Màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trường phái hội họa phương Tây | Bài tập cuối kỳ Mỹ thuật
Bản chất của nghệ thuật luôn phát triển và không ngừng được tìm tòi khám Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của ngôn ngữ tạo hình như đường, nét, hình mảng để làm phương tiện biểu hiện tạo ra sự đa dạng cho tác phẩm nghệ thuật, có lúc thiên về diễn tả sáng tối, có lúc chú trọng về hình thể. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC BÀI TẬP CUỐI KỲ MÔN: MỸ THUẬT
ĐỀ TÀI: MÀU SẮC VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ TRƢỜNG PHÁI
HỘI HỌA PHƢƠNG TÂY Nguyễn Thị Hiền Anh – Lớp: Mỹ thuật Lớp hành chính: SĐT: Ụ Ụ PHẦN MỞ ĐẦU PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I : CÁC TRƢỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƢƠ
1.1 Tìm hiểu về trƣờng phái hội họa:
Các trƣờng phái hội họa phƣơng Tây tiêu biểu:
CHƢƠNG II: NHỮNG NÉT NỔI TRỘI TRONG VIỆC SỬ DỤNG MÀU SẮC
VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ TRƢỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƢƠNG TÂY.
2.1 Màu sắc trong hội họa phƣơng Tây:
Quan niệm của các họa sĩ:
Quan niệm sáng tác của các họa sĩ: PHẦN KẾT LUẬN PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Bản chất của nghệ thuật luôn phát triển và không ngừng đƣợc tìm tòi khám
Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của ngôn ngữ tạo hình nhƣ đƣờng, nét,
hình mảng để làm phƣơng tiện biểu hiện tạo ra sự đa dạng cho tác phẩm nghệ
thuật, có lúc thiên về diễn tả sáng tối, có lúc chú trọng về hình thể, không có tác
giả nào xem nhẹ màu sắc, bởi khả năng biểu hiện của ánh sáng bóng tối, không
gian, thời gian, vật chất... tất cả đều liên quan đến sức biểu hiện của màu sắc.
Đó cũng đƣợc coi là quan niệm sáng tác của các Họa sĩ, trong mỗi hoàn
cảnh và môi trƣờng khác nhau mà những quan niệm sáng tác có thể thay đổi.
Chính những tƣ tƣởng đổi mới trong sáng tác nghệ thuật mà các trƣờng phái hội
họa đc ra đời. Mỗi trƣờng phái đại diện cho quan niệm sáng tác và cách sử dụng
màu riêng. Tất cả đã góp phần tạo nên một thế giới hội họa đa màu sắc, mu muôn vẻ.
Xuất phát từ nhận thức trên cùng với những đóng góp vô cùng lớn lao mà
hội họa đã mang đến cuộc sống con ngƣời đã thôi thúc em lựa chọn đề tài : “ Màu
sắc và quan niệm sáng tác của một số trƣờng phái hội họa phƣơng Tây” để nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của đề tài là tìm ra những đặc điểm tiêu biểu
trong việc sử dụng màu sắc cũng nhƣ quan niệm sáng tác của các họa sĩ ở một số
trƣờng phái hội họa phƣơng Tây tiêu biểu. Nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của
màu sắc và quan niệm sáng tác trong hội họa.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Màu sắc và quan niệm sáng tác của một số trƣờng phái hội họa phƣơng Tây.
4. Phạm vi nghiên cứu
Việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác tranh của các họa sĩ thuộc 1 số
trƣờng phái hội họa phƣơng Tây tiêu biểu. Một số tranh thuộc các trƣờng phái khác
5. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Làm rõ mối quan hệ của việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của
các họa sĩ trong hội họa. Sự độc đáo của màu sắc và lối tƣ duy trong quan niệm
của các họa sĩ trong hội họa.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này em dùng phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết nhìn từ góc độ
mỹ thuật học và phƣơng pháp tiếp cận lịch sử để nghiên cứu tài liệu. Ngoài ra em
còn sử sụng các tài liệu trong các công trình khoa học nghiên cứu về màu sắc, về
các trƣờng phái hội họa phƣơng Tây đã đƣợc công bố.
