Lý thuyết ôn tập - Kinh tế vi mô | Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên

Lý thuyết ôn tập - Kinh tế vi mô | Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam một nền kinh tế chuyển đổi đang phát triển, thuộc nhóm nước
tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng
7% một năm. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010,
chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất
những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực toàn
cầu, đạt được những thành tựu to lớn rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều;
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng
để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân.
Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh một hiện thực, không chỉ dưới con mắt
người nước ngoài, cũng không chỉ dưới lăng kính kinh tế mô, sự tăng trưởng này
còn thể được cảm nhận đại bộ phận hộ gia đình các tế bào của nền kinh tế. Thế
thì tại sao lại phải lo lắng hoài nghi về triển vọng tăng trưởng? Vấn đề chỗ, liệu
chúng ta đã phát huy hết tiềm
năng tăng trưởng của quốc gia hay chưa? Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng phát triển của
chúng ta ra sao? Chúng tathể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm
tới hay không?
Cũng trong bản báo cáo về Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, Giáo
1
Michael Porter đưa ra nhận xét: “Nếu Việt Nam tiếp tục tăng trưởng theo kiểu cũ, tức
dựa chủ yếu vào đặc điểm địa hay dân thì không nghĩa khủng hoảng sẽ đến
vàom sau. Tuy nhiên các bạn chắc chắn không thể duy trì hình này trong vòng 5-
10 năm tới".
Qua thực tế quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế của Việt Nam nhận xét của Giáo
Michael Porter chúng ta thấy Việt Nam hiện chủ yếu vẫn dựa vào những “lợi thế tự
nhiên được thừa hưởng”, gồm tải nguyên thiên nhiên, vị trí địa đặc điểm n số.
Trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã sử dụng các lợi thế tự nhiên để phát huy thông
quaviệc mở cửa thị trưởng đầu vào sở hạ tầng bản, cần nhìn nhận đánh giá
quả trình tăng trưởng kinh tế trong những m qua rút ra những định hướng cho sự
phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Chuyên đề bản luận về ý kiến Giáo sư Michael Porter được chia làm 3 phần
Phần I: Tổng quan về kinh tế Việt Nam
Phần II: Những đặc điểm cơ bản trong mô hình tăng trưởng kinh tế
Việt Nam
Phần III: Những định hướng chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp
theo
2
PHẦN I: NHỮNG THÀNH TỰU KINH TẾVIỆT NAM
1. KẾT QUẢ KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
Nâng cao mức sống, hay mức độ thịnh vượng, mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh
tế. Trên thực tế, nhiều bản kế hoạch kinh tế, kể cả chiến lược mười năm của Việt Nam
đang được thảo luận gần đây, cũng đặt ra các chỉ tiêu về mức sống làm mục tiêu chính
sách. Việc so sánh các quốc gia dựa
rên những chỉ tiêu này giúp đánh giá một cách tương đối mức độ cạnh tranh của nền kinh
tế. Tuy nhiên, cũng thể tìm ra những gợi ý chính sách ban đầu từ việc đánh giá các
thước đo thu nhập phi thu nhập của sự thịnh vượng, từ việc bóc tách các yếu tố thành
phần tạo nên mức sống dụ như mức độ huy động nguồn việc các nguồn lực này
được sử dụng hiệu quả ra
sao đóng góp phần nâng cao mức sống.
1.1. Tăng trưởng kinh tế qua các năm
Thực hiện đường lối đổi mới, với hình kinh tế tổng quát xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -xã
hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt
ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng
xuất khẩu được đánh giá thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN
trong chặng đường đầu tiên. Đây giai đoạn chuyển đổi bản chế quản sang
chế quảnmới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH giải phóng
3
sức sản xuất.1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục toàn diện.GDP bình quân năm tăng 8,2%.
Đất nướcra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất
nước.Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới , đẩy mạnh CNH
đất nước . chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai
nghiêm trọng sảy ra . Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng sản phẩm trong nước 7% / năm
Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao , liên tục , GDP bình quân
mỗi năm đạt 7.5% . năm 2005 , tốc độ tăng trưởng đạt 8,4% , GDP theo giá hiện hành đạt
838 nghìn tỷ đồng , bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng , tưởng đương với 640
USD.
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới , Năm 2005 nước ta
đứng thứ 2 trêm thế giới về xuất khẩu gạo , thứ 2 về cà fe , thứ 4 về cao su , thứ 2 về điều
, thứ nhất về hạt tiêu.
2005-2010 : toóc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7% mặc dù khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu , nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt
cao . Trong 5 năm , tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD , vượt 77% so với kế
hoạch đề ra . Tổng số vốn đăng mới tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD , gấp hơn 2,7
lần kế hoạch đề ra gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005, GDB bình quân đầu
người đạt 1.168 USD.
4
Qua các bảng trên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai thập kỷ qua rất ấn tượng ,
GDB bình quân đầu người của việt nam ( tin hs theo ngang giá với sức mua ) vẫn còn
thấp so với các quốc gia khác . Năm 2009 , Việt Nam xếp thứ 113 trên thế giới và vẫn còn
trong tốp những nước nghèo nhất khu vực Đông Á theo số liệu được WEF công bố , đến
cuối năm 2010 , dân số việt nam 89 triệu người . Tổng thu nhập quốc nội đạt 1.168
USD/ năm.
MỨc thu nhâpj của Việt Nam cũng cònm xa so với những quốc giacon hổ châu Á
như Hàn QUốc . Ngay cả Trung Quốc cũng mức thu nhập cao hơn Việt Nam gấp hơn
hai lần .
5
1.2 những thành công trong tăng trưởng kinh tế khác
Giảm nghèo: Trong một vài thập niên vừa qua, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ phát
triển kinh tế - hội nhanh chóng. Sau khi thống nhất m 1975, Việt Nam đã chuyển
sang tập trung tái thiết và phát triển đất nước.Tuy nhiên, do sự tàn phả khốc liệt của nhiều
năm chiến tranh, do những yếu kém về chính sách môi trường quốc tế nhiều khó
khăn, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng kéo dài trong những
năm 70 80. Để vượt qua những khó khăn đó, quá trình Đổi mới đã được khởi xướng
năm 1986 với những nội dung chính sau đây:
* Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên sở hữu nhà nước sang một nền
kinh tế nhiều thành phần dựa trên thị trường;
Dân chủ hoá đời sống hội thông qua việc xây dựng nhà nước pháp quyển của dân, do
dân và vì dân;
Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia khác trên thế giới.
Việt Nam đã được thế giới ghi nhận một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành sớm
mục tiêu thiên niên kỷ về xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh từ 58,1% năm
1993 xuống còn 14,5% năm. Năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo vẫn tiếp tục giảm, ước tính còn
11% theo chuẩn nghèo của Chính phủ. Tỷ lệ người nghèo tập trung phần lớn ở nông thôn
và vùng đồng bằn ven biển
Bất bình đẳng về thu nhập: Việt Nam, bất bình đẳng về thu nhập gia tăng cùng tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mức độ bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam vẫn còn tương
đối thấp so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Malaixia
6
và Campuchia.
Chất lượng sống: Khái niệm “chất lượng sống” hiểu theo nghĩa rộng một thước đo
quan trọng trong đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Chỉ số phát triển con
người (HDI) là một thước đo chất lượng sống.
Ngoài ra, chất lượng môi trường, đặc điểm dân số, chất lượng tiếp cận các dịch vụ y
tế, giáo dục, các chỉ tố về bình đẳng giới, v.v. cũng những chỉ sthể hiện chất lượng
sống.
Chỉ số HDI được cấu thành bởi một loạt các chỉ số thành phần chia thành ba nhóm: thu
nhập, sức khoẻ giáo dục. Việt Nam đạt điểm khá cao về nhóm chỉ số sức khoẻ, dụ
chỉ số tuổi thọ bình quân, so với các nước châu Á. Tuy nhiên, Việt Nam cần cải thiện các
chỉ số về giáo dụcnhóm chỉ số Việt Nam vẫn đứng sau nhiều nước châu Á. Ví dụ,
số năm đi học trung bình là 5,5 và số năm đi học dự kiến là 10,4 (cải thiện được 4,9 năm)
đối với Việt Nam, trong khi những con số này tương ứng 5,7 và 12,7 (cải thiện được 7
năm)
7
Kết luận phần I
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách chế vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần bộ máy quản của
Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ công bằng hội, các
hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao.
Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục
8
tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh tủ 200 USD năm 1990 lên khoảng 1168
USD năm 2010.
Tuy nhiên, như nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước nhận định mức thịnh vượng
chung năng suất của nền kinh tế Việt Nam “quá thấp”, cũng khiến việc đổi mới
duy kinh tế không được triệt để luôn phảiđắn đo xem chệch định hướng hay
không. “Trong 10 năm tới, nếu vẫn duy trì hình kinh tế như hiện nay, chắc chắn nước
ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong phát triển. Ta sẽ đi tìm hiểu về hình kinh tế Việt Nam
để làm rõ những ý kiến trên cũng như nhận định của giáo sư Michael Porter.
9
PHẦN II MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
Kinh tế VN thời gian qua tăng trưởng nhanh nhưng hiệu quả thấp. “Mô hình tăng
trưởng đã đạt đến ngưỡng, dẫn đến khả năng cạnh tranh của quốc gia còn mức thấp.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, những nhược điểm trong
hình tăng trưởng kinh tế của VN đã bộc lộ hoàn toàn. Vấn đề thay đổi hình tăng
trưởng mới chỉ được thảo luận từ sau giai đoạn bất ổn kinh tế năm 2007 - 2008
nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của các nhà hoạch định chính sách.
2.1. BẢN CHẤT ĐẶC TRƯNG CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam lựa chọn hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa để phát triển
kinh tế trong suốt những năm qua. hình không dập khuôn theo hình chủ nghĩa
hội kiểu Xô-viết mà là mô hình kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trưởng
vừa dựa trên sở được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc bản chất của chủ
nghĩa hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối. Nói cách
khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chínhnền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo chế thị trường sự quản của Nhà nước, quản nền
kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, mở cửa và hội nhập
nhằm
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển rút ngắn để trong khoảng
thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu.
hình kinh tế Việt Nam phản ánh khái quát đặc trưng của một nền kinh tế chuyển đổi
10
đang tăng trưởng nhanh. Việt Nam đã thành công trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng
mạnh mẽ trong suốt hai thập kỷ qua nhưng động lực để thúc đẩy tăng trưởng bền vững
hơn nữa đang giảm dần và áp lực tăng chi phí để tạo tăng trưởng đang tăng lên, trong khi
những lợi thế cạnh tranh mới chưa được tạo lập.
2.2. ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi tử một nền kinh tế sở hữu nhà nước sang một
nền kinh tế các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) các doanh nghiệp nước ngoài
đóng vai trò chi phối
Điểm yếu bản nhất trong hình tăng trưởng của Việt Nam tăng trưởng chủ yếu
nhờ vào việc bán tải nguyên dạng thôgia công trình độ thấp, đúng như lời nhận xét
của giáo sư. Giáo Michael Porter “tăng trưởng theo kiểu cũ, tức dựa chủ yếu vào
đặc điểm địa lý hay dân cư”, tức là nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà
nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
2.2.1 Xuất khẩu tài nguyên chiếm tỷ trọng lớn
Việt Nam được đánh giá quốc gia giàu về tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên nước
được xếp vào hảng những quốc gia nguồn nước dồi dào. Các loại khoáng sản trữ
lượng lớn của Việt nam gồm than, dầu khí, bôxit urani. Trữ lượng than của Việt
Nam khoảng hơn 6 tỉ tấn, chủ yếu là ở Quảng Ninh, Thái Nguyên. Trữ lượng dầu mỏ ước
khoảng 3-4 tỷ thùng và khi đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối.
11
Tỷ lệ xuất khẩu của Việt nam phân theo các sản phẩm chính
Lượng hàng hóa xuất khẩu từ khu vực chế tác tăng nhưng gia trị gia tăng còn thấp mức
thâm dụng tài nguyên lớn
Mặc được đánh giả giàu tài nguyên tinh trạng triệt để khai thác, tận thu nguồn tải
nguyên thiên nhiên cũng đem lại những rủi ro nghiêm trọng đối với việc bảo tồn phát
triển bền vững nguồn tài nguyên nguồn tài nguyên hạn, mức độ nhất định cũng
làm nhụt ý chí sáng tạo đầu để tạo nên năng lực tăng trưởng mới (thay dựa vào
yếu tố ưu đãi tự nhiên
12
2.2.2. Lao động trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Việt Nam cũng chỉ chủ yếu thị phần xuất khẩu lớn trong các ngành sử dụng nhiều lao
động. các sản phẩm xuất khẩu chủ chốt khác chủ yếu là các mặt hàng thâm dụng
lao động hoặc sản phẩm nông nghiệp, dụ như giày dép, may mặc (cả dệt may)
máy móc linh kiện điện tử. Hầu hết các ngành này Việt Nam đều nhập khẩu nguyên liệu
công nghệ chỉ gia công hoàn thành sản phẩm những khâu đơn giản nhất không
mang lại hiệu quả kinh tế cao và tiềm lực kinh tế, không thể phát triển lâu dài.
Giá trị gia tăng thấp và cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm có hàm lượng lao động
cao dấu hiệu cho thấy năng lực sáng tạo không nhiều mối liên kết giữa khu vực
xuất khẩu và kinh tế trong nước là rất hạn chế.
Lao động giá rẻ một lợi thế giúp tăng trưởng xuất khẩu, trong khi đa số máy móc
nguyên liệu thô vẫn phải nhập khẩu. Các công ty FDI mang vốn từ nước ngoài vào kết
hợp với lao động giá rẻ để sản xuất phục vụ chuỗi giá trị của họ, nhưng lại rất ít liên
kết với khu vực kinh tế trong nước. Do không sự liên kết cảkhâu đầu vào đầu ra
với khu vực FDI, các công ty trong nước khó thể tham gia sâu vào các chuỗi giá trị
toàn cầu, Điều này khiến những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam thường không
liên quan đến nhau (thủy sản, dệt, đồ nội thất, may mặc, giày dép...). Do đó không tạo
được hiệu ứng “tràn ngập" tại các thị trường lớn như EU hay Mỹ
2.2.3 Tỷ lệ phân phối vốn đầu tư
Việc gia tăng đầu vốn điều tự nhiên đối với một nền kinh tế thâm dụng lao động.
13
Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nơi mà vốn là một nguồn lực khan
hiếm thì năng suất biên của vốn lẽ ra phải cao hơn nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế, vốn
tạo ra tăng trưởng nhưng lại thất bại trong cải thiện năng suất tổng thể. Hiệu quả đầu
ngày càng đi xuống cho thấy còn thiếu vắng những động lực phát triển mới. Thực tế,
nguồn vốn chủ đạo để đầu tư của khu vực công được lấy từ ngân sách nhà nước, tín dụng
nhà nước các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó đầu từ ngân sách các
DNNN chiếm trên 75%. giai đoạn 2005-2009, lĩnh vực công nghiệp- xây dựng được ưu
tiên trên 50% vốn, song đóng góp vào GDP lại chỉ dưới 40%. Vốn đầu từ ngân sách
nhà nước giai đoạn 2001-2010 chiếm 52,2% tổng vốn đầu khu vực nhà nước bằng
khoảng 24,1% tổng vốn đầu toàn hội. Tính theo tỉ lệ trên GDP, vốn đầu từ ngân
sách nhà nước trong giai đoạn này lên đến 9,8%.
Khu vực nhà nước có tỷ trọng đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu tư thấp, mặc dù vốn đầu
của khu vựcnhân trong nước FDI tăng rất nhanh, trung bình 18% 44% tương
ứng trong vòng 20 năm qua, Việt Nam, FDI một nguồn vốn quan trọng. Tính tới
2008, tổng vốn FDI đăng đạt 164 tỉ USD với gần 11.000 dự án. Tiết kiệm nội địa
không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư. Chính vì vậy, nền kinh tế ngày cảng phụ thuộc vào các
nguồn vốn nước ngoài, và FDI ngày càng trở thành một nguồn vốn quan trọng để đắp
sự chênh lệch xu hướng gia tăng giữa tiết kiệm đầu trong vòng 3 m trở lại
đây .
Nhưng vốn đầu tư của khu vực công vẫn đóng vai trò quan trọng nhất trong tổng vốn đầu
toàn hội. Vì vậy hiệu quả sử dụng vốn của khu vực côngý nghĩa quan trọng đối
với cả tăng trưởng và ổn định vĩ mô của Việt Nam.
14
Song đầu của khu vực nhà nước hiệu quả thấp hơn đáng kể so với đầu của khu
vực nhân trong nước FDI., tinh theo vốn đầu thực hiện hay theo tích lũy tài
sản thi hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước cũng cao gấp rưỡi hệ số ICOR chung
của toàn nền kinh tế. Với tỷ trọng lớn trong tổng đầu hội như vậy, hiệu quả đầu
thấp của khu vực công, đặc biệt của các DNNN, đã ảnh hưởng tới kết quả hoạt động
chung của toàn nền kinh tế và làm giảm sút năng lực cạnh tranh của của Việt Nam.
2.3 HỆ QUẢ CỦA CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM
Những đặc điểm cơ cấu kinh tế trên dẫn đến một shệ quả như đã thấy trong giai đoạn
bất ổn vĩ mô và suy giảm kinh tế gần đây.
• Thứ nhất là nền kinh tế kém hiệu quả. Số đơn vị đầu tư cầnthiết để tạo
ra một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (tức hệ số ICOR) của nền kinh tế tăng rất
nhanh. Hệ số gia tăng vốn - đầu ra phản ánh tỷ lệ đầucao của Việt Nam so với tốc độ
tăng trưởng. hệ số nảy ngày càng xu hướng tăng lên. Tính trung bình, ICOR của
Việt Nam khoảng 4,8 trong giai đoạn 2000-2008 5,4 trong giai đoạn 2006-2008
tăng lên đến 6 trong năm nay. Với mức này, ICOR của Việt Nam cao hơn nhiều của các
nước công nghiệp mới trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế (từ 1961 tới 1980) như Đài
Loan (2,7), Hàn Quốc (3,0), cũng cao hơn ICOR của một số nước trong khu vực như
Thái Lan (4,1 trong giai đoạn 1981-1995) và Trung Quốc (4,0 trong giai đoạn 2001-2006)
15
Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia khác
Đầu tư của khu vực nhà nước có hiệu quả thấp hơn đáng kể so với đầu tư của khu vực tư
nhân trong nước và FDI, dù tinh theo vốn đầu tư thực hiện hay theo tích lũy tài sản thì hệ
số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước cũng cao gấp rưỡi hệ số ICOR chung của toàn
nền kinh tế. Với tỷ trọng lớn trong tổng đầu hội như vậy, hiệu quả đầu thấp của
khu vực công, đặc biệt là của các DNNN, đã ảnh hưởng tới kết quả hoạt động chung của
toàn nền kinh tế và làm giảm sút năng lực cạnh tranh của của Việt Nam.
Thứ hai: là nguy cơ thưởng trực về bất ổn vĩ mô. Mô hình tăng trưởng
hiện nay chạy theo chiều rộng (chủ yếu dựa vào tăng vốn) không theo chiều sâu
(không
cải thiện được năng suất). Hệ quả để tăng trưởng, nền kinh tế Việt Nam cần rất nhiều
16
đầu tư, khiến tin dụng tăng theo. Nhưng do nền kinh tế kém hiệu quả nên kết cục tất yếu
là lạm phát cao, thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai lớn
Thứ ba: một số nhóm đặc quyền đặc lợi cản trở cải cách. Những
cải
cách quan trọng thành công nhất của Việt Nam kể từ Đổi mới chủ yếu liên quan tới
khu vực nông nghiệp dân doanh chưa đụng chạm nhiều tới những khu vực được
hưởng đặc quyền đặc lợi, nhất là những DNNN lớn.
KẾT LUẬN PHẢN 2
Sự bất ổn cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam chính là đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ đầu tư rất
cao nhưng tăng trưởng lại không tỷ lệ thuận, việc đầu vượt quá khả năng của nền kinh
tế đã dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài; cơ cấu đầu tư thiếu cân đối nên chưa tạo ra sức
mạnh tổng hợp
Giá trị gia tăng thấp và cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm có hàm lượng lao động
cao dấu hiệu cho thấy năng lực sáng tạo không nhiều mối liên kết giữa khu vực
xuất khẩu và kinh tế trong nước là rất hạn chế.
Thị trường xuất khẩu độ đa dạng cao tỷ trọng cao song tập trung một số hang
xuất khẩu tải nguyên, các ngành khác dựa vào nguồn chi phí lao động thấp, sản phẩm
xuất khẩu thiếu khả năng thâm nhập thị trường chưa hội nhập sâu vào những thị
trường xuất khẩu năng động nhất của thế giới.
hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu vốn, trong khi tỷ lệ tiết kiệm nội địa đang
giảm nhanh, do đó mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn từ n ngoài như FDI, ODA,
kiểu hối ngày cảng cao. Chính sách tăng trưởng tập trung vào phát triển theo chiều rộng
17
thay phát triển theo chiều sâu, tập trung vào số lượng thay vì vào chất lượng, do đó
thể tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh, nhưng về lâu dài không bền vững, không giúp
nâng cao năng suất và hiệu quả.
18
PHẦN 3 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng và những thành tích trong hoạt động
xuất khẩu, giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế vẫn ở mức thấp, thậm chí cả trong khu vực
xuất khẩu. Việc gia nhập WTO đã hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới thu được
những lợi ích đáng kể từ quả trình này. Tuy nhiên, những dấu hiệu bất ổn dễ tổn
thương trước các sốc biến động bên ngoài đang không ngừng gia tăng đòi hỏi Việt
Nam phải có một cách tiếp cận chủ độngdải hạn hơn để không những đối phócòn
có thể dự báo và kiểm soát được các yếu tố bên ngoài một cách hiệu quả.
Sự cần thiết phải thay đổi không chỉ do những yếu tố nội tại bên trong dẫn dắt. Khi
hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam cần nhìn nhận được
những
thay đổi và chuyển dịch của môi trường bên ngoài mà mình phải đối mặt. Một số thay đổi
chuyển dịch sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam Đã sự thống nhất quan điểm rằng Việt
19
Nam cần chuyển dịch hình tăng trưởng hiện nay hình dựa trên lao động giá rẻ
đầu tư vốn lớn - sang dựa trên năng suất và sức cạnh tranh. Tăng trưởng tương lai của
Việt Nam không chỉ dựa trên việc khai thác những lợi thế sẵn phải dựa trên việc
liên tục nâng cấp các lợi thế này tạo dựng những lợi thế mới. Điều này toàn diện các
điều kiện và vi dẫn dắt năng suất. Quan điểm đối với mô hình tăng trưởng này
là điều kiện tiên quyết để Việt nam nấc thang phát triển mới một cách bền vững
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
3.1.1. Quan điểm
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững yêu cầu xuyên
suốt trong Chiến lược ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm anhát triển nhanh gắn liền với phát
triển bền vững, phát triển bền vững yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược ổn định kinh
tế mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi
hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu,
chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải
kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng hội.bảo vệ
cải thiện môi trường sử dụng nguồn tài nguyên hợp lý.
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh
tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa. Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người
chủ thể. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
cảng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng
20
| 1/29

Preview text:

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, thuộc nhóm nước có
tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng
7% một năm. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010,
chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là
những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn
cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều;
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng
để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh là một hiện thực, không chỉ dưới con mắt
người nước ngoài, cũng không chỉ dưới lăng kính kinh tế vĩ mô, mà sự tăng trưởng này
còn có thể được cảm nhận ở đại bộ phận hộ gia đình và các tế bào của nền kinh tế. Thế
thì tại sao lại phải lo lắng và hoài nghi về triển vọng tăng trưởng? Vấn đề là ở chỗ, liệu
chúng ta đã phát huy hết tiềm
năng tăng trưởng của quốc gia hay chưa? Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng phát triển của
chúng ta ra sao? Chúng ta có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới hay không?
Cũng trong bản báo cáo về Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, Giáo sư 1
Michael Porter đưa ra nhận xét: “Nếu Việt Nam tiếp tục tăng trưởng theo kiểu cũ, tức là
dựa chủ yếu vào đặc điểm địa lý hay dân cư thì không có nghĩa là khủng hoảng sẽ đến
vào năm sau. Tuy nhiên các bạn chắc chắn không thể duy trì mô hình này trong vòng 5- 10 năm tới".
Qua thực tế quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế của Việt Nam và nhận xét của Giáo
sư Michael Porter chúng ta thấy Việt Nam hiện chủ yếu vẫn dựa vào những “lợi thế tự
nhiên được thừa hưởng”, gồm tải nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và đặc điểm dân số.
Trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã sử dụng các lợi thế tự nhiên để phát huy thông
quaviệc mở cửa thị trưởng và đầu tư vào cơ sở hạ tầng cơ bản, cần nhìn nhận đánh giá
quả trình tăng trưởng kinh tế trong những năm qua và rút ra những định hướng cho sự
phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Chuyên đề bản luận về ý kiến Giáo sư Michael Porter được chia làm 3 phần
Phần I: Tổng quan về kinh tế Việt Nam
Phần II: Những đặc điểm cơ bản trong mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Phần III: Những định hướng chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp theo 2
PHẦN I: NHỮNG THÀNH TỰU KINH TẾVIỆT NAM
1. KẾT QUẢ KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
Nâng cao mức sống, hay mức độ thịnh vượng, là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh
tế. Trên thực tế, nhiều bản kế hoạch kinh tế, kể cả chiến lược mười năm của Việt Nam
đang được thảo luận gần đây, cũng đặt ra các chỉ tiêu về mức sống làm mục tiêu chính
sách. Việc so sánh các quốc gia dựa
rên những chỉ tiêu này giúp đánh giá một cách tương đối mức độ cạnh tranh của nền kinh
tế. Tuy nhiên, cũng có thể tìm ra những gợi ý chính sách ban đầu từ việc đánh giá các
thước đo thu nhập và phi thu nhập của sự thịnh vượng, từ việc bóc tách các yếu tố thành
phần tạo nên mức sống ví dụ như mức độ huy động nguồn và việc các nguồn lực này
được sử dụng hiệu quả ra
sao đóng góp phần nâng cao mức sống. 1.1.
Tăng trưởng kinh tế qua các năm
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -xã
hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt
ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN
trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang
cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng 3
sức sản xuất.1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng 8,2%.
Đất nướcra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH - HĐH đất
nước.Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới , đẩy mạnh CNH
đất nước . chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai
nghiêm trọng sảy ra . Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng sản phẩm trong nước 7% / năm
Năm 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao , liên tục , GDP bình quân
mỗi năm đạt 7.5% . năm 2005 , tốc độ tăng trưởng đạt 8,4% , GDP theo giá hiện hành đạt
838 nghìn tỷ đồng , bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng , tưởng đương với 640 USD.
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới , Năm 2005 nước ta
đứng thứ 2 trêm thế giới về xuất khẩu gạo , thứ 2 về cà fe , thứ 4 về cao su , thứ 2 về điều
, thứ nhất về hạt tiêu.
2005-2010 : toóc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7% mặc dù khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu , nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt
cao . Trong 5 năm , tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD , vượt 77% so với kế
hoạch đề ra . Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD , gấp hơn 2,7
lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005, GDB bình quân đầu người đạt 1.168 USD. 4
Qua các bảng trên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai thập kỷ qua rất ấn tượng ,
GDB bình quân đầu người của việt nam ( tin hs theo ngang giá với sức mua ) vẫn còn
thấp so với các quốc gia khác . Năm 2009 , Việt Nam xếp thứ 113 trên thế giới và vẫn còn
trong tốp những nước nghèo nhất khu vực Đông Á theo số liệu được WEF công bố , đến
cuối năm 2010 , dân số việt nam là 89 triệu người . Tổng thu nhập quốc nội đạt 1.168 USD/ năm.
MỨc thu nhâpj của Việt Nam cũng còn kém xa so với những quốc gia “con hổ “ châu Á
như Hàn QUốc . Ngay cả Trung Quốc cũng có mức thu nhập cao hơn Việt Nam gấp hơn hai lần . 5
1.2 những thành công trong tăng trưởng kinh tế khác
Giảm nghèo: Trong một vài thập niên vừa qua, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ phát
triển kinh tế - xã hội nhanh chóng. Sau khi thống nhất năm 1975, Việt Nam đã chuyển
sang tập trung tái thiết và phát triển đất nước.Tuy nhiên, do sự tàn phả khốc liệt của nhiều
năm chiến tranh, do những yếu kém về chính sách và môi trường quốc tế có nhiều khó
khăn, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng kéo dài trong những
năm 70 và 80. Để vượt qua những khó khăn đó, quá trình Đổi mới đã được khởi xướng
năm 1986 với những nội dung chính sau đây:
* Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên sở hữu nhà nước sang một nền
kinh tế nhiều thành phần dựa trên thị trường;
Dân chủ hoá đời sống xã hội thông qua việc xây dựng nhà nước pháp quyển của dân, do dân và vì dân;
Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia khác trên thế giới.
Việt Nam đã được thế giới ghi nhận là một trong số ít các quốc gia đã hoàn thành sớm
mục tiêu thiên niên kỷ về xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh từ 58,1% năm
1993 xuống còn 14,5% năm. Năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo vẫn tiếp tục giảm, ước tính còn
11% theo chuẩn nghèo của Chính phủ. Tỷ lệ người nghèo tập trung phần lớn ở nông thôn
và vùng đồng bằn ven biển
Bất bình đẳng về thu nhập: Ở Việt Nam, bất bình đẳng về thu nhập gia tăng cùng tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mức độ bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam vẫn còn tương
đối thấp so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Malaixia 6 và Campuchia.
Chất lượng sống: Khái niệm “chất lượng sống” hiểu theo nghĩa rộng là một thước đo
quan trọng trong đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Chỉ số phát triển con
người (HDI) là một thước đo chất lượng sống.
Ngoài ra, chất lượng môi trường, đặc điểm dân số, chất lượng và tiếp cận các dịch vụ y
tế, giáo dục, các chỉ tố về bình đẳng giới, v.v. cũng là những chỉ số thể hiện chất lượng sống.
Chỉ số HDI được cấu thành bởi một loạt các chỉ số thành phần chia thành ba nhóm: thu
nhập, sức khoẻ và giáo dục. Việt Nam đạt điểm khá cao về nhóm chỉ số sức khoẻ, ví dụ
chỉ số tuổi thọ bình quân, so với các nước châu Á. Tuy nhiên, Việt Nam cần cải thiện các
chỉ số về giáo dục là nhóm chỉ số mà Việt Nam vẫn đứng sau nhiều nước châu Á. Ví dụ,
số năm đi học trung bình là 5,5 và số năm đi học dự kiến là 10,4 (cải thiện được 4,9 năm)
đối với Việt Nam, trong khi những con số này tương ứng là 5,7 và 12,7 (cải thiện được 7 năm) 7 Kết luận phần I
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của
các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của
Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ
hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao.
Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục 8
tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh tủ 200 USD năm 1990 lên khoảng 1168 USD năm 2010.
Tuy nhiên, như nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước nhận định mức thịnh vượng
chung và năng suất của nền kinh tế Việt Nam là “quá thấp”, nó cũng khiến việc đổi mới
tư duy kinh tế không được triệt để vì luôn phảiđắn đo xem có chệch định hướng hay
không. “Trong 10 năm tới, nếu vẫn duy trì mô hình kinh tế như hiện nay, chắc chắn nước
ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong phát triển. Ta sẽ đi tìm hiểu về mô hình kinh tế Việt Nam
để làm rõ những ý kiến trên cũng như nhận định của giáo sư Michael Porter. 9
PHẦN II MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
Kinh tế VN thời gian qua dù tăng trưởng nhanh nhưng hiệu quả thấp. “Mô hình tăng
trưởng đã đạt đến ngưỡng, dẫn đến khả năng cạnh tranh của quốc gia còn ở mức thấp.
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, những nhược điểm trong
mô hình tăng trưởng kinh tế của VN đã bộc lộ hoàn toàn. Vấn đề thay đổi mô hình tăng
trưởng mới chỉ được thảo luận từ sau giai đoạn bất ổn kinh tế vĩ mô năm 2007 - 2008 và
nhanh chóng trở thành tâm điểm chú ý của các nhà hoạch định chính sách.
2.1. BẢN CHẤT ĐẶC TRƯNG CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để phát triển
kinh tế trong suốt những năm qua. Mô hình không dập khuôn theo mô hình chủ nghĩa xã
hội kiểu Xô-viết mà là mô hình kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trưởng
vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách
khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, quản lý nền
kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, mở cửa và hội nhập nhằm
thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng
thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu.
Mô hình kinh tế Việt Nam phản ánh khái quát đặc trưng của một nền kinh tế chuyển đổi 10
đang tăng trưởng nhanh. Việt Nam đã thành công trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng
mạnh mẽ trong suốt hai thập kỷ qua nhưng động lực để thúc đẩy tăng trưởng bền vững
hơn nữa đang giảm dần và áp lực tăng chi phí để tạo tăng trưởng đang tăng lên, trong khi
những lợi thế cạnh tranh mới chưa được tạo lập.
2.2. ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi tử một nền kinh tế sở hữu nhà nước sang một
nền kinh tế mà các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các doanh nghiệp nước ngoài đóng vai trò chi phối
Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu
nhờ vào việc bán tải nguyên ở dạng thô và gia công trình độ thấp, đúng như lời nhận xét
của giáo sư. Giáo sư Michael Porter “tăng trưởng theo kiểu cũ, tức là dựa chủ yếu vào
đặc điểm địa lý hay dân cư”, tức là nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà
nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
2.2.1 Xuất khẩu tài nguyên chiếm tỷ trọng lớn
Việt Nam được đánh giá là quốc gia giàu về tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên nước
được xếp vào hảng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Các loại khoáng sản có trữ
lượng lớn của Việt nam gồm có than, dầu khí, bôxit và urani. Trữ lượng than của Việt
Nam khoảng hơn 6 tỉ tấn, chủ yếu là ở Quảng Ninh, Thái Nguyên. Trữ lượng dầu mỏ ước
khoảng 3-4 tỷ thùng và khi đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối. 11
Tỷ lệ xuất khẩu của Việt nam phân theo các sản phẩm chính
Lượng hàng hóa xuất khẩu từ khu vực chế tác tăng nhưng gia trị gia tăng còn thấp mức
thâm dụng tài nguyên lớn
Mặc dù được đánh giả giàu tài nguyên tinh trạng triệt để khai thác, tận thu nguồn tải
nguyên thiên nhiên cũng đem lại những rủi ro nghiêm trọng đối với việc bảo tồn và phát
triển bền vững nguồn tài nguyên vì nguồn tài nguyên có hạn, ở mức độ nhất định cũng
làm nhụt ý chí sáng tạo và đầu tư để tạo nên năng lực tăng trưởng mới (thay vì dựa vào
yếu tố ưu đãi tự nhiên 12
2.2.2. Lao động trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Việt Nam cũng chỉ chủ yếu có thị phần xuất khẩu lớn trong các ngành sử dụng nhiều lao
động. các sản phẩm xuất khẩu chủ chốt khác chủ yếu là các mặt hàng thâm dụng
lao động hoặc sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như giày dép, may mặc (cả dệt và may) và
máy móc linh kiện điện tử. Hầu hết các ngành này Việt Nam đều nhập khẩu nguyên liệu
và công nghệ chỉ gia công và hoàn thành sản phẩm là những khâu đơn giản nhất không
mang lại hiệu quả kinh tế cao và tiềm lực kinh tế, không thể phát triển lâu dài.
Giá trị gia tăng thấp và cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm có hàm lượng lao động
cao là dấu hiệu cho thấy năng lực sáng tạo không có nhiều và mối liên kết giữa khu vực
xuất khẩu và kinh tế trong nước là rất hạn chế.
Lao động giá rẻ là một lợi thế giúp tăng trưởng xuất khẩu, trong khi đa số máy móc và
nguyên liệu thô vẫn phải nhập khẩu. Các công ty FDI mang vốn từ nước ngoài vào kết
hợp với lao động giá rẻ để sản xuất phục vụ chuỗi giá trị của họ, nhưng lại có rất ít liên
kết với khu vực kinh tế trong nước. Do không có sự liên kết cả ở khâu đầu vào và đầu ra
với khu vực FDI, các công ty trong nước khó có thể tham gia sâu vào các chuỗi giá trị
toàn cầu, Điều này khiến những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam thường không
liên quan đến nhau (thủy sản, dệt, đồ nội thất, may mặc, giày dép...). Do đó không tạo
được hiệu ứng “tràn ngập" tại các thị trường lớn như EU hay Mỹ
2.2.3 Tỷ lệ phân phối vốn đầu tư
Việc gia tăng đầu tư vốn là điều tự nhiên đối với một nền kinh tế thâm dụng lao động. 13
Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nơi mà vốn là một nguồn lực khan
hiếm thì năng suất biên của vốn lẽ ra phải cao hơn nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế, vốn
tạo ra tăng trưởng nhưng lại thất bại trong cải thiện năng suất tổng thể. Hiệu quả đầu tư
ngày càng đi xuống cho thấy còn thiếu vắng những động lực phát triển mới. Thực tế,
nguồn vốn chủ đạo để đầu tư của khu vực công được lấy từ ngân sách nhà nước, tín dụng
nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó đầu tư từ ngân sách và các
DNNN chiếm trên 75%. giai đoạn 2005-2009, lĩnh vực công nghiệp- xây dựng được ưu
tiên trên 50% vốn, song đóng góp vào GDP lại chỉ dưới 40%. Vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước giai đoạn 2001-2010 chiếm 52,2% tổng vốn đầu tư khu vực nhà nước và bằng
khoảng 24,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tính theo tỉ lệ trên GDP, vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước trong giai đoạn này lên đến 9,8%.
Khu vực nhà nước có tỷ trọng đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu tư thấp, mặc dù vốn đầu tư
của khu vực tư nhân trong nước và FDI tăng rất nhanh, trung bình là 18% và 44% tương
ứng trong vòng 20 năm qua, Ở Việt Nam, FDI là một nguồn vốn quan trọng. Tính tới
2008, tổng vốn FDI đăng kí đạt 164 tỉ USD với gần 11.000 dự án. Tiết kiệm nội địa
không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư. Chính vì vậy, nền kinh tế ngày cảng phụ thuộc vào các
nguồn vốn nước ngoài, và FDI ngày càng trở thành một nguồn vốn quan trọng để bù đắp
sự chênh lệch có xu hướng gia tăng giữa tiết kiệm và đầu tư trong vòng 3 năm trở lại đây .
Nhưng vốn đầu tư của khu vực công vẫn đóng vai trò quan trọng nhất trong tổng vốn đầu
tư toàn xã hội. Vì vậy hiệu quả sử dụng vốn của khu vực công có ý nghĩa quan trọng đối
với cả tăng trưởng và ổn định vĩ mô của Việt Nam. 14
Song đầu tư của khu vực nhà nước có hiệu quả thấp hơn đáng kể so với đầu tư của khu
vực tư nhân trong nước và FDI., dù tinh theo vốn đầu tư thực hiện hay theo tích lũy tài
sản thi hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước cũng cao gấp rưỡi hệ số ICOR chung
của toàn nền kinh tế. Với tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư xã hội như vậy, hiệu quả đầu tư
thấp của khu vực công, đặc biệt là của các DNNN, đã ảnh hưởng tới kết quả hoạt động
chung của toàn nền kinh tế và làm giảm sút năng lực cạnh tranh của của Việt Nam.
2.3 HỆ QUẢ CỦA CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM
Những đặc điểm cơ cấu kinh tế trên dẫn đến một số hệ quả như đã thấy trong giai đoạn
bất ổn vĩ mô và suy giảm kinh tế gần đây.
• Thứ nhất là nền kinh tế kém hiệu quả. Số đơn vị đầu tư cầnthiết để tạo
ra một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (tức là hệ số ICOR) của nền kinh tế tăng rất
nhanh. Hệ số gia tăng vốn - đầu ra phản ánh tỷ lệ đầu tư cao của Việt Nam so với tốc độ
tăng trưởng. Và hệ số nảy ngày càng có xu hướng tăng lên. Tính trung bình, ICOR của
Việt Nam là khoảng 4,8 trong giai đoạn 2000-2008 và 5,4 trong giai đoạn 2006-2008 và
tăng lên đến 6 trong năm nay. Với mức này, ICOR của Việt Nam cao hơn nhiều của các
nước công nghiệp mới trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế (từ 1961 tới 1980) như Đài
Loan (2,7), Hàn Quốc (3,0), và cũng cao hơn ICOR của một số nước trong khu vực như
Thái Lan (4,1 trong giai đoạn 1981-1995) và Trung Quốc (4,0 trong giai đoạn 2001-2006) 15
Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia khác
Đầu tư của khu vực nhà nước có hiệu quả thấp hơn đáng kể so với đầu tư của khu vực tư
nhân trong nước và FDI, dù tinh theo vốn đầu tư thực hiện hay theo tích lũy tài sản thì hệ
số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước cũng cao gấp rưỡi hệ số ICOR chung của toàn
nền kinh tế. Với tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư xã hội như vậy, hiệu quả đầu tư thấp của
khu vực công, đặc biệt là của các DNNN, đã ảnh hưởng tới kết quả hoạt động chung của
toàn nền kinh tế và làm giảm sút năng lực cạnh tranh của của Việt Nam.
Thứ hai: là nguy cơ thưởng trực về bất ổn vĩ mô. Mô hình tăng trưởng
hiện nay chạy theo chiều rộng (chủ yếu dựa vào tăng vốn) mà không theo chiều sâu (không
cải thiện được năng suất). Hệ quả là để tăng trưởng, nền kinh tế Việt Nam cần rất nhiều 16
đầu tư, khiến tin dụng tăng theo. Nhưng do nền kinh tế kém hiệu quả nên kết cục tất yếu
là lạm phát cao, thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai lớn
Thứ ba: là một số nhóm đặc quyền đặc lợi cản trở cải cách. Những cải
cách quan trọng và thành công nhất của Việt Nam kể từ Đổi mới chủ yếu liên quan tới
khu vực nông nghiệp và dân doanh mà chưa đụng chạm nhiều tới những khu vực được
hưởng đặc quyền đặc lợi, nhất là những DNNN lớn. KẾT LUẬN PHẢN 2
Sự bất ổn cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam chính là đầu tư kém hiệu quả, tỷ lệ đầu tư rất
cao nhưng tăng trưởng lại không tỷ lệ thuận, việc đầu tư vượt quá khả năng của nền kinh
tế đã dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài; cơ cấu đầu tư thiếu cân đối nên chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp
Giá trị gia tăng thấp và cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm có hàm lượng lao động
cao là dấu hiệu cho thấy năng lực sáng tạo không có nhiều và mối liên kết giữa khu vực
xuất khẩu và kinh tế trong nước là rất hạn chế.
Thị trường xuất khẩu có độ đa dạng cao và tỷ trọng cao song tập trung ở một số hang
xuất khẩu tải nguyên, các ngành khác dựa vào nguồn chi phí lao động thấp, sản phẩm
xuất khẩu thiếu khả năng thâm nhập thị trường và chưa hội nhập sâu vào những thị
trường xuất khẩu năng động nhất của thế giới.
Mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư vốn, trong khi tỷ lệ tiết kiệm nội địa đang
giảm nhanh, do đó mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn từ bên ngoài như FDI, ODA,
kiểu hối ngày cảng cao. Chính sách tăng trưởng tập trung vào phát triển theo chiều rộng 17
thay vì phát triển theo chiều sâu, tập trung vào số lượng thay vì vào chất lượng, do đó có
thể tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh, nhưng về lâu dài là không bền vững, và không giúp
nâng cao năng suất và hiệu quả. 18
PHẦN 3 NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng và những thành tích trong hoạt động
xuất khẩu, giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế vẫn ở mức thấp, thậm chí cả trong khu vực
xuất khẩu. Việc gia nhập WTO đã hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới và thu được
những lợi ích đáng kể từ quả trình này. Tuy nhiên, những dấu hiệu bất ổn và dễ tổn
thương trước các cú sốc và biến động bên ngoài đang không ngừng gia tăng đòi hỏi Việt
Nam phải có một cách tiếp cận chủ động và dải hạn hơn để không những đối phó mà còn
có thể dự báo và kiểm soát được các yếu tố bên ngoài một cách hiệu quả.
Sự cần thiết phải thay đổi không chỉ do những yếu tố nội tại bên trong dẫn dắt. Khi
hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam cần nhìn nhận được những
thay đổi và chuyển dịch của môi trường bên ngoài mà mình phải đối mặt. Một số thay đổi
và chuyển dịch sẽ mở ra cơ hội cho Việt Nam Đã có sự thống nhất quan điểm rằng Việt 19
Nam cần chuyển dịch mô hình tăng trưởng hiện nay – mô hình dựa trên lao động giá rẻ
và đầu tư vốn lớn - sang dựa trên năng suất và sức cạnh tranh. Tăng trưởng tương lai của
Việt Nam không chỉ dựa trên việc khai thác những lợi thế sẵn có mà phải dựa trên việc
liên tục nâng cấp các lợi thế này và tạo dựng những lợi thế mới. Điều này toàn diện các
điều kiện vĩ mô và vi mô dẫn dắt năng suất. Quan điểm đối với mô hình tăng trưởng này
là điều kiện tiên quyết để Việt nam nấc thang phát triển mới một cách bền vững
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN 3.1.1. Quan điểm
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên
suốt trong Chiến lược ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm anhát triển nhanh gắn liền với phát
triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu,
chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải
kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.bảo vệ và
cải thiện môi trường sử dụng nguồn tài nguyên hợp lý.
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh
tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là
chủ thể. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
cảng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng 20