Lý thuyết Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc | Môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Theo Người, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong thời đại mới, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi thì chưa đủ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
9 trang 4 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lý thuyết Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc | Môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Theo Người, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong thời đại mới, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi thì chưa đủ. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

35 18 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 49831834
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc vấn đý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, đoàn kết một truyền thống cực kỳ qbáu của
dân tộc ta. Theo Người, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong thời đại mới, nếu chỉ có tinh thần
yêu nước thôi thì chưa đủ. Muốn đưa cách mạng đến thành công phải lực lượng cách
mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; mà muốn
lực ợng cách mạng tphải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng thành một
khối thống nhất và vững chắc. Do đó, đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người coi là
vấn đề ý nghĩa chiến ợc, bản, nhất quán lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam.
Hơn thế nữa, đại đoàn kết dân tộc còn vấn đề sống còn của cách mạng, quyết
định thành công của ch mạng. Trong mỗi giai đoạn, với những yêu cầu nhiệm vụ
khác nhau, chính sách phương pháp tập hợp đại đoàn kết thể cần thiết phải điều
chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ được thay đổi
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng.
Đoàn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh điều này. Người
đã nêu ra những luận điểm có tính chất đoàn kết như: Đoàn kết là sức mạnh của chúng
ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển
mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết – Thành công, thành công, đại thành công”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần thế
kỷ qua đã chứng minh, nhờ đại đoàn kết dân tộc nhân dân ta đã giành được nhiều
thắng lợi to lớn, vẻ vang.
1.1.2. Đại đoàn kết toàn dân tộc một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Việt Nam
Trong tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, Người không chỉ nhấn
mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu của cách mạng.
thực hiện được đại đoàn kết dân tộc thì mới thể thực hiện được các mục tiêu
khác. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh coi đây không chỉ khẩu hiệu chiến lược còn mục tiêu lâu dài của cách
mạng, xem như tôn chỉ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lời kết thúc buổi
ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của
Đảng Lao động Việt Nam thể gồm trong 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn luyện miền núi về cách mạng hội chủ
nghĩa, Người chỉ rõ: Trước Cách Mạng Tháng Tám trong kháng chiến, thì nhiệm vụ
lOMoARcPSD| 49831834
tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai
là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi đôc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục
đích của tuyên truyền huấn luyện là: “Một đoàn kết. Hai xây dựng chủ nghĩa
hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết
dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh vấn đề bản của cách mạng. Người
cho rằng “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng
còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết n tộc chính
nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, quần chúng. Như vậy, Đại đoàn kết
yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi khách quan của quần chúng
nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất
bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng phải có
sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
1.2. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc
1.2.1. Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
Trong tưởng HChí Minh, các khái niệm “Dân” nội hàm rất rộng, vừa
được hiểu một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu mỗi con người Việt
Nam cụ thể dùng để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu
Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người
không tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”. Như vậy,
với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, “Dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn
kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
Đại đoàn kết dân tộc cũng nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một
khối trong cuộc đấu tranh chung, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đảng phái,
tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trong nước hay ngoài nước cùng hướng
vào mục tiêu chung. Hồ Chí Minh nhiều lần u rõ: Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với h”. Ta
đây vừa là Đảng, vừa là mọi người dân của Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc y
dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân để qiải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân tộc. Để tập
hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó lòng
trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền
lợi của dân chúng là được.
1.2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc
lOMoARcPSD| 49831834
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết n tộc lớn như vậy, thì phải xác định đâu
là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng
đó. Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền gốc của đại đoàn kết. cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc ốt, n phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Như vậy, theo Hồ
Chí Minh, lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc liên minh
công - nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nền tảng liên minh
công - nông - lao động trí óc càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc
càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn
kết dân tộc.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân”
sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn kết ngoài xã hội.
Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết toàn dân tộc càng được tăng
cường.
1.3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
1.3.1. Phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác
biệt chính đáng
Phải chú trọng xử lý c mối quan hệ lợi ích rất đa dạng, phong phú trong hội
Việt Nam. Chỉ xử tốt quan hệ lợi ích, trong đó tìm ra điểm ơng đồng, lợi ích
chung thì mới đoàn kết được lực lượng. Mục đích chung của Mặt trận được Hồ C
Minh xác định cụ thể, phù hợp từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao
nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát
từ mục tiêu nước dân trên sở yêu nước, thương dân, chống áp bức, bốc lột,
nghèo nàn, lạc hậu. Người cho rằng nếu nước được độc lập dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.
1.3.2. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc
Truyền thống y được hình thành, cũng cố phát triển trong suốt quá trình
dựng nước giữ ớc hàng ngàn m của dân tộc đã trthành giá trị bền vững,
thấm sâu vào tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền
qua nhiều thế hệ. Truyền thống đó cội nguồn sức mạnh định để cả n tộc chiến
đấu và chiến thắng thiên tai địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, giữ vững bản
sắc dân tộc.
1.3.3. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người
Theo Hồ CMinh, trong mỗi nhân, cộng đồng đều mặt tốt, mặt xấu, ...
Cho nên lợi ích cách mạng thì cần phải lòng khoan dung độ lượng dù phần thiện
nhỏ nhất mỗi người, vậy mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng, “Năm ngón
tay cũng ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay”. Cần
phải đoàn kết với cả những người lầm đường, lạc lối, nhưng biết hối cải. Cần xóa bỏ
lOMoARcPSD| 49831834
hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục
vụ nhân dân. Lòng khoan dung, độ lượng ở HChí Minh không phải một sách lược
nhất thời, một thủ đoạn chính trị sự tiếp nối phát triển truyền thống nhân ái,
bao dung của n tộc. Đây một tưởng nhất quán thể hiện trong đường lối, chính
sách của Đảng. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ thì những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta
cũng thật thà đoàn kết với họ”. Để thực hiện được đoàn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành
kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng, trong
mỗi con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong.
Tấm lòng yêu nước đó có khi bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh ơng tri con người
thì lòng yêu nước đó lại bộc lộ.
1.4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt trận
dân tộc thống nhất
1.4.1. Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan
niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu phải trở thành một chiến lược cách
mạng, phải trở thành khẩu hiệu nh động của toàn Đảng, toàn dân tộc. phải biến
thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất tổ chức. Tổ chức đó chính
mặt trận dân tộc thống nhất.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh
điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất thể những nét khác nhau, tên gọi của
mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng thể khác nhau: Hội Phản đế đồng minh
(1930); Mặt trận dân chủ (1936); Mặt trận nhân dân phản đế (1939); Mặt trận Việt Minh
(1941); Mặt trận Liên Việt (1951); Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
(1960); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955,1976)… Song thực chất chỉ là một, đó là tổ
chức chính trị - hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo
các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức nhân yêu nước
trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ
quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
1.4.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những
nguyên tắc sau đây:
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh ng nhân - nông dân- trí
thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí
Minh, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân
tộc, kết thành một khối vững chắc đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên
minh công – nông - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trên thực tế theo Hồ Chí
lOMoARcPSD| 49831834
Minh, đại đoàn kết không chỉ nh cảm của “người chung một ớc phải thương nhau
cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.
Hồ Chí Minh viết: Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ
rõ ràng, sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng “họ là người trực tiếp sản
xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc
lột nặng nề hơn hết. chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng
lớp khác”. Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công
nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công nông
không thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là
tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải có trí thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đối
với cách mạng. Người nói: Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng
hội chủ nghĩa, lao động trí óc một vai tquan trọng và vẻ vang: và công, nông, tri
cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất
yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện
ra các quy luật khách quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối phương
pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành ng các nhiệm cách
mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong Mặt trận có thể làm
được. Mục tiêu của Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc giải phóng giai cấp, kết
hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa hội. Ngoài lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân
tộc, Đảng không lợi ích nào khác. Mặc vậỵ, quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng
không phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận.
Để lãnh đạo mặt trận hoàn thành nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc giải
phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng phải có chính sách
Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn. từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với
quyền lợi nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo mặt trận,
Đảng phải đi đúng đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh ép
các thành viên trong mặt trận, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục,
nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự
nguyện, tuyệt đối không được lấy quyên uy của mình để buộc các thành viên khác trong
mặt trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, Hồ
Chí Minh căn dặn: “Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. n bộ và
đảng viên không được tự cạo, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người: trái lại phải
học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người...phải tích cực và phải chủ động...làm việc phải
kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận. Cán bộ đảng viênquyết tâm làm
như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều”.
Hai là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên sở bảo đảm lợi ích
tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
lOMoARcPSD| 49831834
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song
khối đại đoàn kết đó chỉ thể thực hiện bền chặt lâu dài khi sự thống nhất cao
độ về mục tiêu lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ
Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một
số phận. Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một
số phận thì cộ kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vần không thể nào có được.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ
thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng
dân tộc vào khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do nguyên tắc bất di bất dịch,
ngọn cờ đoàn kết mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân
tộc. tôn giáo vào trong Mặt trận, vấn đề còn lại là chỗ phải làm thế nào để tất cả mọi
người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối
cao đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích
cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới thực hiện.
Ba là, mặt trận phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chbảo đảm
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc. tôn giáo khác nhau với nhiều lợi
ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc
hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đem ra đtất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí,
loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chhình thức. Mặt trận lấy việc thống nhất lợi ích tối
cao của dân tộc với lợi ích bản của các giai tầng trong xã hội làm sở để củng cố
không ngừng mở rộng. Bởi nói đến đại đoàn kết là giải quyết các mối quan hệ và vấn
đề lợi ích giữa cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp dân tộc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tìm ra mẫu số chung, quy tụ điểm tương đồng của mọi người Việt Nam là
tinh thần yêu nước khát vọng độc lập, tự do. Theo Người, giải quyết quan hệ về lợi
ích phải tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đáp ứng nguyện vọng chung của toàn thể
dân tộc, nhưng lại chăm lo tới cả lợi ích chính đáng của nhân, trong đó lợi ích
nhân phải phục tùng lợi ích chung của dân tộc. Điều này thể hiện trong tiến trình cách
mạng Việt Nam.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp
phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao thực hiện được mục tiêu:
“Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để mở rộng
khối đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào mặt trận dân tộc thống nhất.
Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất khối đoàn kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
lOMoARcPSD| 49831834
Tại Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh - Liên Việt (tháng 3-1951). Người nêu
rõ: “Trong Đại hội này, chúng ta có đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc,
giả có trẻ nam có, nữ có thật một gia đình tương thân tương ái. Chắc rằng sau cuộc
Đại hội, mỗi đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân...”.
Mặt trận một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh
những điểm tương đồng, giữa các thành viên của mặt trận vẫn những điểm khác nhau
cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân
lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết. Để giải quyết
vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm: cầu đồng tồn dị- lấy
cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải
gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết
Thực hiện tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, củng cố phát triển
mặt trận dân tộc thống nhất, một mặt Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh ớng
độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ được vào mặt
trận; mặt khác, luôn đề phòng đấu tranh chống mọi biểu hiện của khuynh hướng đoàn
kết một chiều, về nguyên tắc, đoàn kết không đấu tranh đúng mức trong nội bộ
mặt trận.
1.5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
1.5.1. Làm tốt công tác vận động quần chúng
Hồ Chí Minh coi đoàn kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng. Để thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần chúng.
Vận động quần chúng để thu hút quần chính để đoàn kết mọi người, tạo ra
động lực phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá. Theo Người, để phát huy đầy đủ vai trò,
trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc, trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đảng
viên phải biết làm tốt công tác giáo dựe, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động
quần chúng nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách
nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc, từ đó
họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Người
dặn: “Cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc đó
ích lợi của họ mà phải làm”.
Theo Hồ Chí Minh mọi phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều phải
phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; đồng thời phải xuất phát từ thực tế
trình độ dân trí và văn hoá, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập
quán và cụ thể đối với từng địa phương, từng đối tượng của nhân dân.
1.5.2. Thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập
hợp quần chúng
lOMoARcPSD| 49831834
Theo Hồ Chí Minh, để tập quần chúng nhân dân một cách hiệu qucần phải
tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng. Đây những tổ chức để tập hợp, giáo dục, rèn
luyện quần chúng cho phù hợp từng giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, vùng
miền... như các tổ chức: Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ... Các
đoàn thể, tổ chức quần chúng nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực
của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai
đoạn.
Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiệm
vụ tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia
cách mạng, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Chính vì vậy mà trong suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam, xây dựng và bảo vệ đất nước, các tổ chức, đoàn thể không
ngừng lớn mạnh về số lượng, hoạt động ngày càng hiệu quả, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân.
1.5.3. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp đoàn kết trong Mặt trận
dân tộc thống nhất
Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân
tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất ng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao
nhiêu thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vững bấy nhiêu. Các
đoàn thể, tổ chức quần chúng Mặt trận dân tộc thống nhất sợi dây gắn kết Đảng
với nhân dân. Người khẳng định: “Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân phấn đấu cho
dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân n với Chính phủ”. Như vậy, bản
chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của dân do đó vai trò của
Mặt trận các đoàn thể nhân dân phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp,
các tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức của mình. Công tác vận động quần
chúng phải dựa trên chiến lược: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công!.