7. Đóng góp của đề tài
Đây là đề tài mang tính chất tổng quát và hệ thống hóa những thủ pháp sử
dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của các họa sĩ thuộc 1 số trƣờng phái hội họa.
Từ cách phân tích, khái quát rồi đánh giá em hi vọng đƣa ra một số nhận xét có cơ
sở về những nét nổi trội trong việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác của một
số trƣờng phái hội họa phƣơng Tây. Từ cách tiếp cận này, đề tài hi vọng có một
đóng góp nhỏ trong cách phân tích các tác phẩm hội họa. Đó là cách nhìn bao quát
, toàn diện trong mối liên hệ giữa lịch sử, quan điểm sáng tác , quan điểm thẩm mỹ
để hiểu và phân tích tác phẩm sâu hơn.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì đề tài có nội dung chính gồm:
Chƣơng I: Các trƣờng phái hội họa phƣơng Tây.
Chƣơng II: Những nét nổi trội trong việc sử dụng màu sắc và quan niệm sáng tác
của một số trƣờng phái hội họa phƣơng Tây. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I : CÁC TRƢỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƢƠNG TÂY
Tìm hiểu về trƣờng phái hội họa:
1.1.1 Trƣờng phái hội họa là gì?
Hội họa đã xuất hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con ngƣời còn chƣa xuất
hiện, từ lịch sử mỹ thuật ta có thể đƣa ra kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để
truyền đạt ý tƣởng bằng các tác phẩm sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phƣơng pháp
(thuật) của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ “trƣờng phái” dùng để chỉ một phong
cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung những kỹ thuật và phƣơng pháp thể hiện.
1.1.2 Có tất cả bao nhiêu trƣờng phái hội họa?
Các trƣờng phái hội họa ở trên thế giới là vô cùng nhiều, các trƣờng phái
xuất hiện ở bất cứ quốc gia nào, và ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vẫn đề chỉ là
tính đại chúng – đƣợc nhiều ngƣời biết đến hay không
trƣờng phái hội họa phƣơng Tây:
Nhắc đến các trƣờng phái hội họa, chúng ta hay nghĩ ngay đến những thuật
ngữ : “Trừu tƣợng” “Lập thể” “Ấn tƣợng” … Đó là các trƣờng phái lớn (bắt nguồn
từ Châu Âu) có tầm ảnh hƣởng quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế giới. * Ấn tƣợng * Cấu trúc * Chấm họa * Hậu ấn tƣợng * Hậu hiện đại * Hiện đại * Hiện thực * Hiện thực lãng mạn * Hiện thực xã hội * Lãng mạn * Lập thể y thơ * Siêu thực * Tân cổ điển * Thị giác (Op * Trừu tƣợng …
Nhƣ đã nêu, các trƣờng phái trên là những trƣờng phái nổi bật nhất, có sức
ảnh hƣởng mạnh mẽ nhất. Chứ không phải là toàn bộ các trƣờng phái mỹ thuật trên
thế giới. Các trƣờng phái hội họa phƣơng Tây đều có tính lịch sử, một trƣờng phái
ra đời do phản ứng lại những hạn chế của trƣờng phái trƣớc đó và đến lƣợt nó lại
tạo cơ hội cho một trƣờng phái mới phát triển.
Các trƣờng phái hội họa phƣơng Tây tiêu biểu:
Trƣờng phái Ấn tƣợng:
Ấn tƣợng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một
trào lƣu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trƣờng phái ấn
tƣợng đánh dấu một bƣớc tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tƣợng” do các
h gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression,
soleil levant (Ấn tƣợng mặt trời mọc).
