Mẫu phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang chọn lọc
hay nhất
1. Dàn ý chi tiết về đề bài phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo
Ngang
1. Mở bài
- Giới thiệu về nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan:
Bà Huyện Thanh Quan có tên thật là Nguyễn Thị Hinh là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại
ngày xưa. Bà đã đóng góp không ít tác phẩm trong nền văn học nước nhà trong đó có sáu bài thơ Đường
luật.
- Giới thiệu về bài thơ "Qua đèo Ngang"
Nhân dịp nhà thơ đi từ Thăng Long vào Huế để nhậm chức Cung trung giáo tập (hiểu nôm na là nữ quan
dạy dỗ nghi lễ cho các cung nữ lúc bấy giờ) nhà thơ đã xúc cảm trước phong cảnh thiên nhiên Đèo Ngang
nên nhà thơ đã sáng tác bài thơ "Qua đèo Ngang". Qua bài thơ, ta cảm nhận được ẩn sâu bên trong bức
tranh phong cảnh là tâm trạng cô đơn và hoài niệm về một thời đại phong kiến huy hoàng đã qua, không
biết bao giờ mới trở lại.
2.Thân bài
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu đề:
+ Câu thơ thứ nhất "Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà": Cho chúng ta biết rằng thời điểm nữ thi sĩ đặt chân
tới Đèo Ngang đã là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống - Cảnh chiều tà rất dễ gợi cho người lữ thứ cảm
giác man mác buồn.
+ Câu thơ thứ hai "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa": gợi ra khung cảnh thiên nhiên hoang sơ nhưng nhờ có
điệp từ "chen" và hai vế đối làm cho thiên nhiên nơi đây có phần tràn đầy sức sống.
Qua hai câu thơ đề mở đầu bài thơ đã chúng ta thấy rằng cảnh sắc thiên nhiên ở nơi đây tuy đẹp nhưng
vẫn đượm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước.
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu thực:
+ Câu thơ thứ ba "Lom khom dưới núi, tiều vài chú" sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ đã đặc tả hết thảy
dáng vẻ mấy chú tiều phu kiếm củi ở sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên hùng
vĩ, bao la, rộng lớn.
+ Câu thơ thứ tư "Lác đác bên sông chợ mấy nhà" Bộ mặt của cuộc sống trong một vùng là những hình ảnh
ngôi chợ nhưng ở Đèo Ngang chợ chỉ vài túp lều tranh xiêu vẹo xập xễ ven sông
Hai câu thơ thực càng khắc họa chân thực hơn khung cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang vắng vẻ, quạnh hiu
bao trùm lên cảnh vật.
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu thơ luận:
"Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"
Khi hoàng hôn buông xuống mà có tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng. Có
thể nói, tiếng cuốc kêu cũng chính là tiếng vọng từ sâu thẳm trong lòng của nữ thi sĩ khi đang nuối tiếc một
thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu thơ kết:
"Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta".
Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang thật quá đẹp, hùng vĩ, rộng lớn khiến nữ thi sĩ phải dừng chân để có thể
chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp ấý để thu nhận vẻ đẹp diệu kì ấy vào trong tâm hồn. Tuy nhiên, cảnh sắc
thiên nhiên ở đèo Ngang dù có đẹp nhưng nỗi buồn nữ thi sĩ không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng
thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi.
3. Kết bài
- Đánh giá nghệ thuật bài thơ "Qua đèo Ngang"
- Khẳng định lại cảm nghĩ của mình về bài thơ "Qua đèo Ngang"
2. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang chọn lọc hay nhất
- Mẫu số 01
Bà Huyện Thanh Quan có tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại
ngày xưa. Bà đã đóng góp không ít những tác phẩm cho nền văn học nước nhà. Qua đèo Ngang được coi
là tác phẩm đặc biệt nổi bật trong số những sáng tác của bà. Bài thơ được tác giả sáng tác khi nhà thơ đi từ
Thăng Long vào Huế để nhậm chức và trên hành trình đi đó có đi qua địa danh đèo Ngang, nỗi lòng yêu
nước nhớ quê hương, xót nước lại trào dâng đã khiến nhà thơ xúc cảm ngẫu hứng bật ra những vần thơ.