Đối với các đoàn thể, tổ chức quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng được tập hợp
và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều có sự chỉ đạo trong công tác
vận động thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ chức của mình. Người
chỉ rõ:Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong nhũng lực lượng to lớn của cách
mạng Việt Nam...Phải đoàn kết tốt các Đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
Phải đoàn kết các n tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa
thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”.
Tóm lại, độc lập, tự do nội dung bản về quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi nhân, thành viên trong dân tộc đó bởi
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung hình thức tổ
chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông
lOMoARcPSD| 49831834
trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu độc lập của tổ quốc,
tự do, hạnh phúc của của toàn dân một bài học kinh nghiệm lịch sử giá trị bền
vững lâu dài. Nhìn chung, hơn lúc nào hết, đây lúc chúng ta cần phát huy tinh thần
yêu nước, kế thừa truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc ta. Chúng ta càng phải ghi nhớ
thực hành lời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đã dạy: Đoàn kết vấn đề sống còn”,
Không đoàn kết thì suy mất. đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn
kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà
| 1/9

Preview text:

lOMoAR cPSD| 49831834
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1.1. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
dân tộc ta. Theo Người, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người trong thời đại mới, nếu chỉ có tinh thần
yêu nước thôi thì chưa đủ. Muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách
mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; mà muốn có
lực lượng cách mạng thì phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng thành một
khối thống nhất và vững chắc. Do đó, đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người coi là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Hơn thế nữa, đại đoàn kết dân tộc còn là vấn đề sống còn của cách mạng, quyết
định thành công của cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, với những yêu cầu và nhiệm vụ
khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải điều
chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song không bao giờ được thay đổi
chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Đoàn kết làm ra sức mạnh. Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh điều này. Người
đã nêu ra những luận điểm có tính chất đoàn kết như: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng
ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển
mọi thuận lợi và làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao phó
”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết – Thành công, thành công, đại thành công
”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần thế
kỷ qua đã chứng minh, nhờ đại đoàn kết dân tộc mà nhân dân ta đã giành được nhiều
thắng lợi to lớn, vẻ vang.
1.1.2. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, Người không chỉ nhấn
mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu của cách mạng.
vì có thực hiện được đại đoàn kết dân tộc thì mới có thể thực hiện được các mục tiêu
khác. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam. Hồ Chí
Minh coi đây không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu dài của cách
mạng, xem như tôn chỉ hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lời kết thúc buổi
ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của
Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc
”. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Người chỉ rõ: “Trước Cách Mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ lOMoAR cPSD| 49831834
tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai
là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi đôc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục
đích của tuyên truyền huấn luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”.

Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đoàn kết
dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Người
cho rằng “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà
còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc
”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính
là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Như vậy, Đại đoàn kết là
yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng
nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất
bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng phải có
sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
1.2. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc
1.2.1. Chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm “Dân” có nội hàm rất rộng, vừa
được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt
Nam cụ thể và dùng để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con Rồng cháu
Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người
không tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”. Như vậy,
với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, “Dân” được hiểu là chủ thể của đại đoàn
kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.
Đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một
khối trong cuộc đấu tranh chung, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đảng phái,
tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, ở trong nước hay ở ngoài nước cùng hướng
vào mục tiêu chung. Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống
nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có
đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ
”. Ta
ở đây vừa là Đảng, vừa là mọi người dân của Tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần đoàn kết
rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân để qiải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân tộc. Để tập
hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng
trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền
lợi của dân chúng là được.
1.2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc lOMoAR cPSD| 49831834
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu
là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng
đó. Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc ốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
Như vậy, theo Hồ
Chí Minh, lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh
công - nông - lao động trí óc, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nền tảng liên minh
công - nông - lao động trí óc càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc
càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân”
là sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn kết ngoài xã hội.
Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết toàn dân tộc càng được tăng cường.
1.3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
1.3.1. Phải lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác biệt chính đáng
Phải chú trọng xử lý các mối quan hệ lợi ích rất đa dạng, phong phú trong xã hội
Việt Nam. Chỉ có xử lí tốt quan hệ lợi ích, trong đó tìm ra điểm tương đồng, lợi ích
chung thì mới đoàn kết được lực lượng. Mục đích chung của Mặt trận được Hồ Chí
Minh xác định cụ thể, phù hợp từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao
nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Theo Người, đại đoàn kết phải xuất phát
từ mục tiêu vì nước vì dân trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức, bốc lột,
nghèo nàn, lạc hậu. Vì Người cho rằng nếu nước được độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.
1.3.2. Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc
Truyền thống này được hình thành, cũng cố và phát triển trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị bền vững,
thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền
qua nhiều thế hệ. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô định để cả dân tộc chiến
đấu và chiến thắng thiên tai địch hoạ, làm cho đất nước được trường tồn, giữ vững bản sắc dân tộc.
1.3.3. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người
Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi cá nhân, cộng đồng đều có mặt tốt, mặt xấu, ...
Cho nên vì lợi ích cách mạng thì cần phải có lòng khoan dung độ lượng dù phần thiện
nhỏ nhất ở mỗi người, có vậy mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng, “Năm ngón
tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay
”. Cần
phải đoàn kết với cả những người lầm đường, lạc lối, nhưng biết hối cải. Cần xóa bỏ lOMoAR cPSD| 49831834
hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục
vụ nhân dân. Lòng khoan dung, độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược
nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái,
bao dung của dân tộc. Đây là một tư tưởng nhất quán thể hiện trong đường lối, chính
sách của Đảng. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta
cũng thật thà đoàn kết với họ
”. Để thực hiện được đoàn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành
kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng, trong
mỗi con người Việt Nam “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong.
Tấm lòng yêu nước đó có khi bụi bậm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người
thì lòng yêu nước đó lại bộc lộ.
1.4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Mặt trận
dân tộc thống nhất
1.4.1. Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan
niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách
mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến
thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là
mặt trận dân tộc thống nhất.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh
và điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét khác nhau, tên gọi của
mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau: Hội Phản đế đồng minh
(1930); Mặt trận dân chủ (1936); Mặt trận nhân dân phản đế (1939); Mặt trận Việt Minh
(1941); Mặt trận Liên Việt (1951); Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
(1960); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955,1976)… Song thực chất chỉ là một, đó là tổ
chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo
các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở
trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ
quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
1.4.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Theo Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc sau đây:
Một là, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân- trí
thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí
Minh, trên cơ sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân
tộc, kết thành một khối vững chắc đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên
minh công – nông - trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trên thực tế và theo Hồ Chí lOMoAR cPSD| 49831834
Minh, đại đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người chung một nước phải thương nhau
cùng” nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ
rõ ràng, sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng “Vì họ là người trực tiếp sản
xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc
lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng
lớp khác
”. Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công
nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công nông mà
không thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là
tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải có trí thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đối
với cách mạng. Người nói: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã
hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang: và công, nông, tri
cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối
”.
Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất
yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện
ra các quy luật khách quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương
pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành công các nhiệm và cách
mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong Mặt trận có thể làm
được. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết
hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân
tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Mặc dù vậỵ, quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng
không phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận.
Để lãnh đạo mặt trận hoàn thành nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Đảng phải có chính sách
Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn. từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với
quyền lợi và nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo mặt trận,
Đảng phải đi đúng đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép
các thành viên trong mặt trận, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục,
nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự
nguyện, tuyệt đối không được lấy quyên uy của mình để buộc các thành viên khác trong
mặt trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt trận, Hồ
Chí Minh căn dặn: “Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và
đảng viên không được tự cạo, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người: trái lại phải
học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người...phải tích cực và phải chủ động...làm việc phải
kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận. Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm
như thế thì công tác Mặt trận nhất định sẽ tiến bộ nhiều
”.
Hai là, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích
tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân. lOMoAR cPSD| 49831834
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song
khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao
độ về mục tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ
Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một
số phận. Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một
số phận thì cộ kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vần không thể nào có được.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ
thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng
dân tộc vào khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là
ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân
tộc. tôn giáo vào trong Mặt trận, vấn đề còn lại là ở chỗ phải làm thế nào để tất cả mọi
người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối
cao đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích
cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới thực hiện.
Ba là, mặt trận phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ bảo đảm
đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc. tôn giáo khác nhau với nhiều lợi
ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí,
loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Mặt trận lấy việc thống nhất lợi ích tối
cao của dân tộc với lợi ích cơ bản của các giai tầng trong xã hội làm cơ sở để củng cố
và không ngừng mở rộng. Bởi nói đến đại đoàn kết là giải quyết các mối quan hệ và vấn
đề lợi ích giữa cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tìm ra mẫu số chung, quy tụ điểm tương đồng của mọi người Việt Nam là
tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự do. Theo Người, giải quyết quan hệ về lợi
ích phải tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đáp ứng nguyện vọng chung của toàn thể
dân tộc, nhưng lại chăm lo tới cả lợi ích chính đáng của cá nhân, trong đó lợi ích cá
nhân phải phục tùng lợi ích chung của dân tộc. Điều này thể hiện rõ trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp
phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu:
“Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để mở rộng
khối đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào mặt trận dân tộc thống nhất.
Bốn là, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ lOMoAR cPSD| 49831834
Tại Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh - Liên Việt (tháng 3-1951). Người nêu
rõ: “Trong Đại hội này, chúng ta có đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc,
giả có trẻ có nam có, nữ có thật là một gia đình tương thân tương ái. Chắc rằng sau cuộc
Đại hội, mỗi đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân...”.
Mặt trận là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh
những điểm tương đồng, giữa các thành viên của mặt trận vẫn có những điểm khác nhau
cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân
lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết. Để giải quyết
vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm: “cầu đồng tồn dị” - lấy
cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: “Đoàn kết phải
gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết

Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển
mặt trận dân tộc thống nhất, một mặt Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô
độc, hẹp hòi, coi nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ được vào mặt
trận; mặt khác, luôn đề phòng và đấu tranh chống mọi biểu hiện của khuynh hướng đoàn
kết một chiều, về nguyên tắc, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận.
1.5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
1.5.1. Làm tốt công tác vận động quần chúng
Hồ Chí Minh coi đoàn kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng. Để thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần chúng.
Vận động quần chúng để thu hút quần chính là để đoàn kết mọi người, tạo ra
động lực phát triển kinh tế - xã hội và văn hoá. Theo Người, để phát huy đầy đủ vai trò,
trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đảng
viên phải biết làm tốt công tác giáo dựe, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động
quần chúng nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, và
pháp luật của Nhà nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách
nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân tộc, từ đó
họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Người
dặn: “Cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì
ích lợi của họ mà phải làm”.
Theo Hồ Chí Minh mọi phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều phải
phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; đồng thời phải xuất phát từ thực tế
trình độ dân trí và văn hoá, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập
quán và cụ thể đối với từng địa phương, từng đối tượng của nhân dân.
1.5.2. Thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp quần chúng lOMoAR cPSD| 49831834
Theo Hồ Chí Minh, để tập quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả cần phải
tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng. Đây là những tổ chức để tập hợp, giáo dục, rèn
luyện quần chúng cho phù hợp từng giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, vùng
miền... như các tổ chức: Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ... Các
đoàn thể, tổ chức quần chúng có nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực
của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn.
Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm
vụ tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia
cách mạng, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Chính vì vậy mà trong suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam, xây dựng và bảo vệ đất nước, các tổ chức, đoàn thể không
ngừng lớn mạnh về số lượng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân.
1.5.3. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận
dân tộc thống nhất
Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân
tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao
nhiêu thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vững bấy nhiêu. Các
đoàn thể, tổ chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất là sợi dây gắn kết Đảng
với nhân dân. Người khẳng định: “Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân phấn đấu cho
dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ
”. Như vậy, bản
chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của dân do đó vai trò của
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp,
các tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức của mình. Công tác vận động quần
chúng phải dựa trên chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công!
”.
Đối với các đoàn thể, tổ chức quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng được tập hợp
và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều có sự chỉ đạo trong công tác
vận động thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ chức của mình. Người
chỉ rõ: “Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong nhũng lực lượng to lớn của cách
mạng Việt Nam...Phải đoàn kết tốt các Đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ.
Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc... Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa
thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc
”.
Tóm lại, độc lập, tự do là nội dung cơ bản về quyền thiêng liêng, bất khả xâm
phạm của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi cá nhân, thành viên trong dân tộc đó bởi
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ
chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông lOMoAR cPSD| 49831834
và trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc,
tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền
vững lâu dài. Nhìn chung, hơn lúc nào hết, đây là lúc chúng ta cần phát huy tinh thần
yêu nước, kế thừa truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc ta. Chúng ta càng phải ghi nhớ
và thực hành lời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đã dạy: “Đoàn kết là vấn đề sống còn”,
Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn
kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà