Lý thuyết ôn tập - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại Học Duy Tân

Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng bắt tay vào khai thác thuộc địa môt cách mạng mẽ và từng bước biển nước ta trở thành một nước thuộc địa nửaphong kiến. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra, nhưng cuối cùng đều thất bại do đi theo khuynh hướng phong kiến. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Trường:

Đại học Duy Tân 1.8 K tài liệu

Thông tin:
5 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lý thuyết ôn tập - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại Học Duy Tân

Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng bắt tay vào khai thác thuộc địa môt cách mạng mẽ và từng bước biển nước ta trở thành một nước thuộc địa nửaphong kiến. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra, nhưng cuối cùng đều thất bại do đi theo khuynh hướng phong kiến. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

27 14 lượt tải Tải xuống
N i Dung
I.Phầần Lý Lu n
1. C s hình thành t t ng Hồầ Chí Minh vềầ đ c l p dần t cơ ư ưở
1.1. Th c ti Viêt Nam cuềễn ồối thềố k XIX đầu thềố k XX
Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng bắt tay vào khai thác thuộc
địa môt cách mạng mẽ và từng bước biển nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước
chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra, nhưng cuối cùng đều thất bại do đi theo
khuynh hướng phong kiến. Đến đầu thế kỷ XX, khi xã hội Việt Nam có nhiều biến
đổi và chịu ảnh hưởng từ các cuộc vận động cải cách, phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản xuất hiện. Tuy nhiên, do giai cấp tư sản Việt Nam
còn non yếu, các tổ chức và người lãnh đạo phong trào chưa có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn nên đều thất bại. Vì thế từ thực tiễn đặt ra vấn
đề để có được độc lập dân tộc cần đấu tranh bằng con đường nào.
Trong bối cảnh đó, sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước
ta xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Cũng nhân Việt Nam
chịu sự áp bức bóc lột từ thực dân, tư bản, phong kiến nên họ sớm đã vùng dậy đấu
tranh từ đốt lán trại. bỏ trốn tập thể đến đình công, bãi công. Đây là điều kiện thuận
lợi để chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào nước ta. Chính Hồ Chí Minh đã
dày công truyền bá chủ nghĩa Mác- Lenin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, đánh dấu bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc ở nước ta.
1.2 Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển
thành đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế giới
và biến phần lớn các nước châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc
địa. Tỉnh hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư
bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Những mâu thuẫn này
ngày càng trở nên gay gắt vào đầu thế kỷ XX. Giành độc lập cho các dân tộc thuộc
địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ mà còn là mong muốn chung của giai cấp vô
sản quốc tế, điều đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát
triển. Khi sang phương Tây. Người quan tâm tìm hiểu khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng
- Bác ái trong các cuộc cách mạng tư sản. Người đã kế thừa, phát triển những quan
điểm nhân quyền, dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của Mỹ,
bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" năm 1791 của Pháp và đề xuất quan
điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại
ngày nay. Và chính điều này đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc.
1.3. Chủ nghĩa Mác-Lenin về quyền tự quyết của các dân tộc
Lenin ủng hộ việc tách ra thành lập một quốc gia riêng biệt khi dân tộc đó bị áp
bức, bóc lột bằng các biện pháp bạo lực. Bối cảnh mà Lenin đưa ra vấn đề quyền
dân tộc tự quyết là sự áp bức dân tộc đang tràn lan, phổ biến ở cả nước Nga và trên
thế giới [1]. Bối cảnh khi Lenin đưa ra quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn phù hợp
với thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin về quyền dân tộc tự quyết mà tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc đã được hình thành. Nhờ đó. Hồ Chí Minh đã giải quyết
được cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở
Việt Nam lúc bấy giờ.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
2.1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc
Bề dày lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Điều đó cho thấy khát khao to lớn về một nền độc lập dân