Có thể nói đây là một bài thơ hay nhất trong số những bài thơ viết về hình ảnh thiên nhiên đèo Ngang.
Tác phẩm "Qua đèo Ngang" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm tám câu: 02 câu đề,
02 câu thực, 02 câu luận và 02 câu kết qua đó diễn tả những nỗi niềm tâm tư của tác giả về đất nước. Mở
đầu tứ thơ là hai câu đề gợi ra khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang:
"Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa"
Câu thơ gợi lên thời điểm nữ thi sĩ vừa đặt chân đến chốn này cũng là lúc mặt trời đang dần đổ bóng. Nhà
thơ đã lấy hình ảnh "Bóng xế tà" từ thành ngữ "chiều tà bóng xế" ánh nắng lúc chiều tà là những tia nắng
sắp tắt hẳn để nhường chỗ cho màn đêm đang dẫn buông xuống, gợi trong ta một nét gì đó buồn man mác,
nhất là đối với người lữ thứ tha hương. Trong thơ văn thời trung đại, khi trong lòng thi nhân mang một nỗi
buồn thì mới lấy hình ảnh buổi chiều đưa vào trong thi phẩm của mình. Phải chăng trong tâm tư của nữ thi
sĩ đang chất chứa nhiều nỗi buồn, nỗi nhớ thương đối với quê hương. Khoảng thời gian hoàng hôn này rất
phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà và đúng như câu thơ cổ "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" ý
muốn nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật. Điệp từ "chen" nhấn mạnh 02 lần kết hợp với
việc sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng đã gợi lên một cảnh tượng cỏ cây, hoa lá
chen chúc nhau để tìm sự sống như tăng thêm sự hoang dại đến nao lòng. Làm cho người đọc cảm nhận
được tuy cảnh vật nơi đây có cây có hoa đẹp nhưng vẫn thấy sự hoang vắng của đèo Ngang lúc bóng xế
chiều tà.
Chính vì sự hoang dại của cảnh vật đã khiến nữ thi sĩ phóng tầm mắt của mình ra xa chút nữa để tìm hình
ảnh của sự sống con người cho cảnh vật bớt phần hoang dại và hiu quạnh. Và điểm nhìn của tác giả nhìn
thấy:
"Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà"
Trong thiên nhiên hùng vĩ, bao la, rộng lớn đó thì hình ảnh "tiều vài chú"; "chợ mấy nhà" là tất cả hơi thở
của cuộc sống nơi đây. Hai câu thực đều sử dụng nghệ thuật tiểu đối đã phần nào tô thêm vào bức tranh
con người nơi đây. Ngoài ra, nhà thơ còn sử dụng thành công biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp sử dụng 02
từ láy "Lom khom", "Lác đác" nhằm chỉ sự hoạt động nhỏ nhặt, mọi thứ đều nhỏ bé trước thiên nhiên rộng
lớn càng nhấn mạnh hơn sự cô quạnh, nhịp sống vô cùng mong manh, thưa thớt tẻ nhạt thiếu sức sống.
Đến hai câu luận:
"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da"
Đọc hai câu thơ luận ta cảm nhận được nỗi niềm tâm trạng của nữ thi sĩ càng thêm trĩu nặng hơn trong
từng câu, từng chữ trong lời thơ. Hình ảnh "con quốc quốc", "cái da da" gợi lên âm hưởng dìu dặt da diết
cho âm điệu của câu thơ. Dường như, tâm trạng buồn man mác, những dòng suy nghĩ về quê hương đất
nước trong lòng tác giả đang dần được bộc lộ rõ hơn. Tác giả đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh để khắc
họa thêm cái u sầu, nỗi lòng nặng trĩu khi mất nước trong lúc bấy giờ. Tiếng kêu của con quốc, cái da da
trong câu thơ gợi ra tiếng kêu như rỉ máu khiến lòng người thêm đau đáu, thê lương về nỗi niềm thời cuộc
đất nước. Tác giả đã thật tinh tế và sáng tạo khi dùng từ từ đồng âm "quốc quốc", "da da" để nói về quốc
gia. Qua đây, đã cho chúng ta thấy Bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một nữ sĩ tài năng, tài tú mà bà còn
là người mang nặng lòng với niềm mất nước thời bấy giờ.
Hai câu kết khép lại thi phẩm càng khắc họa nỗi buồn lắng đọng không biết san sẻ cho ai của tác giả:
"Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta"
Thật là một nỗi buồn nặng trĩu mà khó san sẻ, giải bày cho ai khác được. Nỗi niềm đó như kết thành khối,
thành hình, thành mảnh tình riêng khiến nữ thi sĩ phải thốt lên chua xót, thương cảm: chỉ có bản thân ta mới
hiểu được những tâm sự, nỗi niềm của ta mà thôi. Chính suy nghĩ đó đã khiến nỗi cô đơn của tác giả càng
tăng lên thêm gấp bội.
Với một giọng thơ man mác buồn, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, bài thơ "Qua đèo Ngang" đã khắc
họa thành công bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc qua đó bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả pha một chút
gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đang dần tàn lụi.
3. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang chọn lọc hay nhất
- Mẫu số 02
Trong số các bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật như Thương vợ của Trần Tế Xương; Bạn đến chơi nhà
của Nguyễn Khuyến, ... em đặc biệt yêu thích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Mở đầu bài thơ, nữ thi sĩ đã nói lên thời gian nơi mình dừng chân "bóng chiều tà" là lúc đèo Ngang đang
trong khoảng thời gian chiều muộn và khắc họa lên bối cảnh không gian ở chốn này. Ở đèo Ngang, cỏ cây,
hoa lá rất là nhiều, điệp từ "chen" cho thấy cỏ cây, hoa lá chen chúc nhau để tìm sự sống trên từng mỏm đá
đã lột tả được hết sự bao la, hùng vĩ của thiên nhiên. Giữa thiên nhiên bao la, hùng vĩ, rộng lớn đó hình ảnh
con người trở nên nhỏ bé. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng thủ pháp đảo ngữ kết hợp với việc sử dụng hai từ
láy "lom khom", "lác đác" lên đầu câu càng nhấn mạnh thêm sự bơ vơ, cô đơn. Dường như con người bị lọt
thỏm giữa thiên nhiên rộng lớn.
Bức tranh thiên nhiên ở đèo Ngang với không gian rộng lớn mà trống trải đó, bỗng có tiếng âm thanh "cuốc
cuốc", "gia gia" vang lên thật đột ngột. Nhưng hơn cả tiếng vọng của thiên nhiên là tiếng lòng của nữ thi sĩ -
người lữ thứ tha hương. Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ trong nhà thơ là những nỗi niềm nhớ nhà,
nỗi nhớ quê hương pha một chút nuối tiếc về thời phong kiến đang dần lụi tàn. Những nỗi niềm ấy bỗng
chốc hóa thành tiếng thở dài, khắc khoải trong tiếng ngậm ngùi "ta với ta". Chẳng có ai để bà có thể san sẻ
nỗi lòng mình bởi ở nơi đây, từ bây giờ sẽ chỉ có mỗi mình bà mà thôi.
Có thể nói tác phẩm Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là một thi phẩm, một tứ thơ hay đã khắc
họa được nỗi niềm cô đơn, nhớ nước, thương nhà giữa khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn.

Preview text:

Mẫu phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang chọn lọc hay nhất
1. Dàn ý chi tiết về đề bài phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang 1. Mở bài
- Giới thiệu về nhà thơ Bà Huyện Thanh Quan:
Bà Huyện Thanh Quan có tên thật là Nguyễn Thị Hinh là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại
ngày xưa. Bà đã đóng góp không ít tác phẩm trong nền văn học nước nhà trong đó có sáu bài thơ Đường luật.
- Giới thiệu về bài thơ "Qua đèo Ngang"
Nhân dịp nhà thơ đi từ Thăng Long vào Huế để nhậm chức Cung trung giáo tập (hiểu nôm na là nữ quan
dạy dỗ nghi lễ cho các cung nữ lúc bấy giờ) nhà thơ đã xúc cảm trước phong cảnh thiên nhiên Đèo Ngang
nên nhà thơ đã sáng tác bài thơ "Qua đèo Ngang". Qua bài thơ, ta cảm nhận được ẩn sâu bên trong bức
tranh phong cảnh là tâm trạng cô đơn và hoài niệm về một thời đại phong kiến huy hoàng đã qua, không
biết bao giờ mới trở lại. 2.Thân bài
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu đề:
+ Câu thơ thứ nhất "Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà": Cho chúng ta biết rằng thời điểm nữ thi sĩ đặt chân
tới Đèo Ngang đã là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống - Cảnh chiều tà rất dễ gợi cho người lữ thứ cảm giác man mác buồn.
+ Câu thơ thứ hai "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa": gợi ra khung cảnh thiên nhiên hoang sơ nhưng nhờ có
điệp từ "chen" và hai vế đối làm cho thiên nhiên nơi đây có phần tràn đầy sức sống.
Qua hai câu thơ đề mở đầu bài thơ đã chúng ta thấy rằng cảnh sắc thiên nhiên ở nơi đây tuy đẹp nhưng
vẫn đượm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước.
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu thực:
+ Câu thơ thứ ba "Lom khom dưới núi, tiều vài chú" sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ đã đặc tả hết thảy
dáng vẻ mấy chú tiều phu kiếm củi ở sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên hùng vĩ, bao la, rộng lớn.
+ Câu thơ thứ tư "Lác đác bên sông chợ mấy nhà" Bộ mặt của cuộc sống trong một vùng là những hình ảnh
ngôi chợ nhưng ở Đèo Ngang chợ chỉ vài túp lều tranh xiêu vẹo xập xễ ven sông
Hai câu thơ thực càng khắc họa chân thực hơn khung cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang vắng vẻ, quạnh hiu bao trùm lên cảnh vật.
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu thơ luận:
"Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia"
Khi hoàng hôn buông xuống mà có tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng. Có
thể nói, tiếng cuốc kêu cũng chính là tiếng vọng từ sâu thẳm trong lòng của nữ thi sĩ khi đang nuối tiếc một
thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai.
- Phát biểu cảm nghĩ về hai câu thơ kết:
"Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta".
Vẻ đẹp thiên nhiên của đèo Ngang thật quá đẹp, hùng vĩ, rộng lớn khiến nữ thi sĩ phải dừng chân để có thể
chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp ấý để thu nhận vẻ đẹp diệu kì ấy vào trong tâm hồn. Tuy nhiên, cảnh sắc
thiên nhiên ở đèo Ngang dù có đẹp nhưng nỗi buồn nữ thi sĩ không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng
thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi. 3. Kết bài
- Đánh giá nghệ thuật bài thơ "Qua đèo Ngang"
- Khẳng định lại cảm nghĩ của mình về bài thơ "Qua đèo Ngang"
2. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang chọn lọc hay nhất - Mẫu số 01
Bà Huyện Thanh Quan có tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một trong số nữ sĩ tài danh hiếm có trong thời đại
ngày xưa. Bà đã đóng góp không ít những tác phẩm cho nền văn học nước nhà. Qua đèo Ngang được coi
là tác phẩm đặc biệt nổi bật trong số những sáng tác của bà. Bài thơ được tác giả sáng tác khi nhà thơ đi từ
Thăng Long vào Huế để nhậm chức và trên hành trình đi đó có đi qua địa danh đèo Ngang, nỗi lòng yêu
nước nhớ quê hương, xót nước lại trào dâng đã khiến nhà thơ xúc cảm ngẫu hứng bật ra những vần thơ.