Trƣờng phái ấn tƣợng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi
xuất phát và là chủ đề của trƣờng phái ấn tƣợng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn
còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đƣờng quanh co, nhỏ hẹp, thiếu
vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của
trƣờng phái ấn tƣợng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ
đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà
Các họa sĩ tiêu biểu của trƣờng phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne (sau
này đã rời bỏ phong trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet (tuy
m mình thuộc phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot,
1.2.2 Trƣờng phái dã thú
Trƣờng phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trƣờng phái Ấn
tƣợng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân
tích tỉ mỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính
trƣớc. Sự cần thiết cho họa sĩ trƣờng phái Dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽ
nhƣ thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu,
không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là
cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt.
Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu những
tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác
nhau, vì có một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ.
Phòng tranh đƣợc nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là ” Chuồng dã thú “, và cái tên
Dã thú đã bƣớc vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên goi đó rất phù hợp với các họa sĩ
này bởi vì những màu sắc mà họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình.
Khuynh hƣớng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm 1905 –
ó dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trƣớc chiến tranh
Thế Giới thứ nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau. Những thành
viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy….
Trƣờng phái lập thể:
Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trƣờng phái lập thể, (Cubism) là một trƣờng
phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20.
Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tƣợng đƣợc mổ xẻ, phân tích và đƣợc
kết hợp lại trong một hình thức trừu tƣợng. Ngƣời họa sỹ không quan sát đối tƣợng
ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau,
nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thƣờng các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau
không theo các quy tắc phối cảnh làm cho ngƣời xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xƣớng năm
1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907
và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầ
Lập thể ảnh hƣởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào
trƣờng phái nghệ thuật mới nhƣ chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện.
Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trƣờng phái này: Georges Braque, Marcel Vassilieff, Fritz Wotruba…
Trƣờng phái trừu tƣợng:
Nghệ thuật Trừu tƣợng là trào lƣu hội họa đầu thế kỷ 20, vào những năm
1910 đến 1914. Nghệ thuật trừu tƣợng không thể hiện đối tƣợng một cách hiện
thực nhƣ mắt nhìn thấy mà biểu thị những ý nghĩ, cảm xúc của nghệ sĩ về một vài
nét nào đó của đối tƣợng. Trong nghệ thuật tạo hình, trừu tƣợng là sự phát huy yếu
tố biểu đạt của đƣờng nét, hình khối, màu sắc để thể hiện ý tƣởng hay cảm xúc.
Trừu tƣợng cũng tồn lại nhiều dạng: trừu tƣợng hình học, trừu tƣợng sáng tạo, trừu tƣợng biểu hiện...
Hội họa trừu tƣợng giống nhƣ sự kết hợp của Lập thể và Dã thú, lập thể về
ối và dã thú về màu sắc. Trừu tƣợng có thể xem nhƣ hệ quả tất yếu của Lập
thể. Khi trƣờng phái Lập thể đi đến thoái trào, nhiều họa sĩ Lập thể chuyển sang vẽ
trừu tƣợng. Trong đó hai họa sĩ chuyển hƣớng đầu tiên là Robert Delaunay và
Nghệ thuật Trừu tƣợng xuất hiện ban đầu ở nhiều quốc gia châu Âu nhƣ
Pháp, Đức, Hà Lan, Nga. Về sai nó trở thành một trào lƣu quốc tế và đạt đỉnh cao vào giữa thế kỷ 20.
Trƣờng phái siêu thực:
Dựa trên những học thuyết: Phân tâm, Trực giác và Nhận thức, chủ nghĩa
siêu thực đã ra đời với một quan niệm có một thế giới ở trên ta, một thế giới cần
phải khám phá. Họ cho rằng thế giới mà ta đang sống nằm trong tầng bao quát của
lý tính, còn thế giới siêu thực vƣợt ra ngoài tầm bao quát đó. Những nghệ sỹ tiêu
biểu của trƣờng phái này gồm: Sanvado Dali, Max Ernst, Magritte, Chagall... với
những tác phẩm : “Sự bền lâu của ký ức” (1931), “Thế giới vô hình” (1954), “Nỗi
sầu và vẻ bí mật của đƣờng phố” (1914)...
Mỗi trƣờng phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết định riêng
việc lựa chọn đề tài, phƣơng cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật
chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Xã hội càng phát triển, nhận thức của
con ngƣời càng cao thì các trƣờng phái hội họa càng lớn mạnh, càng xuất hiện nhiều trƣờng phái mới.
CHƢƠNG II NHỮNG NÉT NỔI TRỘI TRONG VIỆC SỬ DỤNG
MÀU SẮC VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ
TRƢỜNG PHÁI HỘI HỌA PHƢƠNG TÂY.
àu sắc trong hội họa phƣơng Tây:
Màu sắc trong tranh Phục Hƣng – hội họa truyền thống tả thực:
Trong suốt hơn một nghìn năm chìm trong đêm trƣờng Trung cổ (khoảng
năm 350 cho tới năm 1453), toàn bộ châu Âu nhƣ bị bao trùm bởi một bóng đen
kìm hãm sự phát triển về nhiều mặt, trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ hoàn
toàn phục vụ Nhà thờ. Với văn học, hết thảy những trƣờng ca kể lại cuộc chiến đấu
chống lại quỷ cám dỗ hoặc chiến đấu vì nhà vua. Kiến trúc tôn giáo phát triển
mang phong cách Roman nặng nề biểu hiện uy quyền to lớn của Chúa, sau đó là
phong cách Gothique nhẹ nhàng hơn với xu thế vƣơn lên cao hƣớng tới Thiên
đƣờng. Hội hoạ không có giá trị riêng, nó phụ thuộc hoàn toàn vào kiến trúc vì chỉ
đƣợc sử dụng với mục đích trang trí nhà thờ và minh hoạ các tích trong Thánh
Kinh... Chỉ tới khi ngƣời Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện cuộc tấn công (1453),
antinople thất thủ, các học giả Hy Lạp từ Byzantine chạy nạn sang Tây Âu đã
mang theo các tác phẩm nghệ thuật và triết học Hy Lạp cổ đại khiến Châu Âu hết
sức kinh ngạc. Từ đó dấy trong tầng lớp trí thức và nghệ sĩ Châu Âu khát khao tìm
kiếm các giá trị cũ rực rỡ, sáng tạo những giá trị mới. Một thời kỳ mới của nghệ
thuật đƣợc mở ra. Ngƣời ta gọi đó là thời kỳ văn nghệ Phục hƣng châu Âu.
Thời kỳ này, hội họa thu nhận bộ khung khoa học thấu thị và giải phẫu làm
cho trình độ tả thực tái hiện khách quan chƣa từng có. Từ thế kỷ XV ngƣời ta đã
phát hiện ra sơn dầu. Để vẽ những vật có sự chuyển biến về khối các tác giả
thƣờng lấy màu pha với màu đen để tạo ra bóng tối. Sự chuyển biến đậm nhạt bằng
cách pha các màu với màu đen làm cho các hoạ sỹ diễn tả rất tinh tế trong phong
cảnh cũng nhƣ khi vẽ ngƣời. Bản chất của sơn dầu là đục nên khi pha với màu đen
nó thƣờng tạo nên hòa sắc trầm ấm. Vì vậy trong các tác phẩm hội hoạ cổ điển ánh
sáng rất sâu, hình ảnh của mọi vật có khối tích đƣợc nghiên cứu rất kỹ. Tác phẩm
'Nàng Danei' của hoạ sĩ Hà Lan Rembrandt (1606 – 1669) vẽ nàng Danei nằm trên
giƣờng có trải ga trắng, xung quanh căn phòng và giƣờng đƣợc chạm nổi rất tinh tế
và sâu sắc. Họa sỹ đã diễn đạt rất thành công và sống động cái ánh sắc của vàng
tràn ngập trong căn phòng.
Cách thức pha trộn màu với màu đen đã tạo ra hoà sắc ở trong tranh tuy tinh
tế nhƣng làm cho ngƣời xem vẫn có cảm giác khô, chặt. Họa sĩ Paul Rubens ngày
đó đƣợc coi là ngƣời thiên về lối vẽ mạnh, dùng màu tƣơng phản rực rỡ. Trong
tranh “Những đứa trẻ với vòng hoa quả xanh”, ông đã dùng màu rất tƣơi để tả vẻ
đẹp con ngƣời, nhất là phụ nữ và trẻ em. Dƣới ngọn bút của họa sĩ, ta cảm tƣởng
nhƣ không phải là mầu mà là sắc của da, của máu thật sự sinh động; hay trong
tranh “Angélique và Ermite” là sự tƣơng phản giữa hai thái cực gần xa, sáng tối
giữa sức sống căng tràn của tuổi trẻ với tuổi già xế chiều yếu ớt. Không gian trong
tranh thanh bình, yên ả. Ngƣời phụ nữ đẹp say sƣa trong giấc ngủ của tuổi thanh
xuân, phô bày sự khoẻ mạnh, cơ thể nõn nà, toàn thân thể toát nên một vẻ đẹp nữ
tính, một tác phẩm hoàn thiện của tạo hoá.
Những sắc màu đƣợc chuyển tinh tế để diễn tả cái óng ả và mịn màng của làn
da phụ nữ đối lập với màu đỏ tím của nhân vật ông già nhƣ nhòa vào sắc lục trầm
làm tôn thêm màu sắc của tuổi thanh xuân thật cuốn hút, sinh động. Delacroix
1863) một danh hoạ kiệt xuất ngƣời Pháp có nhiều đóng góp cho di sản hội
hoạ thế giới bằng các tác phẩm nhƣ “Thần tự do trên chiến luỹ”(1830) thể hiện
cuộc cách mạng dân chủ chống lại sự thống trị của triều đình. Bức tranh có bố cục
chặt chẽ, màu sắc hài hòa, đặc biệt màu đen đƣợc dùng dàn trải đôi chỗ mạnh mẽ,
thế dáng các nhân vật sống động và có kịch tính. Song cái thành công nhất đem lại
dụng ý của tác giả lại là vấn đề sử dụng màu sắc. Độ tƣơng phản mạnh của các
màu nóng, lạnh đã mang yếu tố quyết liệt, biểu hiện sự vùng lên thay đổi tình trạng
bế tắc. Đó là hình tƣợng thần tự do dẫn dắt nhân dân nhƣng cũng còn hiểu theo
nghĩa tự do của nghệ thuật lãng mạn chống lại chính quyền chuyên chế, bảo thủ
của nguyên tắc cổ điển.
– Sơn dầu Rembrandt Thần tự do trên chiến luỹ Sơn dầu
Delacroix Phải công bằng mà thấy toàn bộ hệ thống tranh cổ điển và thời kỳ Phục
hƣng tuy đƣợc diễn tả hết sức tinh tế nhƣng vẫn gây cho ngƣời xem những cảm
nặng nề do cách vẽ nhằm chủ yếu diễn đạt khối, bóng tối
Màu sắc trong hôi họa Ấn tƣợng Bản chất của nghệ thuật luôn phát triển và không
ngừng đƣợc tìm tòi khám phá. Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của ngôn ngữ
tạo hình nhƣ đƣờng, nét, hình mảng để làm phƣơng tiện biểu hiện tạo ra sự đa dạng
cho tác phẩm nghệ thuật, có lúc thiên về diễn tả sáng tối, có lúc chú trọng về hình
thể, không có tác giả nào xem nhẹ màu sắc, bởi khả năng biểu hiện của ánh sáng
bóng tối, không gian, thời gian, vật chất... tất cả đều liên quan đến sức biểu hiện
của màu sắc. Nhƣng sức mạnh to lớn của màu sắc chính là biểu hiện thế giới nội
tâm của con ngƣời. Chuyện xảy ra thật tình cờ khi một nhóm các hoạ sĩ đi vẽ ngoài
trời. Trong hành trang của họ mang theo để vẽ có đầy đủ các màu. Trớ trêu thay
các hoạ sĩ lại quên mang theo mầu đen. Cảnh vật trƣớc mắt dƣới ánh nắng chan
hoà là nguồn cảm hứng khiến các hoạ sĩ bắt tay ngay vào vẽ. Với sự cuốn hút của
sắc màu cây cối, hoa lá và ánh nắng vàng rực buổi bình minh họ đã diễn tả ánh
sáng vô cùng ấn tƣợng.
Chỉ khi hoàn thành những tác phẩm trực họa mọi ngƣời mới nhận ra một
điều: Không có màu đen vẫn vẽ đƣợc và thậm chí, nhiều khi còn vẽ đẹp hơn. Đây
là buổi đầu của nhóm hoạ sĩ mà sau này trở thành một trào lƣu, một trƣờn
Đó là trƣờng phái Ấn tƣợng trong hội hoạ. Không có đen họ tạo ra màu đen bằng
cách pha đỏ và xanh. Với cách thức đó họ thấy màu đen đƣợc tạo ra có rất nhiều
sắc. Khi thì là sắc đen nâu, lúc là sắc đen xanh, có lúc sắc đen ẩn chứa rất nhiều
màu của cảnh vật tác động vào. Hội họa Ấn tƣợng ra đời từ đó và nó đã đánh dấu
một bƣớc ngoặt mới mở đƣờng cho sự hình thành các khuynh hƣớng tạo hình thế
kỷ XX. Màu sắc trong tranh là những hệ quả tất yếu của hiện tƣợng phản xạ và
khúc xạ ánh sáng. Họ đã biết vận dụng một cách linh hoạt những lý thuyết cơ bản
về quang học. Các họa sĩ giải thích: Mỗi chất liệu cho thấy một màu nhất định
nhƣng vật thể vừa bị nhuốm bởi màu của ánh sáng lại vừa chịu ảnh hƣởng các màu
của vật thể khác, kể cả màu của nền trời. Họ còn nắm đƣợc quy luật bổ túc của các
màu. Để tả phần sáng ít dùng trắng mà thay vào đấy bằng màu vàng nhạt hoặc da
cam, do vậy các bóng tối thƣờng bị nhuốm lam, nhuốm chàm. Vì màu trắng đƣợc
dùng hạn chế nên màu tƣơng phản là đen cũng ít đƣợc dùng, thậm chí khôn
trong bảng màu. Chính Édouard Monet còn coi “Màu đen là kẻ thù của Ấn tƣợng”
vì ông lập luận và cho rằng trong ánh sáng không hề có màu đen.
Có thể nói Monet đã tạo ra Ấn tƣợng và tranh của ông là những gì thuộc về
sự điển hình của Ấn tƣợng. Hoà sắc biến hoá khôn lƣờng tuỳ theo sự biến đổi của
thiên nhiên.Màu sắc của tranh Van Gogh trong trẻo đến lạ lẫm, ông nhìn sự vật,
miêu tả sự vật bằng các màu táo bạo và độc đáo, đặc biệt là màu xanh cobal.
xuất hiện khắp mọi nơi nhƣ trong tác phẩm “Các Quý bà ở Arles” (1880) hay “Nhà
ở nông thôn”(1890). Hậu thế luôn coi Van Gogh là “Ông Hoàng” của màu sắc.
Hoa Diên vĩ –Sơn dầu Vincent Van Gogh Có thể khẳng định rằng chủ nghĩa Ấn
tƣợng ra đời đã làm cho bảng mầu của nghệ thuật hội hoạ đƣợc bổ sung và thay
đổi. Phần lớn các hoạ sĩ Ấn tƣợng dùng màu nguyên chất, xóa bỏ các màu trung
gian nhƣ trắng, đen. Thậm chí trong bóng tối cũng không dùng màu đen. Màu sắc
trong tranh Ấn tƣợng đƣợc vẽ trực hoạ của ánh sáng ngoài trời nên rất tƣơi tắn,
lung linh, huyền ảo mang đậm hơi thở cuộc sống. Thật tình cờ, vì quên màu đen
mà họ đã thay đổi quan niệm và cách vẽ màu. Nhƣng điều quan trọng hơn cả là họ
đã khai mở một hƣớng đi mới, một quan niệm mới, châm ngòi dẫn dắt cho sự phát
triển các xu hƣớng hội hoạ modec và hậu modec s
Màu sắc trong hội họa Dã thú:
Vào năm 1905, Những bức họa của Henri Matisse , Camoin, Marquet, đã
gây sốc lớn đối với những con mắt đang no nê chủ nghĩa Ấn tƣợng. Không biết
một trƣờng phái của hội họa đã ra đời, nhà báo L.Vauxcelles đã thốt lên “Ôi! cái
ông Marquet khốn khổ này, quả là Donatello trong chuồng nhốt đầy thú”. Từ đó
lịch sử mỹ thuật thế giới ghi tên trƣờng phái Dã thú để mở đầu chƣơng thế kỷ XX.
Những con thú mê đắm và đẹp ghê gớm của cánh rừng hoang dại đầy bí ẩn
đánh thức bản năng săn mồi, phấn khích bởi những cơn cuồng nộ và chiếm đoạt.
Âm nhạc – Sơn dầu Henri Matisse Thế giới trong tranh Dã thú đƣợc tạo lập nhƣ
trong cơn kịch phát dữ dội của núi lửa phun trào nham thạch phát sáng và tỏa
nhiệt. Màu sắc đƣợc hoán vị thể hiện sinh động. Không giống với Ấn tƣợng các
họa sĩ Dã thú thật công bằng với màu sắc kể cả màu trắng hay màu đen miễn là nói
đƣợc chính khát khao ƣớc muốn sáng tạo.
Màu sắc trong hội họa Siêu thực:
Mỗi một khuynh hƣớng đều có những đóng góp những tiếng nói riêng, c
thức thể hiện và xu thế dùng màu riêng. Ví nhƣ chủ nghĩa Siêu thực xuất hiện đầu
thế kỷ XX kéo dài sau chiến tranh thế giới lần thứ I (phát triển mạnh khoảng 1920
1930). Nó nổi lên nhằm chống lại tất cả những luật lệ về hình thể, những quy ƣớc
à đạo đức xã hội. Mục đích chính của phong trào Siêu thực là “giải quyết
tình trạng mâu thuẫn tồn tại giữa mộng và thực” đƣa nó tới một thực tế tuyệt đối:
“Trạng thái siêu thực”.
Tiêu biểu cho thời kỳ này là các họa sĩ: Salvador Dali, Paul Klee. Vì đi sâu
miêu tả trạng tái cảm xúc không thực tại nên cách dùng màu của Siêu thực là sự
thừa hƣởng của hội họa trƣớc đó. Không tuyệt đối hóa ánh sáng nhƣ ở Ấn tƣợng,
không “lƣời nhác” bóp mầu từ ngay trong tuýp vẽ nhƣ Dã thú, cũng không chuẩn
mực hóa ánh sáng và thâm diễn nhƣ Cổ điển. Có thể nói với Siêu thực thì màu sắc,
ánh sáng chỉ là phƣơng tiện để chuyển tải cái mơ, cái siêu hình trong tâm tƣởng
vốn đầy hoài bão của các họa sĩ mà thôi.
Màu sắc trong hội họa:
Trừu tƣợng. Khoảng những năm 1910 1914, một số họa sĩ không chấp nhận
việc thờ ơ với vật chất thực tại để tiến hành thực hiện hóa tƣ duy lý tƣởng đã vẽ
tranh bằng các đƣờng hình học cơ bản. Phát huy khả năng tối ƣu của đƣờng nét,
màu sắc, hình khối để tạo nên cái chung có trật tự và chuyển đến các giác quan sự
nhạy cảm hoặc sự suy nghĩ về những ý tƣởng. Hội họa Trừu tƣợng ra đời nhƣ vậy.
Nghệ thuật Trừu tƣợng có đặc tính tách biệt đến mức lạc lõng các yếu tố
hoặc các ý tƣởng riêng biệt của nghệ sĩ. Chính vì vậy ngƣời ta thấy nghệ thuật
Trừu tƣợng thật khó hiểu, không nhằm thể hiện những gì mọi ngƣời dễ nhận thấy.
Màu sắc trong tranh cũng thật đa dạng bởi khi không còn phụ thuộc vào hình thể
thì tính biểu đạt của màu mới thực sự đƣợc phát huy và đem lại giá trị đích thực.
– Sơn dầu Wassily Kandinsky 2.2 Quan niệm sáng tác Trải qua
hàng trăm năm đến đêm trƣớc thế kỷ XVIII, hội hoạ tả thực mới bắt đầu hoài nghi,
trăn trở, thăm dò. Bên cạnh đó, hội hoạ phƣơng Đông với truyền thống tả thực và
tả ý cùng với nghệ thuật nguyên thuỷ từ lâu đã truyền vào sự phát triển hội họa
phƣơng Tây sức sống mới, để cuối cùng thay dây đổi hƣớng, xuất hiện hội họa
hoàn toàn không mô phỏng theo sự vật khách quan. Cứ thế trên con đƣờng nghệ
thuật, nó cùng với hội hoạ truyền thống tả thực sánh vai cùng tiến một cách hoà
ình. Mỗi tác giả đều chú trọng tới yếu tố của ngôn ngữ tạo hình nhƣ đƣờng, nét,
hình mảng để làm phƣơng tiện biểu hiện tạo ra sự đa dạng cho tác phẩm nghệ thuật ệ ủ ọa sĩ:
Ấn Tƣợng Có thể coi Ấn tƣợng là giao thoa của nền mỹ thuật kinh viện
mỹ thuật hiện đại. Ngay từ đề tài các hoạ sĩ phản ánh cũng là những cuộc sống đời
thƣờng thay vì trƣớc đó ngƣời ta chỉ ca ngợi diễn tả về tôn giáo, lịch sử và huyền
thoại. Luận điểm của các họa sĩ Ấn tƣợng rất đơn giản: Vẽ thế nào và vẽ bất cứ cái
ũng đƣợc miễn là có sự hiện diện của ánh sáng. Hoạ sĩ ngƣời Pháp Édouard
1883) còn nói: “Nhân vật chính trong bất cứ bức tranh Ấn tƣợng nào
cũng là ánh sáng”. Tuyên ngôn chính của Ấn tƣợng là lột tả vẻ đẹp của ánh sáng,
đặc biệt là ánh sáng thiên nhiên Hoạ sĩ Pháp Paul Cézanne (1839 1906) lại tìm
cách đi riêng, với tuyên ngôn gạt bỏ đƣờng nét ra khỏi tranh bởi ông quả quyết:
“Sự vật không có đƣờng nét, muốn tách các vật thể ra khỏi nhau chỉ cần màu sắc là
đủ”. Ông chú trọng tới màu lục, màu cây cỏ và nghiên cứu sự biến hoá của nó.
Trong thể loại phong cảnh ông thƣờng chọn khung cảnh đơn giản tập chung khai
thác các sắc thái của màu lục đƣợc chuyển biến sang xanh rêu và lam, đôi chút ngả
sang vàng đất. Cách nghiên cứu màu này còn ảnh hƣởng tới thể loại tranh chân
dung của ông nhƣ “Tự họa với mũ lƣỡi trai” (1873), “Ngƣời hút thuốc”(1895),
“Chơi bài”(1897)... Nếu nhƣ Paul Cézanne nghiên cứu và làm việc một cách cẩn
trọng với màu lục thì họa sĩ Hà Lan Vincent Van Gogh (1853 1890) lại dùng màu
sắc theo cảm xúc kết hợp với các vệt bút mạnh, xoắn điển hình. Tranh ông luôn là
bảng màu rực rỡ bởi ông có cách nhìn rất khoáng đạt, không bị tuân thủ theo nguyên tắc nào. ệ ủ ọa sĩ:
Dã thú Cánh rừng hoang dại mà các họa sĩ Dã thú mong muốn vƣợt qua là
rào cản chuồng cũi, là nơi màu sắc và hình thể không bị giam hãm bởi những định
kiến cố hữu, nơi cảm quan đầy tính năng sáng tạo chiến thắng thị giác dễ chiều
theo thói quen và áp lực số đông. Maurice de Vlaminck đã tự bạch về bản chất