



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 48302938 I. MỞ ĐẦU
Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua hai cuộc
chiến tranh giữ nước khốc liệt, nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu lại càng
thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu,
trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng.
Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà CNTB đã đạt được
những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được
những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người
nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển.
Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta kịp thời nhận ra sai lầm
và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, kích thích sản xuấtm, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh.
Mới chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp, nền
kinh tế Việt nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên
cơ sở cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt
nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là phạm trù
triết học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
nhận thức về kinh tế thị trường.
Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và
nhà nước ta đang xây dựng, tôi chọn vấn đề "Mối quan hệ biện chứng giữa
cái riêng và cái chung và vận dụng nó trong xây dựng kinh tế thị trường ở
Việt nam" làm đè tài nghiên cứu của mình.
Hoàn thành tiểu luận này, em hi vọng có thể góp một phần nhỏ của mình
trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào công cuộc đổi mới của TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
nhà nước ta, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế mới được
áp dụng ở Việt nam- nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm cái riêng, cái chung
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ một hành tinh
nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới tự nhiên.
Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, như là cuộc cách
mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Một con người nào đó: Huệ,
Trang,... cũng là cái riêng. Cái riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia
nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó
của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không
lặp lại ở những cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái
niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những
thuộc tính, những mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những
sự vật khác. Ví dụ chiều cao, cân nặng, vóc dáng... của một người là cái đơn
nhất. Nó cho biết những đặc điểm của chỉ riêng người đó, không lặp lại ở một người nào khác.
Mặt khác, giữa những cái riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng
tỏ giữa chúng có một số đặc điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó
được triết học khái quát thành khái niệm cái chung. Cái chung là một phạm
trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ
giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong
nó tính qui luật, sự lặp lại. Ví dụ như qui luật cung- cầu, qui luật giá trị thặng
dư là những đặc điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo. TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
1.2 . Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung được quan
niệm khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và cho rằng
chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguônhiều sản sinh ra
cái riêng. Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh như P.
Abơla (1079- 1142), Đumxcot (1265- 1308) cho rằng chỉ những sự vật, hiện
tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực
còn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con người. Thấy được
và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật biện chứng
cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau,
và cả hai đều tồn tại một cách khách quan.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ qui luật
bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, không thế thì không
phải là nhà tư bản, nhưng qui luật đó được thể hiện ra ngoài dưới những biểu
hiện của các nhà tư bản (cái riêng).
Cái chung là bộ phận, còn cái riêng là toàn bộ. Có thể khái quát một công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhưng
trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác quan
hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất,
hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một
thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung
và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa có thể
tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự " va chạm" giữa những
cái riêng vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những
cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. Về điểm này, Lênin nói: "... Cái
riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung". Ví dụ, nguyên tử
của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái " riêng", chúng có trọng lượng
nguyên tử của mình, có hoá trị của mình, có điện tích hạt nhân của mình, có
cấu tạo vỏ nguyên tử của mình... Nhưng tất cả những nguyên tử đều có cái
chung: trong mọi nguyên tử đều có hạt nhân, vỏ điện tử, đều có những hạt
nguyên tố; hạt nhân của mọi nguyên tử đều có thể bị phá vỡ. Chính nhờ có
những đặc tính chung cho mọi nguyên tử mà khoa học mới có khả năng biến
nguyên tử của một nguyên tố này thành nguyên tử của một nguyên tố khác.
Nguyên tử, cũng như bất cứ hiện tượng nào khác trong thế giới khách quan,
là sự thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành cái
đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường,
khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng
từ sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn
kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số
ngành như an ninh quốc phòng...
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương
đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng
nếu xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là một
đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây như bạch đàn, phượng vĩ, bàng…
nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất
chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm... Xét một ví
dụ khác, qui luật cung- cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng
trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn nhất,
đặc trưng cho kinh tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi
hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn. TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định
cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “hoa hồng là hoa”, “kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”... Những trường hợp
đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm của cái
riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những
định nghĩa như trên chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi
không thuộc sự vật ấy, chứ không dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự vật.
Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung, ta đã đưa
ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt nam một
cách thích hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển
trên thế giới, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Cần phải nhận thức cái chung để vận dụng vào cái riêng trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Không nhận thức được cái chung thì trong thực tiễn
khi giải quyết mỗi cái riêng, mỗi trường hợp cụ thể sẽ nhất định vấp phải
những sai lầm, mất phương hướng. Muốn nắm được cái chung thì cần phải
xuất phát từ những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tuợng ngoài những cái riêng.
Mặt khác, cần phải cụ thể hóa cái chung trong mỗi hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể; khắc phục bệnh giáo điều, siêu hình, máy móc hoặc cục bộ, địa phương
trong vận dụng mỗi cái chung để giải quyết mối trường hợp cụ thể.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải biết vận dụng các điều
kiện thích hợp cho sự chuyển hóa giữa cái đơn nhất và cái chung theo những TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
mục đích nhất định, bởi vì giữa cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa
cho nhau trong những điều kiện xác định.
3. Vận dụng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
3.1. Khái niệm kinh tế thị trường:
Trên góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách
khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, và lưu
thông hàng hoá. Ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có
thị trường. "Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô
sản xuất cũng tăng lên, sự phân công sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn" (1) .
Theo David Begg, thị trường "là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông
qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các
quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và cái
quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung
hòa bằng sự điều chỉnh giá cả" (2). Ta cũng có thể định nghĩa thị trường là
nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu.
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch
vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động, luôn luôn đổi
mới mặt hàng, công nghệ và thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo
cơ chế thị trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng
hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả,
đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu...
3.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan:
Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh tế
phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước
khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề. TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập
trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Trong thời gian đầu sau
chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước trong
hệ thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của
nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà
nước đã tập trung vào tay mình một lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài
sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá
trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến.
Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta tồn
tại một lúc cả ba gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và sự
chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà
chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà
còn gây lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Lúc này, nước ta đồng thời
cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả những nguyên
nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 80
lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở
một số nơi còn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là từ
những sai lầm cơ bản như:
Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một qui
mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản vô chủ
và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan hiếm của đất nước
trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao 2, 2%.
Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho
phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối
bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển. TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính,
mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn
của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của
hàng triệu người lao động.
Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã đạt được
những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được
những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người
nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển.
Do mắc phải những sai lầm như trên mà để phát triển kinh tế XHCN ở nước
ta không thể chấp nhận việc tiếp tục kế hoạch hoá tập trung như trước. Với
tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại đại hội VI của
Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch
toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định việc đổi mới cơ
chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra
việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một
sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như
trong thực tế. Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế thị trường một cách cơ bản,
cùng những ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu dài mà không còn đơn
thuần phủ nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng riêng
có của CNTB; nước ta không đi theo CNTB thị cũng không thể áp dụng kinh
tế thị trường trong phát triển kinh tế). Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế thị
trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và
với xu thế của thời đại:
Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể
nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở
rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ rõ thực
hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục chúng ta đã liên tục đổi mới TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt
mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích
luỹ hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng
phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá
dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản
xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường.
Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị
trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế kinh tế thị trường đã
hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết
các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nuớc đã được
thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị
trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu
hẳn thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp
của nhà nước còn rất thấp.
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà
nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và
đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta
gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các
loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của
mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh
giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí
nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính TiÓu luËn TriÕt häc lOMoAR cPSD| 48302938
sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của
mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất
nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức
mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức
mạnh của các đảng cầm quyền.
Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu để
phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu hình thức kinh
tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển rất cao
so với những thời kỳ trước) mà từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị
trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền
kinh tế thị trường TBCN.
3.3. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:
3.3.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế giới:
Trước hết, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo
mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung- cầu, quy luật giá trị thặng
dư, quy luật lưu thông tiền tệ...