tộc, tự do cho nhân dân của dân tộc ta. Đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng
liêng, bất hủ của dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Tại Hội
nghị Vecxay (Pháp) năm 1919. Người đã gửi tới bàn “Yêu sách của nhân dân An
Nam" với hai nội dung chính là đội quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đôi các
quyền tự do, dân chủ. Mặc dù không được chấp nhận nhưng qua sự kiện trên, lần
đầu tiên tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là
quyền bình đẳng tự do đã được hình thành.
Trong "Chánh cương vắn tắt của Đảng" năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác
định mục tiêu chính trị của Đảng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Người tuyên bố trước đồng bào và thế
giới rằng: “Nước Việt nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Bác khẳng định: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa binh. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước". Khi thực dân Pháp tiến hành xâm
lược lần thứ hai, trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến". Người ra lời hiệu
triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ bảng được nên độc lập dân tộc "Không!
Chúng ta thả hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ"
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam . Trong
hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời
đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nên độc lập, tự do trên thế
giới "Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
2.2. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân Người viện
dẫn bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyển" của Cách mạng Pháp (1791)
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi" và khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được
tự do và bình đẳng về quyền lợi. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành
công, nước nhà được độc lập một lần nữa Bác khẳng định độc lập phải gần với tự
do Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
ý nghĩa gì".
Bên cạnh đó, Người luôn coi độc lập cũng phải gắn với cơm no áo ấm và hạnh
phúc của nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết. Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bao ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành".
2.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để. Độc
lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về
ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng... thì độc lập đó
chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh nước ta còn nhiều khó
khăn sau Cách mạng tháng Tám, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện
Chính phủ Pháp “Hiệp định Sơ bộ” (6-3-1946), theo đó: “Chính phủ Pháp công
nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của
mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình".
Sau Cách mạng tháng Tám, lợi dụng tình hình đất nước ta còn đang rối ren,
thực dân Pháp lại bảy ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị hòng chia cắt nước ta lần nữa.
Trong hoàn cảnh đó, Bác đã khẳng định trong " Thư gửi đồng bảo Nam Bộ"
(1946): “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể
môn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi . Mặc dù sau Hiệp định Gionevo
(1954), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Người vẫn tiếp tục kiên trì đấu
tranh thống nhất đất nước. Tháng 2-1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một . Trong Di chúc" Người đã thể hiện niềm tín tuyệt
đối và thắng lợi của cách mạng: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bao
Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Có thể thấy rằng, tư tưởng trên là từ
tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2.4. Độc lập cho dân tộc minh, đồng thời độc lập cho tất cả dân tộc khác
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối
với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới. Đó là sự cổ vũ cho các quốc gia bị mất độc lập ở châu Á, châu Phi, khu
vực Mỹ Latinh đấu tranh. Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách
mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc ban là Miêu và
Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công nhân dần hai nước Miên, Lào cùng nổi lên
chống đế quốc và đòi độc lập" (2). Điều này đã chứng mình một chân lý của thời
đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng
đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do; đứng vững trên lập trưởng
của giai cấp công nhân và biết tranh thủ sức mạnh của thời đại thì dân tộc đó. nhất
định thắng lợi
| 1/5

Preview text:

N i Dung I.Phầần Lý Lu n
1. C sơ hình thành t
ng Hồầ Chí Minh vềầ đ ưở c l p dần t c
1.1. Thực tiềễn Viêt Nam cuồối thềố k
ỷ XIX đầu thềố kỷ XX
Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng bắt tay vào khai thác thuộc
địa môt cách mạng mẽ và từng bước biển nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước
chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra, nhưng cuối cùng đều thất bại do đi theo
khuynh hướng phong kiến. Đến đầu thế kỷ XX, khi xã hội Việt Nam có nhiều biến
đổi và chịu ảnh hưởng từ các cuộc vận động cải cách, phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản xuất hiện. Tuy nhiên, do giai cấp tư sản Việt Nam
còn non yếu, các tổ chức và người lãnh đạo phong trào chưa có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn nên đều thất bại. Vì thế từ thực tiễn đặt ra vấn
đề để có được độc lập dân tộc cần đấu tranh bằng con đường nào.
Trong bối cảnh đó, sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước
ta xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Cũng nhân Việt Nam
chịu sự áp bức bóc lột từ thực dân, tư bản, phong kiến nên họ sớm đã vùng dậy đấu
tranh từ đốt lán trại. bỏ trốn tập thể đến đình công, bãi công. Đây là điều kiện thuận
lợi để chủ nghĩa Mác-Lenin được truyền bá vào nước ta. Chính Hồ Chí Minh đã
dày công truyền bá chủ nghĩa Mác- Lenin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam, đánh dấu bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc ở nước ta.
1.2 Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển
thành đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế quốc chi phối toàn bộ tình hình thế giới
và biến phần lớn các nước châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc
địa. Tỉnh hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư
bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Những mâu thuẫn này
ngày càng trở nên gay gắt vào đầu thế kỷ XX. Giành độc lập cho các dân tộc thuộc
địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ mà còn là mong muốn chung của giai cấp vô
sản quốc tế, điều đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát
triển. Khi sang phương Tây. Người quan tâm tìm hiểu khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng
- Bác ái trong các cuộc cách mạng tư sản. Người đã kế thừa, phát triển những quan
điểm nhân quyền, dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của Mỹ,
bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" năm 1791 của Pháp và đề xuất quan
điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc trong thời đại
ngày nay. Và chính điều này đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
1.3. Chủ nghĩa Mác-Lenin về quyền tự quyết của các dân tộc
Lenin ủng hộ việc tách ra thành lập một quốc gia riêng biệt khi dân tộc đó bị áp
bức, bóc lột bằng các biện pháp bạo lực. Bối cảnh mà Lenin đưa ra vấn đề quyền
dân tộc tự quyết là sự áp bức dân tộc đang tràn lan, phổ biến ở cả nước Nga và trên
thế giới [1]. Bối cảnh khi Lenin đưa ra quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn phù hợp
với thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin về quyền dân tộc tự quyết mà tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc đã được hình thành. Nhờ đó. Hồ Chí Minh đã giải quyết
được cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam lúc bấy giờ.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
2.1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc
Bề dày lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Điều đó cho thấy khát khao to lớn về một nền độc lập dân
tộc, tự do cho nhân dân của dân tộc ta. Đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng
liêng, bất hủ của dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Tại Hội
nghị Vecxay (Pháp) năm 1919. Người đã gửi tới bàn “Yêu sách của nhân dân An
Nam" với hai nội dung chính là đội quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đôi các
quyền tự do, dân chủ. Mặc dù không được chấp nhận nhưng qua sự kiện trên, lần
đầu tiên tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc thuộc địa mà trước hết là
quyền bình đẳng tự do đã được hình thành.
Trong "Chánh cương vắn tắt của Đảng" năm 1930, Hồ Chí Minh cũng đã xác
định mục tiêu chính trị của Đảng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Người tuyên bố trước đồng bào và thế
giới rằng: “Nước Việt nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Bác khẳng định: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa binh. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất toàn vẹn
lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước". Khi thực dân Pháp tiến hành xâm
lược lần thứ hai, trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến". Người ra lời hiệu
triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ bảng được nên độc lập dân tộc "Không!
Chúng ta thả hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"
Năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam . Trong
hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời
đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nên độc lập, tự do trên thế
giới "Không có gì quý hơn độc lập, tự do.
2.2. Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân Người viện
dẫn bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyển" của Cách mạng Pháp (1791)
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi" và khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được
tự do và bình đẳng về quyền lợi. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành
công, nước nhà được độc lập một lần nữa Bác khẳng định độc lập phải gần với tự
do Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì".
Bên cạnh đó, Người luôn coi độc lập cũng phải gắn với cơm no áo ấm và hạnh
phúc của nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết. Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bao ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
2.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để. Độc
lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về
ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng... thì độc lập đó
chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh nước ta còn nhiều khó
khăn sau Cách mạng tháng Tám, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện
Chính phủ Pháp “Hiệp định Sơ bộ” (6-3-1946), theo đó: “Chính phủ Pháp công
nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của
mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình".
Sau Cách mạng tháng Tám, lợi dụng tình hình đất nước ta còn đang rối ren,
thực dân Pháp lại bảy ra cái gọi là “Nam Kỳ tự trị hòng chia cắt nước ta lần nữa.
Trong hoàn cảnh đó, Bác đã khẳng định trong " Thư gửi đồng bảo Nam Bộ"
(1946): “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể
môn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi . Mặc dù sau Hiệp định Gionevo
(1954), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Người vẫn tiếp tục kiên trì đấu
tranh thống nhất đất nước. Tháng 2-1958, Người khẳng định: “Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một . Trong Di chúc" Người đã thể hiện niềm tín tuyệt
đối và thắng lợi của cách mạng: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bao
Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Có thể thấy rằng, tư tưởng trên là từ
tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2.4. Độc lập cho dân tộc minh, đồng thời độc lập cho tất cả dân tộc khác
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối
với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới. Đó là sự cổ vũ cho các quốc gia bị mất độc lập ở châu Á, châu Phi, khu
vực Mỹ Latinh đấu tranh. Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách
mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc ban là Miêu và
Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công nhân dần hai nước Miên, Lào cùng nổi lên
chống đế quốc và đòi độc lập" (2). Điều này đã chứng mình một chân lý của thời
đại: các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng
đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập, tự do; đứng vững trên lập trưởng
của giai cấp công nhân và biết tranh thủ sức mạnh của thời đại thì dân tộc đó. nhất định thắng lợi