặc nhóm hay nhiều sinh vật với môi trường xung quanh. Thuật ngữ “sinh
thái học”chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật học người Đức Ernst Haecker
đưa ra. Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học sinh thái về mối tương
quan giữa động vật với các thành phần môi trường vô sinh. Trải qua hàng trăm năm
phát triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa nhưng chung nhất vẫn là học thuyết
nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh vật, mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và
môi trường xung quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ tồn tại trong sinh học mà
nó còn là khoa học của nhiều ngành khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn.