Lý thuyết Chương 2 ôn tập - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng
Trên thế giới:Liên Xô trở thành thành thành trì của chủ nghĩa xã hội;Nhiều nước ở Đông, Trung Âu lựa chọn con đường phát triển theochủ nghĩa xã hội (được Liên Xô ủng hộ và giúp đỡ);Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dâng cao (ChâuÁ, Châu Phi, Mỹ Latinh). Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐT121)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHƯƠNG 2
1. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Thuận lợi: o Trên thế giới:
Liên Xô trở thành thành thành trì của chủ nghĩa xã hội;
Nhiều nước ở Đông, Trung Âu lựa chọn con đường phát triển theo
chủ nghĩa xã hội (được Liên Xô ủng hộ và giúp đỡ);
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dâng cao (Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh);
Tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; khuyến
khích các nước thuộc địa đứng lên giải phóng dân tộc hướng tới xây dựng
một nhà nước chủ nghĩa xã hội. o Tại Việt Nam:
Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do; nhân dân thoát khỏi thân
phận nô lệ bị áp bức, trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới;
Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong nước;
Hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất
từ cấp Trung ương đến cơ sở;
Quân đội quốc gia, lực lượng công an, luật pháp của chính quyền
cách mạng được khẩn trương xây dựng.
Tất cả là để ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Phát huy vai trò
của Đảng đối với cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chế độ mới. Khó khăn: o Thế giới:
Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống
thuộc địa thế giới” (bằng chứng: ra sức tấn công và đàn áp phong
trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam);
Các nước lớn trên thế giới không ủng hộ lập trường độc lập và địa vị
pháp lý của VNDCCH (do lợi ích cục bộ);
Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây
cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài
Cách mạng 3 nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng
phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách. o Tại Việt Nam:
Hệ thống chính quyền cách mạng mới còn rất non trẻ, thiếu hệ thống
và yếu kém về nhiều mặt;
Hậu quả của chế độ cũ để lại vô cùng nặng nề: Lũ lụt tàn phá (đê
điều không được chăm lo); nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người dân
chết đói; 50% ruộng đất bị bỏ hoang (trong khi Việt Nam thời điểm
đó là một nước sống nhờ vào nông nghiệp); tài chính, ngân khố kiệt
quệ, kho bạc trống rỗng; tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, thói hư tật xấu
chưa bị bài trừ và khắc phục…
Thúc đẩy Đảng phải nhanh chóng đưa ra những quyết định và hướng giải
quyết phù hợp nhất.
2. Phân tích nội dung Chủ trương kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1925. Kết
quả thực biện biện pháp hoá với thực dân Pháp?
Nội dung Chủ trương “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25/11/1925:
a. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” chỉ rõ: “Cách mạng Đông Dương lúc này
vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó
chưa hoàn thành vì cả nước ta chưa được hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ cứu nước của giai
cấp vô sản chưa kết thúc. Vì thế giai cấp vô sản vẫn phải hǎng hái, kiên quyết đến cùng
để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy.
Khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” b. Xác định kẻ thù
Trước cách mạng, chúng ta xác định kẻ thù là thực dân Pháp, đến khi Nhật xâm
chiếm nước ta thì nước ta xác định kẻ thù là Pháp – Nhật. Sau khi Nhật đảo chính Pháp,
chiếm đóng nước ta thì Đảng ta lại xác định kẻ thù chính là phát xít Nhật, hoạt động
kháng Nhật cứu nước được đẩy lên cao trào. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, sự đầu hàng của
Đế quốc Nhật được Thiên hoàng Hirohito tuyên bố và chiến tranh Thế giới thứ hai chính thức kết thúc.
Đến sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta có rất nhiều kẻ thù: quân Nhật chưa rút
hết, thực dân Pháp vẫn đóng quân ở Việt Nam, phía Bắc là quân Tưởng, phía nam là quân
Anh ồ ạt kéo vào nước ta. Nhưng quân Nhật đã thất bại trong chiến tranh Thế giới, chịu
tổn thất nặng nề và sẽ sớm rút lui về nước hoàn toàn. Quân Tưởng Giới Thạch mặc dù có
âm mưu chiếm đóng nước ta, thiết lập chế độ tay sai nhưng mục đích chính của chúng là
ở Trung Quốc. Còn đối với quân Anh, mục tiêu chính của chúng là chiếm được hoàn toàn
thuộc địa ở Ấn Độ, ở Châu Phi chứ không phải Đông Dương.
c. Phương hướng nhiệm vụ
Chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chính như sau: - Về chính trị
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sức dân để xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng. Bên cạnh đó tiến hành cải tổ chính phủ, sửa đổi cách làm việc
của chính quyền nhân dân địa phương trước khi tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội,
lập Chính phủ chính thức và ban hành Hiến pháp. - Về quân sự
Liên tục động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến, dùng lối đánh du kích
với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng
chiến tranh du kích ở Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành chính sách
bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ và thi hành “nhà không đồng vắng” nếu
quân Pháp tràn về quê. Điều cốt yếu là phải duy trì liên lạc giữa các khu vực tác chiến để
thống nhất chỉ huy. Bất cứ nơi nào rút khỏi thành phố, quân ta phải chiếm giữ những địa
điểm chiến lược để tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Các vùng chiến tranh chưa lan đến
cũng phải chuẩn bị đối phó khi tiến khi lui, kế hoạch tiến công cũng như kế hoạch rút lui
cũng phải hết sức chu đáo, kỹ lưỡng. - Về ngoại giao
Kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”.
Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và
“muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Đối với Tưởng thì chủ
trương Hoa– Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
Tận dụng khả năng hòa hoãn, đàm phán để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân.
Đồng thời vẫn đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả
nước khi có kẻ địch bội ước. - Về kinh tế tài chính
Cho phép các xí nghiệp bị phát xít Nhật bỏ hoang hoạt động lại, khai thác hầm mỏ,
cho phép tư nhân đầu tư vốn vào kinh doanh các xí nghiệp, hầm mỏ này, khuyến khích
giới công thương thành lập hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia công cuộc tái thiết
đất nước. Đẩy mạnh cách mạng tăng gia sản xuất, chống đói theo phương châm: “Tấc đất
là tấc vàng”, “Nhường cơm sẻ áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc”.
Kêu gọi lòng yêu nước thương của đồng bào, thành lập quỹ cứu trợ, xây dựng kho thóc
cứu trợ, tổ chức “bữa cháo cầm hơi”… Khuyến khích thanh niên tự tổ chức thành các
“cứu đói”, và các “đội quân trừ giặc đói” để trồng trọt, lấy lương thực cho dân nghèo
hoặc quyên góp cho các quỹ cứu trợ, tổ chức tiếp tế, mua gạo của người giàu và bán rẻ
cho người nghèo, chuyên chở gạo từ chỗ thừa sang chỗ thiếu.
Thực hiện khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc “Cụ
Hồ”, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh, định lại ngạch thuế, xây dựng nền tài chính độc lập. - Về văn hóa xã hội
Tổ chức bình dân học vụ, tích cực xóa mù chữ, mở các trường đại học, phổ thông
trung học, cải cách việc học với tinh thần mới, xóa bỏ cách dạy học nhồi nhét, tuyển
truyền cổ động văn hóa cứu, xây dựng nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học
hóa, dân tộc hóa và đại chúng hóa.
Khuyến khích sản xuất nông nghiệp, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau để
tiếp tục cấy cày như thường, “Tấc đất tấc vàng”, tổ chức tiếp tế, ngăn cấm đầu cơ tích trữ,
tổ chức cứu trợ dân nghèo, thực hành khẩu hiệu “sẻ cơm nhường áo” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Về phần Chính phủ, phải lo nhập cảng ngũ cốc. Những công việc trên đây,
muốn các kết quả, các đồng chí phải hết sức vận động các tầng lớp phú hào, địa chủ tham gia cùng. d. Biện pháp cụ thể
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những
nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển: Về
Đảng, cần duy trì hệ thống tổ chức bí mật hoặc nửa công khai, kết nạp thêm đảng viên
mới, tập trung gây dựng thêm cơ sở Đảng đoàn thể, mở rộng các tổ chức nghiên cứu chủ
nghĩa Mác, bao gồm cả những người có khuynh hướng cộng sản hoặc có cảm tình với tổ
chức, nhưng phải do những người cộng sản kiểm soát. Trong công tác phát triển đảng
viên và củng cố tổ chức đảng, Chỉ thị nêu rõ phải tránh cả hai khuynh hướng: ở một số
nơi tổ chức Đảng quá hẹp, quá chậm, chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi.
Về Mặt trận Việt Minh, cố gắng hết sức có thể để phát triển các tổ chức cứu quốc, liên
kết các tổ chức này lên toàn kì, toàn quốc. Sửa đổi điều lệ cho các tổ chức cứu quốc để
thích ứng với hoàn cảnh mới, mở rộng Mặt trận Việt Minh, thành lập các tổ chức cứu
quốc mới, giải quyết mâu thuẫn giữa Ủy ban nhân dân và Ủy ban Việt Minh, củng cố sự
lãnh đạo của Đảng ở Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào- Campuchia chống
thực dân Pháp xâm lược. Tổng bộ Việt Minh phải thành lập một bộ tuyên truyền để điều
khiển các tờ báo trong mặt trận và ra một loại sách phổ thông của mặt trận. Những người
cộng sản bắt buộc phải vào các đoàn thể cứu quốc mà làm việc, và vận dụng trong các ủy
ban Việt Minh ở địa phương cũng như trong Tổng bộ Việt Minh cho đến trên toàn quốc.
Củng cố các đảng đoàn trong các đoàn thể mặt trận và do đó duy trì và củng cố được
quyền lãnh đạo mặt trận.
3. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ cuộc kháng chiến và quá trình hình thành nội
dung cơ bản đường lối tháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
- Âm mưu của thực dân Pháp
Trong giai đoạn sau năm 1945, để tránh tình hình bất lợi , (phải chiến đấu cùng lúc
với quân Tưởng và quân đồng minh) thì nước ta đã chủ động hòa hoãn với Pháp thông
qua Hiệp định Sơ bộ (06/03/1946) và sau đó là bản Tạm Ước Việt Pháp (14/09/1946).
Trong hoàn cảnh đất nước khó khăn cả về kinh tế, xã hội, thù trong, giặc ngoài ra sức
chống phá, vận mệnh dân tộc như “ ngàn cân treo sợi tóc” thì việc kí 2 hiệp định nói trên
là nước cờ ngoại giao vô cùng xuất sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặc dù nước
ta đã thực hiện nghiêm chỉnh hiệp ước, nhưng thực dân pháp thì không. Chúng đã tăng
cường hành động khiêu khích với âm mưu xâm lược nước ta lâu dài.
01/06/1946 : Chúng lập ra chính phủ Nam Kì tự trị do Nguyễn Văn Thinh cầm
đầu, nhằm tách Nam Kì ra khỏi nước Việt Nam thống nhất
Tháng 11/1946 : Pháp khiêu khích tiến công ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn
Đầu tháng 12/1946 : quân Pháp liên tiếp gây xung đột với công an và tự vệ
của ta, chúng bắn đại bác vào khu phố Hàng Bún, chiếm trụ sở Bộ Tài chính
và một số cơ quan khác của ta
18/12/1946 : thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta buộc ta giải tán
lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng
- Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ trên cả nước
Có thể thấy rõ rằng ngay từ đầu Pháp đã không có ý định làm theo hiệp ước và
quyết tâm cướp nước ta 1 lần nữa.
Trước những hành động xâm lược của thực dân pháp,nhân dân ta chỉ có một con
đường cầm vũ khí kháng chiến để bảo vệ độc lập tự do.
Sau cuộc họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động toàn quốc
kháng chiến. Ngay trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung
ương Đảng và chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Vào lúc 20 giờ ngày
19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loại nổ súng. Cuộc kháng
chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ
4. Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thức dân Pháp, chú ý
phương châm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nội dung đường lối kháng chiến chống thức dân Pháp
Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám,
"Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập". (Đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược là mục tiêu thiết yếu trong giai đoạn này, vì thực dân
Pháp quay trở lại nhằm đô hộ VN 1 lần nữa. Chỉ khi đánh thắng thực dân pháp
mới có thể giải phóng, giành độc lập dân tộc và thống nhất 2 đầu đất nước).
Tính chất kháng chiến: là cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa,
chiến tranh vì độc lập, tự do, dân chủ tổ quốc. Vậy đây là cuộc kháng chiến có tính
chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. (Kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, cuộc kháng chiến này hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở rộng và
củng cố chế độ cộng hoà dân chủ Việt Nam phát triển trên nền tảng dân chủ mới.
Cho nên cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.)
Nhiệm vụ kháng chiến: Đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập và thống nhất về
cho dân tộc. Từng bước tiến hành chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng
sức dân, củng cố khối liên minh công nông, phân hóa cô lập kẻ thù. Ngoài ra
nhiệm vụ kháng chiến còn là bảo về hòa bình thế giới.
Phương châm tiến hành kháng chiến: o
Kháng chiến toàn dân: đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân. Xây dựng
đồng thuận nhất trí cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc thực hiện “mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi đường phố là 1 mặt trận”.
o Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao. Trong đó mặt trận quân sự và vũ trang là mũi nhọn, mang tính quyết định. o Kháng chiến lâu dài
o Dựa vào sức mình là chính o
Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
5. Những điểm mới trong Đại hội II của Đảng (2/1951)
Trong Đại hội Đại biểu lần thứ hai của Đảng Cộng sản Đông Dương (2/1951) có điểm
mới đó là Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên là Đảng Lao động
Việt Nam tiếp tục đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
6. Đẩy mạnh phát triển kháng chiến về mọi mặt a. Về chính trị:
- Ngày 03/03/1951, Đại Hội thống nhất hai mặt trận Việt Minh và Hội liên Hiệp
Quốc; Dân Việt Nam là Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt Mặt trận Liên Việt);
- Đảng Lao động Việt Nam chính thức ra mắt đại biểu nhân dân tham dự đại hội;
- Ngày 11/03/1951 thành lập “Liên minh nhân dân Việt- Miên – Lào”. b. Về kinh tế:
- Năm 1952 mở cuộc vận động lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm;
- Chấn chỉnh chế độ thuế khóa, xây dựng nền tài chính, ngân hàng và thương nghiệp;
- Giảm tô và “Luật cải cách ruộng đất” đợt 1 : tháng 12/1953 (Ngày 04/12/1953, tại
kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật cải cách ruộng đất và ngày
19/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh Luật cải cách ruộng đất).
c. Về văn hóa, giáo dục, y tế:
- Cải cách giáo dục từ tháng 07/1950, để phục vụ kháng chiến , phục vụ sản xuất , phục vụ dân sinh;
- Bài trừ nạn mê tín, dị đoan;
- Bệnh viện, trạm y tế xây ở nhiều nơi.
d. Phong trào thi đua yêu nước:
- Ngày 1-5-1952, Đại Hội Chiến sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần
thứ I khai mạc tại Việt Bắc chọn được 7 anh hùng.
7. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến - Ý nghĩa lịch sử: Đối với thế giới:
Thắng lợi của nhân dân ta và thất bại của đế quốc Mĩ có tác động lớn đến nội bộ
nước Mĩ và cục diện thế giới, có ảnh hưởng và là nguồn cổ vũ lớn đối với phong trào
cách mạng trên thế giới, các dân tộc đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc để tự giải phóng cho mình.
Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã được Đảng
ta khẳng định “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói
lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn- thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX,
một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và có tính thời đại sâu sắc” Đối với Việt Nam:
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu
chống Mĩ cứu nước, đồng thời kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng
(1945 - 1975), chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong
kiến, rửa sạch nỗi nhục và nỗi đau mất nước hơn 1 thế kỷ qua. Trên cơ sở đó, hoàn thành
về cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ thành công chủ
nghĩa xã hội của miền Bắc, xóa bỏ mọi cản trở trên con đường thống nhất nước nhà.
Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên độc lập dân tộc
và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
- Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến
Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Đó là một quyết tâm vĩ đại được khẳng định từ đầu và luôn luôn kiên định trong suốt
cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quyết tâm ấy được bắt nguồn từ long yêu nước nồng nàn, ý
kiến kiên cường bất khuất, ý thức làm chủ vận mệnh đất nước của người Việt Nam, được
hun đúc từ ngàn đời nay.
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.
Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối
quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta”. Đường lối đó được thể hiện
trong một loạt chủ trương mang tính hệ thống, kết hợp những vấn đề về nguyên tắc, chiến
lược với những vấn đề về sách lược và phương pháp, hình thành một giải pháp tối ưu đưa
cách mạng và kháng chiến tiến lên một cách vững chắc, từ giai đoạn mở đầu đến giai
đoạn kết thúc. Nó tạo nên sức chiến đấu to lớn của cả nước, của toàn dân tộc, đồng thời
tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ sâu rộng và mạnh mẽ nhất của thế giới trong điều kiện
quốc tế rất phức tạp, đảm bảo quân và dân ta đánh thắng từng bước, tiến lên đánh thắng
hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo.
Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, cả nước tiến hành chiến tranh với hai
lực lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị,
chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và
tiến công trong đó đòn tiến công quân sự có ý nghĩa quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch,
tiêu diệt địch để làm chủ...
Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tổ chức đã được triển khai với quy
mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nước ta. Đó là công tác xây dựng,
phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đó còn là hình thức và phương thức xây
dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng ở cả hai miền Nam, Bắc; tổ chức hậu
phương lớn, tổ chức các căn cứ kháng chiến tại chỗ ở miền Nam; tổ chức chiến trường...
Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai
trò của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc vừa là căn cứ địa cách
mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến, vừa là tiền tuyến trực
tiếp chiến đấu quyết liệt với không quân và hải quân Mỹ. Miền Bắc còn là nơi đặt các cơ
quan lãnh đạo, chỉ huy của Đảng và của Bộ Tổng tư lệnh, lãnh đạo toàn bộ cuộc cách
mạng Việt Nam và điều hành chỉ huy chiến tranh trên cả hai miền Nam - Bắc.
Đảng ta còn chăm lo xây dựng và mở rộng những vùng căn cứ, vùng giải phóng ngay
tại chiến trường làm hậu phương tại chỗ. Các vùng giải phóng, căn cứ hậu phương tại chỗ
có thế liên hoàn trên cả 3 vùng chiến lược, nối liền với hậu pưhơng lớn miền Bắc, cùng
với căn cứ hậu phương của hai nước Lào, Campuchia dựa lưng vào nhau thành thế mạnh
của chiến trường Đông Dương.
Chú trọng xây dựng tuyến đường giao thông, vận chuyển chiến lược giữa Việt Nam,
Lào, Campuchia. Tuyến vận tải 559 - đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu
tượng ý chí và nghị lực lớn lao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia
để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó về lịch sử, địa lý, kinh tế, đã chủ
động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu, chiến thắng
kẻ thù chung là đế quốc Mỹ.
Đoàn kết, liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia đã góp phần đem lại thắng lợi to
lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương để giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc.
Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi
đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối
ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược góp phần
tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù.
Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xét cho cùng, là thắng lợi của
nhân tố con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Con người Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển ở một tầm cao mới. Bản sắc, văn hóa con
người Việt Nam được tạo thành từ tố chất mới hòa quyện dân tộc và giai cấp, truyền
thống và hiện đại, thừa kế gia sản vĩ đại của một dân tộc anh hùng, tiếp tục làm vẻ vang
dân tộc, đưa dân tộc Việt nam lên ngang tầm của thời đại mới.