Có thể nói đây là một bài thơ hay nhất trong số những bài thơ viết về hình ảnh thiên nhiên đèo Ngang.
Tác phẩm "Qua đèo Ngang" được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm tám câu: 02 câu đề,
02 câu thực, 02 câu luận và 02 câu kết qua đó diễn tả những nỗi niềm tâm tư của tác giả về đất nước. Mở
đầu tứ thơ là hai câu đề gợi ra khung cảnh thiên nhiên đèo Ngang:
"Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa"
Câu thơ gợi lên thời điểm nữ thi sĩ vừa đặt chân đến chốn này cũng là lúc mặt trời đang dần đổ bóng. Nhà
thơ đã lấy hình ảnh "Bóng xế tà" từ thành ngữ "chiều tà bóng xế" ánh nắng lúc chiều tà là những tia nắng
sắp tắt hẳn để nhường chỗ cho màn đêm đang dẫn buông xuống, gợi trong ta một nét gì đó buồn man mác,
nhất là đối với người lữ thứ tha hương. Trong thơ văn thời trung đại, khi trong lòng thi nhân mang một nỗi
buồn thì mới lấy hình ảnh buổi chiều đưa vào trong thi phẩm của mình. Phải chăng trong tâm tư của nữ thi
sĩ đang chất chứa nhiều nỗi buồn, nỗi nhớ thương đối với quê hương. Khoảng thời gian hoàng hôn này rất
phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà và đúng như câu thơ cổ "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" ý
muốn nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật. Điệp từ "chen" nhấn mạnh 02 lần kết hợp với
việc sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng đã gợi lên một cảnh tượng cỏ cây, hoa lá
chen chúc nhau để tìm sự sống như tăng thêm sự hoang dại đến nao lòng. Làm cho người đọc cảm nhận
được tuy cảnh vật nơi đây có cây có hoa đẹp nhưng vẫn thấy sự hoang vắng của đèo Ngang lúc bóng xế chiều tà.
Chính vì sự hoang dại của cảnh vật đã khiến nữ thi sĩ phóng tầm mắt của mình ra xa chút nữa để tìm hình
ảnh của sự sống con người cho cảnh vật bớt phần hoang dại và hiu quạnh. Và điểm nhìn của tác giả nhìn thấy:
"Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà"
Trong thiên nhiên hùng vĩ, bao la, rộng lớn đó thì hình ảnh "tiều vài chú"; "chợ mấy nhà" là tất cả hơi thở
của cuộc sống nơi đây. Hai câu thực đều sử dụng nghệ thuật tiểu đối đã phần nào tô thêm vào bức tranh
con người nơi đây. Ngoài ra, nhà thơ còn sử dụng thành công biện pháp tu từ đảo ngữ kết hợp sử dụng 02
từ láy "Lom khom", "Lác đác" nhằm chỉ sự hoạt động nhỏ nhặt, mọi thứ đều nhỏ bé trước thiên nhiên rộng
lớn càng nhấn mạnh hơn sự cô quạnh, nhịp sống vô cùng mong manh, thưa thớt tẻ nhạt thiếu sức sống. Đến hai câu luận:
"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da"
Đọc hai câu thơ luận ta cảm nhận được nỗi niềm tâm trạng của nữ thi sĩ càng thêm trĩu nặng hơn trong
từng câu, từng chữ trong lời thơ. Hình ảnh "con quốc quốc", "cái da da" gợi lên âm hưởng dìu dặt da diết
cho âm điệu của câu thơ. Dường như, tâm trạng buồn man mác, những dòng suy nghĩ về quê hương đất
nước trong lòng tác giả đang dần được bộc lộ rõ hơn. Tác giả đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh để khắc
họa thêm cái u sầu, nỗi lòng nặng trĩu khi mất nước trong lúc bấy giờ. Tiếng kêu của con quốc, cái da da
trong câu thơ gợi ra tiếng kêu như rỉ máu khiến lòng người thêm đau đáu, thê lương về nỗi niềm thời cuộc
đất nước. Tác giả đã thật tinh tế và sáng tạo khi dùng từ từ đồng âm "quốc quốc", "da da" để nói về quốc
gia. Qua đây, đã cho chúng ta thấy Bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một nữ sĩ tài năng, tài tú mà bà còn
là người mang nặng lòng với niềm mất nước thời bấy giờ.
Hai câu kết khép lại thi phẩm càng khắc họa nỗi buồn lắng đọng không biết san sẻ cho ai của tác giả:
"Dừng chân đứng lại trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta"
Thật là một nỗi buồn nặng trĩu mà khó san sẻ, giải bày cho ai khác được. Nỗi niềm đó như kết thành khối,
thành hình, thành mảnh tình riêng khiến nữ thi sĩ phải thốt lên chua xót, thương cảm: chỉ có bản thân ta mới
hiểu được những tâm sự, nỗi niềm của ta mà thôi. Chính suy nghĩ đó đã khiến nỗi cô đơn của tác giả càng tăng lên thêm gấp bội.
Với một giọng thơ man mác buồn, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, bài thơ "Qua đèo Ngang" đã khắc
họa thành công bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc qua đó bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả pha một chút
gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đang dần tàn lụi.
3. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua đèo Ngang chọn lọc hay nhất - Mẫu số 02
Trong số các bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật như Thương vợ của Trần Tế Xương; Bạn đến chơi nhà
của Nguyễn Khuyến, ... em đặc biệt yêu thích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan.
Mở đầu bài thơ, nữ thi sĩ đã nói lên thời gian nơi mình dừng chân "bóng chiều tà" là lúc đèo Ngang đang
trong khoảng thời gian chiều muộn và khắc họa lên bối cảnh không gian ở chốn này. Ở đèo Ngang, cỏ cây,
hoa lá rất là nhiều, điệp từ "chen" cho thấy cỏ cây, hoa lá chen chúc nhau để tìm sự sống trên từng mỏm đá
đã lột tả được hết sự bao la, hùng vĩ của thiên nhiên. Giữa thiên nhiên bao la, hùng vĩ, rộng lớn đó hình ảnh
con người trở nên nhỏ bé. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng thủ pháp đảo ngữ kết hợp với việc sử dụng hai từ
láy "lom khom", "lác đác" lên đầu câu càng nhấn mạnh thêm sự bơ vơ, cô đơn. Dường như con người bị lọt
thỏm giữa thiên nhiên rộng lớn.
Bức tranh thiên nhiên ở đèo Ngang với không gian rộng lớn mà trống trải đó, bỗng có tiếng âm thanh "cuốc
cuốc", "gia gia" vang lên thật đột ngột. Nhưng hơn cả tiếng vọng của thiên nhiên là tiếng lòng của nữ thi sĩ -
người lữ thứ tha hương. Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ trong nhà thơ là những nỗi niềm nhớ nhà,
nỗi nhớ quê hương pha một chút nuối tiếc về thời phong kiến đang dần lụi tàn. Những nỗi niềm ấy bỗng
chốc hóa thành tiếng thở dài, khắc khoải trong tiếng ngậm ngùi "ta với ta". Chẳng có ai để bà có thể san sẻ
nỗi lòng mình bởi ở nơi đây, từ bây giờ sẽ chỉ có mỗi mình bà mà thôi.
Có thể nói tác phẩm Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là một thi phẩm, một tứ thơ hay đã khắc
họa được nỗi niềm cô đơn, nhớ nước, thương nhà giữa khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn.