Lý thuyết Pháp luật Đại cương - Pháp Luật Đại Cương | Trường Đại học Hà Nội
1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Preview text:
lOMoARcPSD|46958826 lOMoARcPSD|46958826 PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
CHƯƠNG I: CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
1. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC
Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã
hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã
hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội.
1.1 Nguồn gốc của nhà nước:
NN là một hiện tượng đa dạng, phức tạp, có tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì
vậy, cũng có nhiều cách lí giải về sự ra đời của NN, tiêu biểu là một số quan điểm sau:
a. Quan điểm phi Mác – xít
- Theo thuyết thần học (thần quyền), NN do thượng đế tạo ra để duy trì và ổn định trật tự xã hội, quyền
lực của NN là bất biến, NN tồn tại vĩnh cửu. Do đó, con người có nghĩa vụ phải phục tùng vô hạn đối
với NN, bởi phục tùng NN chính là phục tùng thượng đế. Thuyết này ra đời ở phương Tây, do
Augustin – nhà thần học thời trung cổ khởi xướng. Ở phương Đông không có học thuyết thần quyền
hoàn chỉnh về nguồn gốc NN, nhưng tư tưởng thần thánh hóa quyền lực của NN thể
hiện sâu sắc trong những quan niệm “Vua là thiên tử”, “thay trời hành đạo". -
Theo thuyết gia trưởng (đại diện là các nhà tư tưởng lớn như: Platon, Aistole), NN là kế tục sự
phát triển tự nhiên của tổ chức gia đình trên bình diện xã hội. NN có trong mọi xã hội và quyền
lực NN cũng giống như quyền của người gia trưởng, đứng đầu gia đình. Đây là quyền lực tuyệt
đối, chỉ truyền cho con trai theo huyết thống, “lời cha mẹ chính là pháp luật”, Tư tưởng này
cũng tương tự như quan niệm của Khổng Tử “quốc gia như một gia đình mà gia đình như một tiểu quốc gia. -
Theo thuyết bạo lực (đại diện là Gumplovic, E. During): NN xuất hiện trực tiếp từ chiến tranh
giữa các thị tộc. Theo đó thị tộc chiến thắng lập ra một hệ thống cơ quan đặc biệt gọi là NN để
cai trị kẻ chiến bại (như: NN Lưỡng Hà, Hy Lạp, Peru, Colombia...). Như vậy, NN là sản phẩm
tất yếu của xã hội, là công cụ để kẻ mạnh nô dịch kẻ yếu. -
Theo thuyết khế ước xã hội (đại biểu là B. Spinoza J. Locke, J.J. Rousseau...), NN là kết quả của
khế ước (hợp đồng) xã hội giữa cộng đồng xã hội với tổ chức được giao quyền lực công gọi là
NN để thay mặt họ quản lý xã hội. Trong trường hợp NN thực hiện không tốt được vai trò của
mình thì khế ước sẽ mất hiệu lực, nhân dân có quyền lật đổ NN và thiết lập khế ước mới. Quan
điểm khẳng định quyền lực NN xuất phát từ xã hội, thuộc về xã hội là một bước tiến có tính
cách mạng trong bối cảnh ra đời vào thế kỉ XVI.
Các quan điểm trên giải thích về nguồn gốc nhà nước từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng có những
hạn chế cơ bản: tách rời nhà nước với điều kiện thực tế của xã hội; khẳng định sự tồn tại của nhà nước
là bất biến; xem xét vai trò của nhà nước và sự thay thế nhà nước một cách đơn giản, thiếu thực tế.
CÂU HỎI: KHUYẾT ĐIỂM, HẠN CHẾ LÀ GÌ? (SLIDE) b. Học thuyết Mác-Lê Nin
- Bằng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, học thuyết Mác – Lênin đã khẳng
định nhà nước không phải là hiện tượng vĩnh cửu, bất biến; nhà nước là hiện tượng lịch sử, có lOMoARcPSD|46958826
quá trình phát sinh, phát triển, tiêu vong. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển
đến một giai đoạn nhất định và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó mất đi.
- Học thuyết Mác – Lênin giải thích về nguồn gốc nhà nước xuất phát từ chính những điều kiện kinh
tế - xã hội, xem xét sự thay đổi của các điều kiện này từ xã hội đầu tiên có tổ chức cho đến
những hình thái kinh tế - xã hội tiếp theo:
Chế độ cộng sản nguyên thủy là tổ chức xã hội đầu tiên của loài người.
Về mặt kinh tế, với phương thức lao động giản đơn, lạc hậu, chưa có phân công lao động
nên cộng đồng thực hiện nguyên tắc “cùng làm cùng hưởng”, chưa có tư hữu.
Về mặt xã hội, các thành viên xã hội không có sự khác biệt nhau về lợi ích kinh tế, địa vị xã
hội nên bình đẳng tuyệt đối về mọi mặt, không có sự phân chia giai cấp. Đơn vị cơ sở tổ
chức xã hội là thị tộc, bào tộc và bộ lạc.
Với những đặc trưng kinh tế, xã hội như vậy, xã hội nguyên thủy chưa có những mâu
thuẫn lớn cần đến vai trò của một tổ chức như NN, vì vậy, NN chưa ra đời.
Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện nhà nước
- Xã hội nguyên thủy trải qua 3 lần phân công lao động xã hội lớn, dẫn tới những thay đổi về kinh
tế và xã hội, cụ thể là:
Lần thứ nhất: Nghề chăn nuôi tách khỏi trồng trọt.
Năng suất lao động xã hội tăng lên vượt bậc, xã hội đã xuất hiện những sản phẩm dư thừa, từ đó làm
xuất hiện nhu cầu chiếm giữ sản phẩm dư thừa đó – tư hữu ra đời. Hiện tượng đó đã làm cho xã hội phân
chia thành kẻ giàu, người nghèo, quan hệ xã hội dần biến đổi, chế độ chiếm hữu nô lệ dần xuất hiện.
Lần thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp.
Phân hóa xã hội diễn ra ngày một mạnh mẽ. Nô lệ đã trở thành một lực lượng xã hội với số lượng
ngày càng lớn, sự phân biệt giữa kẻ giàu, người nghèo ngày càng sâu sắc, đối kháng giai cấp ngày càng gia tăng.
Lần thứ ba: nền sản xuất hàng hóa và tiền tệ ra đời, thương mại phát triển, tầng lớp thương nhân
xuất hiện Quá trình tích tụ và tập trung của cải dư thừa, tư liệu sản xuất vào tay một số người
giàu có diễn ra nhanh chóng, làm gia tăng khoảng cách giàu – nghèo trong xã hội. Số lượng
người nghèo, nô lệ ngày càng tăng mạnh cùng với đó là sự cưỡng bức, bóc lột ngày càng nặng nề của giai cấp chủ nô. lOMoARcPSD|46958826
- Như vậy, sau ba lần phân công lao động xã hội, về kinh tế đã xuất hiện tư hữu; về xã hội đã phân
chia thành các giai cấp đối kháng nhau, mâu thuẫn với nhau ngày càng gay gắt, tổ chức thị tộc
bất lực, không thể điều hòa được những mâu thuẫn lớn này. Từ đó, xã hội cần đến một thiết chế
đủ mạnh để duy trì trật tự xã hội, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, đó là NN.
- Như vậy, theo học thuyết Mác – Lênin, nhà nước ra đời từ sự tan rã của chế độ công xã nguyên
thủy, khi xã hội chuyển sang hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ. Hai điều kiện dẫn đến sự
ra đời và tồn tại của NN là: về kinh tế - tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, về xã hội – có
sự phân chia xã hội thành các giai cấp. “Nhà nước ra đời từ yêu cầu phải kiềm chế những đối
kháng giai cấp, nhưng vì nhà nước đồng thời cũng ra đời giữa cuộc xung đột của các giai cấp ấy
nên theo lệ thường, nó là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất 2.
Đó là quy luật hình thành nhà nước nói chung. Trên thực tế, ở các quốc gia khác nhau, chịu ảnh hưởng
của các điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau, sự xuất hiện nhà nước cũng có những cách thức đặc thù.
Các nhà nước phương Đông cổ đại xuất hiện từ rất sớm do những yêu cầu tự vệ trước các thế lực ngoại
xâm hoặc từ nhu cầu trị thủy, xây dựng hệ thống tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Ở những nhà nước
này, chế độ tư hữu có xuất hiện nhưng chủ yếu về tư liệu sinh hoạt, mâu thuẫn giai cấp chưa đến mức
căng thẳng. Chỉ sau khi đã ra đời, nhà nước mới bị giai cấp thống trị sử dụng để duy trì quyền lợi giai
cấp cả về kinh tế, chính trị và tư tưởng 3.
CÂU HỎI: Ưu điểm, tính lý luận như thế nào? (SLIDE)
1.2 Bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước là tổng thể những phương diện, mối liên hệ, những thuộc tính tất nhiên bên
trong của nhà nước, quy định sự tồn tại, phát triển của nhà nước.
Bản chất của nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng nhất là cơ sở kinh tế
và cơ sở xã hội của nhà nước.
Bản chất nhà nước thể hiện ở tính giai cấp và tính xã hội.
Tính giai cấp của nhà nước
- Tính giai cấp của nhà nước thể hiện: Nhà nước do một giai cấp trong xã hội tổ chức ra và nắm giữ
quyền lực – gọi là giai cấp cầm quyền. Quyền lực của nhà nước được sử dụng với mục đích trước
hết là bảo vệ lợi ích và vị thế của giai cấp đó.
- Sự thống trị của giai cấp cầm quyền thể hiện ở các phương diện cơ bản:
Về kinh tế: Nhà nước – giai cấp cầm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như: đất
đai, hầm mỏ, nhà máy, công nghiệp... lOMoARcPSD|46958826
Về chính trị: Nhà nước sử dụng các biện pháp (kể cả bạo lực, cưỡng chế) để cùng cố, tăng cường
quyền lực và ưu thế của giai cấp nắm quyền lực nhà nước.
Về tư tưởng: giai cấp cầm quyền sử dụng bộ máy nhà nước để truyền bá hệ tư tưởng phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Tính giai cấp của nhà nước là thuộc tính cơ bản, nổi trội của nhà nước. Vì vậy, nhà nước mang bản chất
của giai cấp thống trị xã hội. Không có nhà nước phi giai cấp hoặc nhà nước mang bản chất của nhiều giai cấp.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, sự tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội
mà mức độ biểu hiện tính giai cấp ở mỗi nhà nước là khác nhau.
Tính xã hội của nhà nước
- Xét về nguồn gốc, nhà nước sinh ra không phải chỉ vì nhu cầu thống trị giai cấp mà trước hết là bởi
nhu cầu quản lý xã hội, nhà nước cũng tồn tại và phát triển dựa trên những điều kiện thực tế của
xã hội Nhà nước cũng không thể tồn tại nếu chỉ bảo vệ lợi ích của duy nhất giai cấp cầm quyền
mà không quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích cơ bản của các giai tầng khác trong xã hội. Nhà nước
thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, duy trì
trật tự xã hội, giải quyết các vấn đề phát sinh trong nội bộ đất nước và liên quan đến các quốc
gia, các tổ chức quốc tế khác.
- Tính xã hội của nhà nước cũng biểu hiện khác nhau ở mỗi kiểu nhà nước, phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh thực tế. Theo quy luật chung, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, tính xã
hội của nhà nước ngày càng mở rộng; có nhiều vấn đề đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều nhà
nước như: vấn đề việc làm, lao động, bảo vệ môi trường, đấu tranh phòng, chống tội phạm
CÂU HỎI: MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH GIAI CẤP + TÍNH XÃ HỘI
CÁCH LÀM CÂU HỎI CHO PHẦN NGUỒN GỐC: SÁCH TRANG
12 + ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SLIDE
1.2 CHỨC NĂNG VÀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC a. Chức năng:
- Chức năng của nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước, phù hợp với bản chất, mục
đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong
những giai đoạn phát triển của nó.
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động của nhà nước, chức năng của nhà nước có thể được phân thành: chức
năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng trấn áp, chức năng hợp tác quốc tế và chức năng phòng thủ đất nước. lOMoARcPSD|46958826
- Căn cứ vào phạm vi tác động, chức năng nhà nước được phân thành chức năng đối nội và
chức năng đối ngoại. Đây là tiêu chí phổ biến xác định chức năng của nhà nước. - Chức năng đối nội:
Là phương diện hoạt động của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia. Đây là những hoạt động mang tính nội bộ của nhà nước để giải quyết các vấn
đề dân sinh, ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của mình. - Chức năng đối ngoại:
Là phương diện hoạt động của nhà nước trong mối quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác. Thông
qua các hoạt động như: thiết lập quan hệ hợp tác với các quốc gia khác; bảo vệ chủ quyền quốc
gia, phòng thủ đất nước, chống lại sự xâm lược từ bên ngoài; tham gia các hoạt động quốc tế vì lợi
ích chung của cộng đồng (bảo vệ môi trường, chống khủng bố, tham gia các hoạt động cứu trợ vì mục đích nhân đạo...).
Chức năng đối ngoại có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhà nước, nó hỗ
trợ cho việc thực hiện chức năng đối nội.
- Chức năng đối nội, đối ngoại có mối quan hệ chặt chẽ, tác động, hỗ trợ lẫn nhau. Chức năng đối
nội giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối với chức năng đối ngoại. Việc thực hiện chức năng đối
ngoại xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của chức năng đối nội nhằm hỗ trợ việc thực hiện chức năng đối nội. (thêm slide 39) b. Bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức và
hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Đặc điểm của bộ máy nhà nước:
Bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan nhà nước
Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản cấu thành nhà nước, bao gồm số lượng người nhất định, được tổ
chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước.
Hai là, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định lOMoARcPSD|46958826
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lí, những tư tưởng chỉ đạo, là
cơ sở cho toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Các nhà nước khác nhau tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc khác nhau, căn cứ điều kiện kinh
tế xã hội, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Tổ chức bộ máy nhà nước:
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có sự phân công chức năng, nhiệm vụ theo các quyền chủ yếu:
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Cơ quan lập pháp: Quốc hội/Nghị viện
Quốc hội được thành lập thông qua bầu cử, có chức năng chính gồm: Lập hiến và lập pháp; là cơ
quan giám sát; là cơ quan đại biểu (ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất).
Quốc hội có thể được tổ chức theo cơ cấu một viện (như Việt Nam) hoặc lưỡng viện (như: Hoa Kỳ, Ý, Nhật Bản...)
Cơ quan hành pháp: Chính phủ và các cơ quan hành pháp ở địa phương
Cơ quan hành pháp là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thực hiện, thi hành Hiến pháp và pháp luật.
Chính phủ (nội các) là cơ quan trung ương giữ quyền hành pháp trong bộ máy nhà nước. Chính phủ
thường gồm người đứng đầu (thủ tướng, tổng thống), các bộ trưởng, một số quan chức cao cấp khác có
vị trí tương đương bộ trưởng (thủ trưởng cơ quan ngang bộ).
Chính phủ giữ vai trò trung tâm của việc hoạch định chính sách, xây dựng các dự án luật để trình
quốc hội. Chính phủ tổ chức thi hành pháp luật. Cơ quan xét xử: Tòa án
Tòa án có hai chức năng chính: chức năng xét xử và chức năng bảo vệ pháp luật. Tòa án thực hiện
chức năng xét xử theo nguyên tắc: độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử công khai. Tòa án được tổ
chức theo nhiều cấp, tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia. lOMoARcPSD|46958826
Cơ quan kiểm sát, công tố:
Ở các nước trên thế giới, cơ quan kiểm sát, công tố được tổ chức theo những mô hình khác nhau: có nước
đặt cơ quan kiểm sát, công tố nằm trong nhánh quyền hành pháp, có nước đặt trong nhánh quyền tư pháp,
nhưng cơ quan này đều có nhiệm vụ chính là nắm quyền công tố, tham gia các hoạt động tố tụng, điều
tra, thẩm vấn; thực hiện chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo, buộc tội và bảo vệ
cáo trạng trước tòa; chỉ đạo và giám sát việc thi hành án.
Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước
Có hai lý thuyết nổi tiếng về tổ chức quyền lực nhà nước, từ đó hình thành nên 2 nguyên tắc cơ bản,
phổ biến ở các nhà nước hiện đại là: Thuyết tam quyền phân lập và Thuyết tập trung quyền lực.
Nguyên tắc phân chia quyền lực: hình thành từ Thuyết tam quyền phân lập. Theo lý thuyết này, quyền
lực nhà nước phải được phân chia thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Các loại
quyền này do các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện một cách độc lập; các cơ quan này hoạt động
theo cơ chế đối trọng và kiểm soát lẫn nhau.
Nguyên tắc tập quyền (lý thuyết về tập trung quyền lực): Theo lý thuyết này, quyền lực nhà nước là
thống nhất, không thể phân chia nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước. Lý thuyết này được thể hiện trong lý luận và thực tiễn tổ chức, hoạt động của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, các nhà nước được tổ chức theo các nguyên tắc riêng phù hợp với bản chất, định hướng, mục tiêu
phát triển của mỗi quốc gia. Ví dụ như: Nhà nước CHXHCN Việt Nam được tổ chức theo các nguyên tắc:
Nguyên tắc pháp chế, Nguyên tắc bảo đảm chủ quyền nhân dân, Nguyên tắc tập trung dân chủ...
Trong phần 1.2, người học cần lưu ý:
Chức năng của nhà nước được thực hiện thông qua nhiều hoạt động, có sự thay đổi theo những điều kiện
cụ thể của nhà nước và xã hội. Vì vậy, khi tìm hiểu về chức năng của nhà nước, cần liên hệ với những
chính sách, hoạt động của một nhà nước cụ thể, lí giải sự khác biệt hoặc thay đổi trong chức năng của
nhà nước trong mối liên hệ với những yếu tố như: bản chất nhà nước, điều kiện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội... của quốc gia. lOMoARcPSD|46958826
Tổ chức của bộ máy nhà nước hiện đại có những hệ thống cơ quan chủ yếu thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, mỗi nhà nước có những cơ chế khác nhau trong việc xác lập vị trí, mối quan
hệ giữa các cơ quan này, vì vậy, lí giải về cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần dựa vào
nhiều yếu tố, trong đó có những nguyên tắc cơ bản. Người học có thể vận dụng vấn đề lý luận này vào giải
thích về tổ chức và hoạt động của bộ máy một số nhà nước hiện đại như: Mỹ, Nga, Pháp, Nhật, Việt Nam,
Trung Quốc... Nắm chắc kiến thức trong phần này sẽ giúp người học có cơ sở khoa học để xem xét các vấn đề
thời sự liên quan đến đời sống chính trị, ngoại giao trong và ngoài nước hiện nay.
1.3. Vị trí và đặc điểm của nhà nước
a. Vị trí của nhà nước
Nhà nước giữ vị trí trung tâm, với vai trò đặc biệt trong đời sống xã hội. Vị trí của nhà nước thể hiện
rõ nét trong những mối quan hệ phổ biến, cơ bản của nhà nước:
Mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội
Xã hội bao hàm nhà nước và các giai cấp, tầng lớp, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và các cá nhân. Xã hội là
tiền đề, điều kiện cho sự ra đời, tồn tại và phát triển đối với nhà nước. Khi xã hội thay đổi sẽ dẫn đến sự thay
đổi của nhà nước về tổ chức, hoạt động, vận hành. Các chính sách quản lí điều hành và pháp luật của nhà nước
phải xuất phát từ điều kiện thực tế của xã hội, theo kịp trình độ phát triển của xã hội. Ví dụ: chính sách quản lý
của nhà nước về kinh tế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai... Tuy nhiên, nhà nước
cũng có tác động mạnh mẽ, định hướng sự phát triển của xã hội theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Vì
vậy, mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội có tính chất biện chứng.
Mối quan hệ giữa nhà nước và các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng
Trong thượng tầng kiến trúc xã hội có giai cấp, ngoài nhà nước còn có các bộ phận cấu thành khác như:
chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo... Giữa nhà nước và các bộ phận này có mối
quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Trong mối quan hệ giữa
chính trị với nhà nước, cơ bản nhất là tác động của đảng cầm quyền
đối với nhà nước về nguyên tắc hoạt động, đường lối phát triển. Tùy
theo đặc thù của mỗi quốc gia, mối quan hệ này có biểu hiện khác nhau. lOMoARcPSD|46958826
Nhà nước và pháp luật có cùng nguyên nhân hình thành nhưng cách
thức ra đời khác nhau. Pháp luật do nhà nước xây dựng đồng thời
được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế và
các phương pháp giáo dục, thuyết phục, khuyến khích... Trong xã hội
tiến bộ, dân chủ, nhà nước cũng phải hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, vì vậy, hệ thống pháp luật hoàn thiện là một trong những
điều kiện để nhà nước vận hành hiệu quả.
Trong quá trình quản lý xã hội, nhà nước cũng chịu ảnh hưởng của
tôn giáo, đạo đức, văn hóa... ở những mức độ khác nhau. Các chính
sách quản lí điều hành của nhà nước phải phù hợp với các yếu tố
này. Ngược lại, nhà nước cũng quản lý, quyết định sự tồn tại và phát
triển của các hoạt động tôn giáo, giá trị đạo đức, văn hóa...
Mối quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
Các đảng phái chính trị, tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong đời
sống chính trị xã hội. Các tổ chức này hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật của nhà nước, tuy nhiên, nhà nước có ưu thế, sức mạnh
riêng mà các tổ chức khác không có được. Tuy nhiên, NN muốn hoạt
động hiệu quả cũng phải dựa vào các tổ chức – nơi tập hợp các
bộ phận, tầng lớp dân cư.
b. Đặc điểm của nhà nước
Đặc điểm cơ bản của nhà nước là các yếu tố để phân biệt nhà nước
với các tổ chức khác trong xã hội. Mặc dù mỗi kiểu nhà nước đều có
những bản chất riêng, nhưng các nhà nước đều có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhà nước thiết lập quyền lực công đặc biệt, thực hiện
quyền lực thông qua bộ máy quản lý lOMoARcPSD|46958826
Nhà nước là tổ chức duy nhất có bộ máy gồm một hệ thống các cơ
quan có tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Bộ máy
nhà nước có chức năng, nhiệm vụ quản lý hoạt động của tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của mình, nhà nước – thông qua các quy định pháp luật trao cho các
cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước những quyền và nghĩa vụ
nhất định. Quyền lực của nhà nước tác động đến toàn xã hội, được
bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế.
Khi điều kiện xã hội thay đổi, các quy định về quyền lực của bộ máy
nhà nước cũng được điều chỉnh, tuy nhiên, quyền lực của nhà nước
luôn được củng cố và phát triển.
Thứ hai, nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính
và thực hiện quản lý dân cư theo lãnh thổ.
Nhà nước phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính để tổ
chức bộ máy nhà nước một cách chặt chẽ và thống nhất với sự
phân công, phân cấp trong việc thực hiện các hoạt động quản lý nhà
nước. Việc quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính không phụ
thuộc vào yếu tố huyết thống, chính kiến, giới tính, độ tuổi hay nghề nghiệp.
Thứ ba, nhà nước đại diện cho chủ quyền quốc gia Chủ quyền quốc
gia là quyền tối cao trong đối nội và độc lập trong đối ngoại của nhà
nước mà không chịu sự áp đặt từ bên ngoài.
Với tư cách là đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà nước là tổ
chức duy nhất đại diện cho chủ quyền quốc gia, ban hành các
chính sách đối nội và đối ngoại; thực hiện các biện pháp bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Thứ tư, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật lOMoARcPSD|46958826
Pháp luật được xác định là phương tiện quan trọng nhất để tổ chức
và quản lý xã hội. Trong xã hội có nhà nước, chỉ duy nhất nhà nước
có quyền ban hành pháp luật. Nhà nước xây dựng hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, đồng thời đảm
bảo cho các quy phạm đó được thực thi. Pháp luật được áp dụng đối
với mọi chủ thể trong xã hội.
Thứ năm, nhà nước có quyền đặt ra các loại thuế và thực hiện các chính sách tài chính
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia dùng để chi trả
cho các hoạt động của bộ máy nhà nước, đầu tư cho cơ sở hạ tầng
và giải quyết các vấn đề xã hội cũng như để tích lũy. Việc quy định về
các loại thuế và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách quốc gia là trách
nhiệm của nhà nước. Chỉ có nhà nước mới có quyền quy định và thu
các loại thuế, bởi nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội.
- Những lưu ý đối với phần 1.3
- Để giải thích về vị trí trung tâm, đặc biệt của nhà nước, người học
cần xem xét mối quan hệ của nhà nước với một số yếu tố, bộ phận
quan trọng trong xã hội; đồng thời xuất phát từ những điều kiện riêng
có của nhà nước là: nhà nước có cơ sở kinh tế, xã hội rộng lớn nhất;
nhà nước có quyền lực. Điều này có thể thấy ở bất kì nhà nước nào
trong lịch sử phát triển: chủ nô, phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa...
Khi phân tích các đặc điểm của nhà nước, người học cần giải thích
rõ lí do, biểu hiện của mỗi đặc điểm; lấy ví dụ cụ thể trong các hoạt
động của nhà nước để minh họa. Mặt khác, những đặc điểm của
nhà nước cần được xem xét trong sự so sánh nhà nước với các tổ
chức thị tộc, bộ lạc và các tổ chức, đoàn thể xã hội ngày nay, từ đó
thấy rõ hơn vị trí của nhà nước trong xã hội. lOMoARcPSD|46958826
1.4. Kiểu nhà nước và hình thức nhà nước a. Kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc
thù của nhà nước, thể hiện bản chất của nhà nước và những điều
kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn tại bốn hình thái kinh tế xã hội
có giai cấp, bao gồm: hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình
thái kinh tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa và hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội. Tương ứng và phù hợp với mỗi hình thái kinh tế -
xã hội đó là một kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà nước phong
kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước trong lịch sử: Nhà nước chủ nô:
Đây là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại, xuất hiện trên
cơ sở sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Về cơ bản, sự ra
đời của nhà nước chủ nô dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ
trong điều kiện xã hội xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất và phân hóa thành các giai cấp.
Nhà nước chủ nô là công cụ bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, dựa trên
nền tảng quan hệ bóc lột trực tiếp của chủ nô đối với người nô lệ.
Nhà nước tổ chức thành bộ máy, do giai cấp chủ nô nắm quyền và
thực hiện sự trấn áp đối với người nô lệ và những người lao động
khác trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị, tư tưởng. lOMoARcPSD|46958826 Nhà nước phong kiến:
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chế của giai cấp phong
kiến đối với nông dân và các tầng lớp lao động khác. Nhà nước
phong kiến tồn tại dựa trên cơ sở độn chế độ sở hữu phong kiến
về ruộng đất và các tư liệu sản xuất như nông cụ, súc vật.
Các nhà nước phong kiến trên thế giới đã ra đời bằng nhiều con
đường khác nhau. Ở các nước có chế độ nô lệ tồn tại một cách điển
hình, nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế độ
chiếm hữu nô lệ. Ở những nước không có chế độ chiếm hữu nô lệ,
nhà nước phong kiến ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế độ cộng
sản nguyên thủy trong điều kiện chuyển biến dần của chế độ cộng
sản nguyên thủy sang chế độ phong kiến.
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là quan hệ sản xuất phong
kiến với đặc trưng là chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (chủ
yếu là ruộng đất) và sự bóc của giai cấp phong kiến đối với nông
dân (thông qua chế độ tô, thuế). Vì thế, quyền lực kinh tế, chính trị,
tư tưởng trong xã hội thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước tư sản:
Nhà nước tư sản có nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so với nhà nước
chủ nô và nhà nước phong kiến.
Bản chất của nhà nước tư sản là công cụ thiết lập và bảo vệ chế độ
dân chủ tư sản. Về mặt pháp lý, mọi quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân được thực hiện thông qua cơ quan đại diện hoặc bằng các
biện pháp dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, trong xã hội đó, giai cấp tư
sản có lợi thế hơn giai cấp khác về kinh tế nên họ có ưu thế hơn
trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. lOMoARcPSD|46958826
Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản dựa trên chế độ sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ sở xã hội của nhà nước tư
sản: xã hội tư sản gồm hai giai cấp chính là tư sản và công nhân,
ngoài ra còn có các giai cấp, tầng lớp khác: nông dân, tiểu thương,
trí thức, thợ thủ công... giai cấp tư sản chỉ chiếm thiểu số trong dân
cư nhưng nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, phần lớn tư liệu sản
xuất của xã hội, là lực lượng nắm giữ quyền lực kinh tế. Người lao
động làm thuê mà chủ yếu là công nhân chiếm đa số dân cư nhưng
chỉ nắm giữ phần nhỏ tài sản của xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới, có bản chất khác
với các kiểu nhà nước trước đó. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do giai
cấp công nhân và nhân dân lao động – lực lượng chiếm đa số trong
xã hội làm chủ. Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và
thực hiện công bằng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do
giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. b. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và
phương pháp để thực hiện quyền lực nhà nước.
Hình thức nhà nước là khái niệm chung được tạo thành bởi ba yếu
tố: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ chính trị. Hình thức chính thể lOMoARcPSD|46958826
Hình thức chính thể là cách thức và trình tự thành lập cơ quan cao
nhất của quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa cơ quan đó
với cơ quan cao cấp khác và với nhân dân.
Lịch sử phát triển nhà nước có hai hình thức chính thể là:
chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa.
- Chính thể quân chủ: Là hình thức chính thể mà ở đó quyền lực tối
cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người
đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa kế (thế tập), thường giữ chức vụ suốt đời.
Chính thể quân chủ có hai dạng: chính thể quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế.
+ Chính thể quân chủ tuyệt đối: quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ trong tay người đứng đầu nhà nước là nhà vua, gồm cả
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hình thức chính thể này tồn
tại chủ yếu ở các nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến.
+ Chính thể quân chủ hạn chế: hình thức mà ở đó quyền lực tối cao
của nhà nước nằm một phần trong tay người đứng đầu nhà nước,
bên cạnh đó có cơ quan khác cùng chia sẻ quyền lực.
Trong các nhà nước tư sản ngày nay, ngôi vua có tính chất biểu
tượng, vua chỉ được coi là thủ lĩnh tinh thần đại diện cho dân tộc,
vua trị vì mà không cai trị, không có thực quyền, quyền lực nhà nước
chủ yếu được thực hiện bởi nghị viện, ví dụ như: Anh, Thụy Điển,
Nhật Bản, Thái Lan... được tổ chức theo hình thức chính thể quân chủ lập hiến.
Chính thể cộng hòa: Là chính thể mà cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất được lập ra bởi nhân dân theo con đường bầu cử, hoạt động theo nhiệm kỳ. lOMoARcPSD|46958826
Chính thể cộng hòa có hai dạng cơ bản là cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ.
+ Cộng hòa quý tộc: có cơ quan quyền lực cao nhất được lập ra bởi
giới quý tộc; tồn tại trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, ở các thành thị
vào cuối chế độ phong kiến.
+ Cộng hòa dân chủ: có cơ quan quyền lực cao nhất được lập ra
bởi nhân dân; đã từng tồn tại ngay trong nhà nước chủ nô (cộng hòa
dân chủ chủ nô ở Athen) và phát triển hơn ở các nhà nước sau này
với các hình thức rất đa dạng, phức tạp.
Hình thức cấu trúc nhà nước
Là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước theo các đơn vị hành
chính – lãnh thổ và xác lập mối quan hệ giữa các cấp chính
quyền nhà nước với nhau.
Hiện nay, có hai hình thức cấu trúc nhà nước cơ bản là: nhà nước
đơn nhất và nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất: là nhà nước có chủ quyền chung, có một hệ
thống pháp luật, có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất
từ trung ương đến địa phương.
- Nhà nước liên bang: là nhà nước do từ hai hay nhiều nước thành
viên có chủ quyền hợp lại. Nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ
quan quyền lực và quản lý: một hệ thống chung cho toàn liên bang
và một hệ thống trong mỗi nước thành viên. Nhà nước liên bang có
chủ quyền chung đồng thời, mỗi nhà nước là thành viên của liên
bang cũng có chủ quyền của riêng mình. Các nhà nước liên bang có
thể kể đến là: Hoa Kỳ, Nga, Đức, Canada, Thụy Sĩ, Malaysia ... Chế độ chính trị lOMoARcPSD|46958826
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà giai cấp
cầm quyền sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong lịch sử nhân loại, các phương pháp, thủ đoạn mà các giai
cấp thống trị sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước thường ở
hai dạng: dân chủ và phản dân chủ.
+ Phương pháp dân chủ: Là phương pháp tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước phải tuân theo quy định của pháp luật, các
chủ thể pháp luật bình đẳng với nhau khi tham gia vào các công việc của nhà nước.
Phương pháp dân chủ trong thực thi quyền lực nhà nước có đặc
trưng là đề cao quyền lực thuộc về số đông nhân dân lao động,
không ngừng mở rộng khả năng tham gia của người dân vào đời
sống chính trị của đất nước. Với ý nghĩa đó, dân chủ vừa là bản chất
của quyền lực đồng thời là phương pháp để thực thi quyền lực trên
thực tế. Các phương pháp dân chủ được nhà nước sử dụng như
giáo dục, thuyết phục, trao quyền, nhượng bộ, thỏa hiệp...
+ Phương pháp phản dân chủ: Là phương pháp thực thi quyền
lực nhà nước, quản lý xã hội theo tư tưởng cực đoan, phản tiến
bộ, đi ngược lại các quyền tự do dân chủ của con người, lạm dụng bạo lực.
1.5. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
a. Bản chất và chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Bản chất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng có đầy đủ các
thuộc tính thể hiện bản chất nhà nước và của nhà nước xã hội chủ
nghĩa nói chung. Tuy nhiên, do sự ra đời, tồn tại gắn với những đặc
điểm hay điều kiện khác biệt nhất định nên Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam còn có những bản chất và những đặc điểm riêng biệt. lOMoARcPSD|46958826
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiền thân là Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là kết quả của cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc, được thành lập ngày 02/09/1945. Sau khi đất
nước thống nhất, năm 1976, Quốc hội đã quyết định đổi tên thành
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng được thể hiện
thông qua bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
Bản chất giai cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được thể hiện là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Nhà nước ta là sản phẩm do nhân dân lập ra từ sau thành công của
Cách mạng Tháng Tám vẫn được duy trì và phát triển. Nhân dân
thường kỳ, theo pháp luật bầu cử, thực hiện quyền bầu cử phổ thông
để lập ra Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trên cơ sở đó,
hình thành bộ máy nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm
vụ của nhà nước. Nhà nước được nhân dân lập ra, nên cũng do
Nhân dân làm chủ và hoạt động vì mục đích bảo vệ địa vị, quyền lợi của Nhân dân.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng thể hiện tính xã
hội một cách rộng rãi và sâu sắc. Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến
việc giải quyết các vấn đề an sinh xã hội như:
Việc làm, thất nghiệp, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ
của nhân dân, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ côi...
Nhà nước coi việc giải quyết các vấn đề an sinh xã hội là một nhiệm
vụ quan trọng trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay.
Chức năng của Nhà nước CHXHCN Việt Nam Chức năng đối nội lOMoARcPSD|46958826
Từ khi hòa bình, thống nhất đất nước, chức năng tổ chức và quản
lý kinh tế trở thành chức năng đối nội quan
trọng nhất của nhà nước. Thực hiện được chức năng này, nhà nước
phải xây dựng những chính sách và tiến hành các hoạt động phù
hớp để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.
Ngoài ra, chức năng đối nội của NN CHXHCN Việt Nam còn thể hiện
ở các phương diện hoạt động chủ yếu như: bảo vệ đất nước; giữ
vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội; xây dựng nền văn hóa
mới; tổ chức và quản lý giáo dục; phát triển y tế, chăm lo sức khỏe
của nhân dân; phát triển khoa học và công nghệ; tăng cường khối
đoàn kết dân tộc; bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó
thảm họa...Mục đích của chức năng này là mang lại lợi ích cho đại
bộ phận nhân dân lao động trong xã hội. Chức năng đối ngoại
Nhà nước thực hiện chính sách hòa bình, hợp tác với tất cả các
nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, hòa bình, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, các bên bình đẳng cùng có lợi.
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác với hơn các quốc
gia và vùng lãnh thổ, không phân biệt về chế độ chính trị xã hội.
Quan hệ hợp tác quốc tế diễn ra trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội, khoa mọc công nghệ, an ninh, môi trường...
b. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyên tắc tổ chức lOMoARcPSD|46958826
Nguyên tắc bảo đảm chủ quyền nhân dân: Nguyên tắc này xuất phát
từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước ta, đó là nhà nước do nhân
dân làm chủ. Nhân dân lập ra nhà nước, ủy quyền cho Nhà nước
thực hiện một phần quyền lực nhân dân. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp: Quyền lực nhà nước cần
thống nhất để bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền
lực nhà nước cần phải được phân công cho các cơ quan nhà nước
khác nhau thực hiện nhằm mục đích chuyên môn hóa, nâng cao hiệu
quả thực hiện quyền lực.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối
với việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Đảng có vai trò
to lớn, quan trọng đối với sự ra đời và phát triển của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong hệ thống chính trị hiện nay, Đảng
cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị có nhiều ưu việt để thực
hiện công việc lãnh đạo đối với nhà nước và toàn thể xã hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung là sự thể hiện, sự đòi hỏi
thống nhất quyền lực về một mối; trong khi đó dân chủ là sự thể hiện
việc tham gia của nhân dân vào việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh
tổ chức và hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước ta.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong
bộ máy nhà nước phải tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.
Mọi cán bộ, công chức nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp
luật khi thi hành công vụ; giám