Các loại thị trường, các mối quan hệ thị trường được phát triển phong phú,
đa dạng, thể hiện trình độ cao trong việc phân công lao động thành nhiều
ngành nghề. Sự khác biệt về sở hữu tài sản đã được chấp nhận (không còn chỉ
chấp nhận hình thức sở hữu nhà nước, tập thể như trước) và lợi nhuận trở
thành động lực phát triển. Theo đó, đã hình thành một lớp người mới năng
động hơn, bám sát thị trường hơn và "biết làm kinh tế hơn". Ở nước ta hiện
nay cũng hình thành và tồn tại cả những khuyết tật của kinh tế thị trường: tâm
lý quá coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, sự phân cực giàu nghèo quá
mức, kinh tế phát triển mất cân đối…. Kinh tế thị trường nước ta cũng có sự
quản lý của nhà nước để khống chế, giảm bớt những khuyết tật đó cùng những TiÓu luËn TriÕt häc 1
Downloaded by Tran Anh (anhtran1406@gmail.com)0 lOMoAR cPSD| 48302938
tác hại của nó. Nhưng tuy nhiên, những khuyết tật đó vẫn còn tồn tại âm ỉ
trong xã hội và trong suy nghĩ của một số người.
Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung
phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách
rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị trường
chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước
cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
3.3.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam:
Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của nhà
nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh tế thị
trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của
nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì con người.
Để thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, không giản đơn chỉ
xem xét quan hệ sở hữu mà là giải quyết đồng bộ từ vấn đề sở hữu, quản lý,
phân phối; tìm động lực cho sự phát triển trên cơ sở xây dựng vật chất- kỹ
thuật cho xã hội mới, là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, biến nước ta
từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh tế phát triển.
Đường lối phát triển đó đã được Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; luôn giữ vững định
hướng XHCN trong quả trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định về mục tiêu,
nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp.
Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là một công cụ,giải
pháp, phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ
lợi ích của đa số nhân dân lao động, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Cùng với việc sử dụng động lực của kinh tế thị
trường, ngay từ đầu, Đảng ta chủ trương phát triển lực lượng sản xuất phải đi
đôi với xây dựng quan hệ sản xuất, đặc biệt là những yếu kém về quản lý và TiÓu luËn TriÕt häc Downloaded by Tran Anh 1 (anhtran1406@gmail.com)1 lOMoAR cPSD| 48302938
phân phối, xây dựng quan hệ con người với con người, một xã hội giàu tình
thương và lòng nhân ái; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm
nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn.
Dưới CNTB, kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn nuốt
cá bé, bất bình đẳng, bất công; nhưng nền kinh tế thị trường trong xã hội
XHCN vẫn mang tính cạnh tranh, sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển
nhưng không cạnh tranh dã man; tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã
hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân
cực giàu nghèo, gia tăng về mức sống nhưng vẫn giữ gìn được đạo đức, bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong quá trình phát triển, kinh tế nhà nước được chọn lọc, sắp xếp lại,
khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những mạch máu chủ yếu
làm đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt hướng
dẫn cac thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng.
Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ
phân lớn sản phẩm.Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ
sỏ khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp,
đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội. Ta chủ trương chống bóc
lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo
đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với mục
tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. Tuy nhiên, để có động
lực cho sự phát triển phải khuyến khích tích tụ, tích luỹ, sáng kiến cá nhân,
chấp nhận phân hoá do lao động sáng tạo (nhưng kiên quyết xoá bỏ phân hoá do bất công).
Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu,
trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại
tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp "con trâu đi trước cái cày theo
sau". Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong TiÓu luËn TriÕt häc 1
Downloaded by Tran Anh (anhtran1406@gmail.com)2 lOMoAR cPSD| 48302938
vài năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý. Kết quả là hiện nay,
trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, mang tính tự túc là chủ yếu, cơ
sở vật chất yếu kém, thu nhập thấp 400 USD/ người, trình độ quản lý kinh tế
còn non yếu, khả năng cạnh tranh kém. Do vậy mà ta cần có thời gian làm
quen, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là
quản lý và phát triển kinh tế.
Không chỉ có xuất phát điểm thấp mà còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh
khốc liệt, kéo dài. Do hai cuộc chiến tranh đó mà cơ sở hạ tầng vốn đã thấp
lại còn bị tàn phá nặng nề. Ta không đủ khả năng về vốn, kỹ thuật để có thể
bước ngay vào xây dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại, với các
công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản vốn đã có tới ba thế kỷ tích luỹ.
Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, còn những rối loạn và nhiều
yếu tố tự phát. Ngoài ra thị trường ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, nhiều hình thức
thị trường còn thiếu hoặc mới chỉ ở dạng manh nha như thị trường tiền tệ, thị
trường vốn, thị trường sức lao động..., nên chưa thể thực sự hoà nhập với thị trường thế giới.
Nước ta có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo
cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo
léo cao như trạm khắc, đan... đặc biệt là những thành phần kinh tế truyền
thống, ở các làng nghề truyền thống như tranh Đông Hồ, sơn mài khảm trai...
Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta có thể nói chỉ là lịch sử của những cuộc chiến
tranh chống xâm lược mà không có trang nào về việc phát triển kinh tế, trong
vốn từ truyền thông dường như rất xa lạ với thuật ngữ "làm kinh tế". Ngoài
ra, ta mới đổi mới nền kinh tế nên vẫn còn những người thuộc "thế hệ cũ"-
thế hệ của cơ chế bao cấp. Họ "dị ứng" với kinh tế thị trường, coi kinh tế thị
trường là một thứ gì đó rất xấu xa mà mình không thể chấp nhận, và làm theo
được; và họ cũng không đủ năng động để thích ứng với tốc độ phát triển của kinh tế thị trường. TiÓu luËn TriÕt häc Downloaded by Tran Anh 1 (anhtran1406@gmail.com)3 lOMoAR cPSD| 48302938
Quan tâm đến các vấn đề chính sách xã hội, bù đắp những tổn thất cho
những người, gia đình có công với cách mạng, thành lập những làng tình
thương giúp đỡ nhiều người không nơi nương tựa..., kiểm soát, giảm thiểu
những mặt tiêu cực so kinh tế thị trường gây ra; đó là những biện pháp giảm
khuyết tật xã hội của kinh tế thị trường mà nhà nước ta đã thực hiện. Nhờ đó,
nhà nước không còn là "kẻ gác cổng trung thành cho sở hữu tư nhân" mà đã
trở thành một lực lượng quan trọng trong việc điều tiết xã hội, khống chế khuyết tật xã hội.
Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị trường thế giới,
ta luôn chú ý tới việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và đảm bảo
độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc.
3.4.. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại:
Xét về lĩnh vực con người, người Việt nam hiện nay đã thể hiện sự năng
động, tinh tế, nhạy cảm( đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những năm tám mươi.
Xét về lĩnh vực kinh tế, nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo
một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng( con người,
tự nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử...) củaViệt nam mà nền kinh tế cũng như
đời sống của người dân được cải thiện đáng kể:
So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%, trong đó
sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch
xuất khẩu tăng 20,8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được vốn
đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu có
tích luỹ nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết
phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến nay ta
đã đứng thứ hai trong số những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. TiÓu luËn TriÕt häc 1
Downloaded by Tran Anh (anhtran1406@gmail.com)4 lOMoAR cPSD| 48302938
Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang kiểm
soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang lại,
bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc lợi
xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội...
3.5. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt nam những
năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng của Việt nam:
Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất
nghèo nàn. Mặt khác, có thể nói lịch sử 4000 năm của nước ta là lịch sử của
những cuộc chiến tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm mà không phải là
lịch sử của những quá trình phát triển kinh tế. Cộng thêm với cơ chế bao cấp
nhà nước ta áp dụng sau chiến tranh đã khiến cho nền kinh tế nước ta vốn đã
bị tàn phá nặng nề còn "chây lười", ỷ lại vào nguồn tài trợ của nước ngoài.
Tính chất bao cấp đã ăn sâu vào tận trong ý nghĩ của nhiều người. Xuất phát
từ cơ sở vật chất lạc hậu cùng phương cách quản lý kém hiệu quả đó, nền kinh
tế thị trường nước ta có trình độ phát triển thấp, cơ cấu quản lý còn non yếu.
Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so với thế giới
hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển, cơ sở vật chất của các nước phát
triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh tế thị trường tự do sang kinh
tế thị trường hiện đại như là hướng phát triển kinh tế thị trường chung của
toàn thế giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh tế thị trường hiện đại.
Nhưng muốn "đi tắt" được như vậy đòi hỏi ta phải chấp nhận những thách
thức rất gay gắt, và sự nỗ lực ghê gớm. Ta "đón đầu", áp dụng những tiến bộ
mới của khoa học kỹ thuật nhân loại vào sản xuất, đẩy mạnh năng suất lao
động cả về số lượng và chất lượng. Điều này đòi hỏi ta phải đào tạo được "lớp
người mới", quen thuộc với khoa học kỹ thuật, không cảm thấy lạ lẫm với
những máy móc hiện đại, đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao. Để đáp
ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát triển khoa học, giáo dục đào tạo, cũng
như có những chính sách phát hiện, nuôi dưỡng và giữ gìn nhân tài, tránh hiện
tượng chảy máu chất xám. TiÓu luËn TriÕt häc Downloaded by Tran Anh 1 (anhtran1406@gmail.com)5 lOMoAR cPSD| 48302938
Nước ta có vị trí vô cùng thuận lợi, đồng thời lại có nhiều danh lam thắng
cảnh đẹp được thế giới công nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao thông
vận tải và du lịch là rất lớn. Nhiều nước nói rằng họ "thèm" được có điều kiện
như Việt nam về vị trí địa lý, và nếu có được thì họ sẽ thu về một doanh thu
khổng lồ từ ngành du lịch. Nhưng hiện nay việc phát triển du lịch ở nước ta
còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Điều đó đặt ra một yêu cầu
nữa cho công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta: phải đẩy mạnh phát triển du
lịch sao cho tương xứng với tiềm năng của mình, tích cực thu ngoại tệ từ
ngành du lịch để phát triển chính bản thân ngành cùng nhiều ngành nghề khác trong nền kinh tế.
Người Việt nam được đánh giá là khéo léo. Ta có nhiều làng nghề thủ công
mỹ nghệ nổi tiếng như làng tranh Đông Hồ chẳng hạn. Nhiều nước tỏ ra ưa
chuộng hàng thủ công của ta, muốn đặt hàng cùng ta nhưng do hàng rào thuế
quan, phong cách quản lý gây khó khăn, cùng với việc "ngại" áp dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất truyền thống, khiến cho lượng hàng sản xuất ra ít,
không đủ trang trải cho những lệ phí phải chịu do thuế quan nên ta đã mất
nhiều hợp đồng. Để đẩy mạnh sự phát triển của các làng nghề thủ công như
Đảng ta đã dự kiến đòi hỏi một sự đổi mới toàn diện trong cách làm việc của
những thợ giỏi, tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, không chỉ
đơn thuần làm bằng tay như trước; đồng thời phải làm giảm sự rối rắm trong
hàng rào thuế quan, gây cản trở cho sự đầu tư của nước ngoài vào Việ nam.
Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế, về
hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn phải giữ vai trò
chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị
trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thực sự
thì phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta vẫn
còn chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp ở tính chất thiếu năng động, ỷ lại vào
nhà nước, không quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Điều
này đang dần dẫn tới việc các doanh nghiệp nhà nước trở thành gánh nặng
cho nền kinh tế, không thể giữ vai trò chủ đạo như trước. Theo thống kê, hàng TiÓu luËn TriÕt häc 1
Downloaded by Tran Anh (anhtran1406@gmail.com)6 lOMoAR cPSD| 48302938
năm tuy 75% số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế nhà nước, và chỉ có 25%
dành cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng hiệu quả kinh tế mang lại của hai
thành phần kinh tế này chỉ chênh lệch rất nhỏ so với tỷ lệ vốn đầu tư. Trong
những điều kiện mới, ta buộc phải đặt ra vấn đề nâng cao năng suất làm việc
của doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước phải trở nên
năng động hơn, bám sát với những biến động của thị trường hơn và quan tâm
đến hiệu quả sản xuất hơn thì mới có thể tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, định hướng như trước.
Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều sơ hở, tạo điều
kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó yêu cầu đặt ra là phải thiết lập luật
pháp chặt chẽ, dần đưa con người tới hành động tự giác tuân theo pháp luật,
sông văn minh, có văn hóa, và tạo một môi trường cạnh tranh công bằng, lạnh
mạnh, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh.
Nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản va có sự quản lý của nhà
nước sao cho vừa đảm bảo phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã hội và
con người, giảm thiểu những khuyết tật xã hội mà kinh tế thị trường mang lại. III. KẾT LUẬN
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những
mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung
thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại.
Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn
tại của minh; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung.
Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh tế thị TiÓu luËn TriÕt häc Downloaded by Tran Anh 1 (anhtran1406@gmail.com)7 lOMoAR cPSD| 48302938
trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt nam.
Chủ trương lãnh đạo của Đảng đã thể hiện sự sáng suốt trong nhận thức
nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều thiếu sót khiến cho kinh tế thị
trường nước ta chưa vận dụng được hết các lợi ích, cũng như khắc phục hoàn
toàn những nhược điểm của kinh tế thị trường nói chung, và chưa thể hiện
được thành một nền kinh tế thị trường hiện đại mang bản sắc của Việt nam.
Trong việc quản lý vẫn còn nhiều phiền hà, gây nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp trong việc làm ăn. Vì thế mà nhiều doanh nghiệp nước ngoài không
muốn đầu tư vào Việt nam cho dù nhận thấy một thị trường rộng mở, có nhiều
tiềm năng để phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.M. S. Alam
Chính phủ và thị trường trong các chiến lược phát 1993
triển kinh tế (Những bài học từ Nam Triều Tiên, Đài Loan, Nhật Bản
Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường 1994 Mai Ngọc Cường, Đỗ Đức Bình
Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường 1991 Mai Ngọc Cường Nguyễn
Kinh tế thị trường định hướng XHCN NXBTK 1995 Sinh Cúc Phạm Việt Đài
Mặt trái của cơ chế thị trường 1996
Giáo trình triết học Mác- Lênin 2000 NXBCTQ G TiÓu luËn TriÕt häc 1
Downloaded by Tran Anh (anhtran1406@gmail.com)8 lOMoAR cPSD| 48302938 Lê Trần Hảo
Thống kê thương mại trong nền kinh tế thị trường NXBTK 2000
Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội 1997 V. I. Lênin
Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường 1959 Đặng Kim 1994
Chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế thị trường Nhung
và vận dụng vào Việt nam
Những vấn đề: Tổ chức và điều tiết thị trường. 1990
Một số kinh nghiệm nước ngoài Stéc- nin
Cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến NXBST Tạp chí cộng sản số 9/ 1998 TiÓu luËn TriÕt häc Downloaded by Tran Anh 1 (anhtran1406@gmail.com)9 lOMoAR cPSD| 48302938
Tạp chí kinh tế và phát triển số 13 / 1996
Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 4 / 1996
Tạp chí phát triển kinh tế số 68 / 1996 Tạp chí thương mại số 5 / 1996 Đỗ Đức Thịnh 1991
Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển ở châu Á 1994
Tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế thị trường nước ta hiện nay Phan Quang Tuệ 1994
Một số học thuyết kinh tế tiền tệ của các nhà kinh tế thị trường TiÓu luËn TriÕt häc
Downloaded by Tran Anh (anhtran1406@gmail.com)