Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Liên hệ với quá trình xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận kết thúc học phần chủ nghĩa xã hội khoa học
Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ quan trọng cho việc thực thi quyền làm chủ của người dân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Học phần: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Liên hệ với quá trình
xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
Giảng viên hướng dẫn : Sinh viên thực hiện : Lớp :
Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2021 2 MỤC LỤ C
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................5
I. Một số vấn đề căn bản về dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội
chủ nghĩa..........................................................................................................5
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa...............................................................................5
1.1 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...............................5
1.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...........................................6
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa..........................................................................10
2.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.........10
2.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa..............................................11
2.3 Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa..........................................12
II. Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa........................................................................................................12
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt
động của nhà nước xã hội chủ nghĩa...........................................................12
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ quan trọng cho việc thực
thi quyền làm chủ của người dân.................................................................14
III. Liên hệ với quá trình xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam hiện nay.........................................................................................15
KẾT LUẬN....................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................21 3 MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam ngày nay, sau gần nhiều thập kỷ lãnh đạo, nhân dân Việt
Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và xây dựng thành công Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, được nhân
dân các nước tin cậy. Và lịch sử dân tộc Việt từ khi ra đời đến nay là lịch sử
dựng nước và giữ nước. Xây dựng đất nước luôn gắn liền với bảo vệ Tổ quốc,
tương tự như thế mà mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa cũng được coi là một trong những mối quan hệ mật
thiết, là yếu tố cơ bản của công cuộc xây dựng đất nước, trong quá trình hình
thành và phát triển các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội cũng như tác động
sâu sắc đến quan niệm tư tưởng và thành tựu vật chất tinh thần của nhân dân
ta. Cho đến ngày nay đây quá trình xây dựng Đảng và nền dân chủ ở Việt
nam được vẫn là một nhiệm vụ quan trọng mà toàn Đảng toàn dân luôn cố
gắng phấn đấu để đạt được những mục tiêu đã đặt ra.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội
chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để từ đó liên hệ sang xã hội hiện
nay về quá trình xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN. - Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm hiểu về dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
qua 3 khía cạnh là: quá trình ra đời, bản chất và chức năng
+ Đưa ra nhận xét về mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
+ Liên hệ quá trình xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam ngày nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
- Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Liên hệ quá trình xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN.
- Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam, từ khi ra đời cho đến ngày nay
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Với bản thân, sau khi nghiên cứu đề tài này giúp em hiểu rõ hơn về sự
liên quan, gắn bó của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Đây là một đề tài hết sức thực tế, đem đến cho em cái nhìn dễ
dàng hơn về bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như tự đánh giá, việc
nắm chắc được nội dung sẽ giúp em nhìn nhận về trách nhiệm của bản thân
trong việc góp phần xây dựng đất nước ngày nay. 5 NỘI DUNG
I. Một số vấn đề căn bản về dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Nhìn nhận quá trình hình thành và phát triển của loài người, khi có sự
không công bằng giữa những tầng lớp trong xã hội, ắt hẳn sẽ có đấu tranh.
Dân chủ cũng không ngoại lệ. Đấu tranh cho dân chủ là một quá trình bền bỉ
và phức tạp, những giá trị của dân chủ tư sản chưa thực sự đầy đủ vì thế, nền
dân chủ mới cao hơn dân chủ tư sản tất yếu sẽ xuất hiện, đó là dân chủ vô sản
hay dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Ở Chính trị học Mácxít, dân chủ được coi là một trong những quan
niệm, giá trị nòng cốt. Các Mác từng chỉ ra rằng: Công xã Pari năm 1871,
Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử, thực chất là chính
quyền của giai cấp công nhân. Tuy vậy không phải ở ngay thời điểm có Công
xã Pari thì đã xuất hiền nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mãi cho đến khi cách
mạng Tháng Mười Nga có được thành công dưới sự lãnh đạo của Lê-nin và
Đảng Bôn-sê-vích đã xác lập nên một nền dân chủ mới, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin: Nếu giai cấp vô sản không chuẩn bị để
tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa thông qua đấu tranh dân chủ thì không
thể hoàn thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không thực hiện đầy đủ dân chủ
thì không thể duy trì và giành thắng lợi chủ nghĩa xã hội.
- Bất cứ nền dân chủ nào như dân chủ tư sản thì nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa cũng có một quá trình hình thành và phát triển từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, dần hoàn thiện và đầy đủ hơn, biết kế thừa chính xác các
giá trị của nền dân chủ trước đó. Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là không ngừng mở rộng dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho 6
những người lao động, thu hút họ tham gia tự giác vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
- Với những ý kiến đó ta có thể định nghĩa dân chủ xã hội chủ nghĩa là
nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà
ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân
chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện
bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
- Muốn thực hiện thành công sứ mệnh của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là quyền lực thuộc về nhân dân bênh cạnh việc giai cấp công nhân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo (tuy là nhân tố quan trọng nhất) thì vẫn còn cần nhiều yếu
tố như trình độ học vấn, xã hội công dân, xây dựng cơ chế pháp lý để bảo vệ
tự do cá nhân, kiểm soát các quyền của đất nước, và quyền tham gia vào việc
ra quyết định của quốc gia, các điều kiện vật chất để thực thi dân chủ.
1.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Chính trị: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất chính trị là sự
lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn
xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai
cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể
nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân. Được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản,
nhân tố quyết định, bảo đảm mọi quyền lực sẽ thuộc về nhân dân. Đại diện
cho trí tuệ lợi ích và tiếng nói của toàn thể nhân dân, công nhân lao động.
Ở phạm vi các nền dân chủ xa hội chủ nghĩa, người có quyền quyết định
về những quan hệ chính trị trong xã hội lúc bấy giờ là nhân dân lao động.
Nắm trong tay trọng trách giới thiệu các đại biểu tham gia vào bộ máy chính
quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng
chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ, công chức nhà nước. Việc
tham gia rộng rãi của nhân dân vào quá trình quản lý nhà nước là nội dung 7
của dân chủ trong lĩnh vực chính trị. Điều này cũng được Lê nin nhấn mạnh:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ của đại đa số dân cư, của những
người lao động bị bóc lột, là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều
vào công việc Nhà nước. Với ý nghĩa đó, V.I.Lênin đã diễn đạt một cách khái
quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa rằng: đó là nền dân
chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”1.
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là
của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân2…
điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định khi nhắc về quyền làm chủ của
nhân dân trên lĩnh vực chính trị. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước
xã hội chủ nghĩa do đó về thực chất là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác với các cuộc cách mạng xã hội
trước đây là ở chỗ nó là cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông
nhân dân. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
(1946) theo Hồ Chí Minh là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn
những người có tài, có đức để gánh vác công việc nhà nước. Quyền được
tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước chính là nội dung dân chủ
trên lĩnh vực chính trị.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai
cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy,
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản
chất giai cấp (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và
cơ chế đa nguyên; một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).
- Kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội
về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày
càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại 1[5, tr.39]. 2[3, tr.232]. 8
nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế này chỉ được thể hiện đầy đủ thông qua quá trình ổn
định chính trị, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống toàn xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng Mác - Lê-nin và sự quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ của nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Trước hết, phải bảo đảm cho nhân dân quyền làm chủ tư liệu
sản xuất chủ yếu, quyền làm chủ trong quá trình sản xuất, vận hành, quản lý
và phân phối phải do lợi ích kinh tế của người lao động, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Mặc dù bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác nhau về
bản chất kinh tế của hệ thống sở hữu tư nhân, áp bức, bóc lột và bất công,
nhưng nó sẽ không hình thành từ "hư vô" như toàn bộ nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa còn là sự kế thừa và phát triển mọi thành
tựu sáng tạo trong lịch sử loài người, đồng thời lọc bỏ những yếu tố lạc hậu,
tiêu cực, hạn chế của hệ thống kinh tế trước đây ..., nhất là bản chất của chế
độ tư hữu, đàn áp, chèn ép, bóc lột bất công ...
Không giống như nền dân chủ tư sản, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
mang bản chất kinh tế là làm chủ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.
- Tư tưởng, văn hóa, xã hội: lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác
trong xã hội mới. Bên cạnh đó cũng liên tục kế thừa và phát triển những tinh
hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa,
văn minh, tiến bộ xã hội… mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân
tộc. Ở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn
hoá tinh thần; được nâng cao trình độ văn hoá, có điều kiện để phát triển cá
nhân. Dưới góc độ này dân chủ là một thành tựu văn hoá, một quá trình sáng 9
tạo văn hoá, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa
cá nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra
sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Với bản chất nêu trên, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết được thực
hiện bởi một nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là kết quả hoạt động tự
nguyện của nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp thống trị. Điều này sẽ
được thực hiện thành công với điều kiện tiên quyết để bảo đảm vai trò lãnh
đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Sở dĩ như vậy là do khi nắm vững những tư
tưởng cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đưa chúng đến với
quần chúng, Đảng đã tạo điều kiện cho phong trào quần chúng có tính tự giác
cao trong quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thông qua tuyên
truyền, giáo dục, đảng nâng cao ý thức chính trị và trình độ văn hóa dân chủ
của nhân dân, để họ tha thiết thực hiện các yêu cầu dân chủ mà pháp luật quy
định. Sự phát triển của xã hội. Chỉ khi Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhân dân mới
có thể chống lại có hiệu quả mọi âm mưu chống lại lợi ích của nhân dân bằng chế độ dân chủ.
Theo nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa chính trị bảo
đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản không loại trừ lẫn nhau,
ngược lại, vai trò lãnh đạo của Đảng là điều kiện xuất hiện, tồn tại và phát
triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với
những đặc điểm trên là nền dân chủ vượt trội về chất so với nền dân chủ tư
sản, là nền dân chủ trong đó mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân
làm chủ đất nước, nhân dân làm chủ đất nước; dân chủ và pháp quyền. pháp
luật thống nhất biện chứng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thực
hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 10
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.1 Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Bắt nguồn từ mong muốn của những người dân lao động không bị áp
bức, bất công và bạo ngược, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, công
bằng, mà ở đó các giá trị của con người được tôn trọng, bảo vệ và được phát
triển một cách tốt nhất. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời, là kết quả của
cuộc cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Ở xã hội loài người khi mà mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư nhân tư
bản chủ nghĩa với tư liệu sản xuất và tính chất xã hội hóa ngày càng cao của
lực lượng sản xuất ngày một gay gắt, khó có những giải quyết đơn giản đã
gây ra những khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế và mâu thuẫn sâu sắc giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Điều này đã làm xuất hiện những phong
trào đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp vô sản và ở trong những cuộc chiến ác
liệt đó, Đảng Cộng sẩn đã được thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh
cách mạng giành thắng lợi và trở thành yếu tố cốt lõi của kết quả này.
- Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa chính là kết quả đạt được sau
cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động thực hiện dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Ở mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ khác nhau
việc xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như tổ chức chính
quyền địa phương có một nét riêng biệt. Nhưng chung lại, chúng đều có một
sợi dây liên kết là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ quan đại
diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện việc tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa,
xã hội của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Vì thế nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị
chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản
sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân 11
dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội
trong một xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa.
2.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Tuy không phải ra đời đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người nhưng
việc một nhà nước mới mang những bản chất mới tiến bộ hơn trên thế giới đã
đem đến nhiều thành tựu to lớn cho lịch sử nhân loại. Trong mô hình nhà
nước xã hội chủ nghĩa nét nổi trội ở bản chất được thể hiện rõ nét ở nhiều khía cạnh:
- Chính trị nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công
nhân, giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân
lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa
vị thống trị về chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vô sản có sự khác
biệt về chất so với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị
của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp, tầng
lớp nhân dân lao động trong xã hội nhằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình.
Còn sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối
với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất
cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Do đó, nhà nước xã hội
chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
- Kinh tế: bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của
cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư
liệu sản xuất chủ yếu. Do đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu
như tất cả các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là nhà nước theo đúng
nghĩa của nó, nghĩa là bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số
nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là
một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ
chức quản lý kinh tế - xã hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà
nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là “nửa nhà nước”. Việc chăm lo cho lợi ích 12
của đại đa số nhân dân lao động trở thành mục tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Văn hóa, xã hội nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền
tảng tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và những giá trị văn hóa
tiên tiến, tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân
tộc. Sự phân hóa giữa các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai
cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
2.3 Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Dựa theo tình hình cũng như mục tiêu hướng đến mà nhà nước xã hội
chủ nghĩa mang những chức năng khác nhau:
- Với phạm vi tác động của quyền lực nhà nước chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Với các lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…
- Với tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước được
chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng).
II. Mối quan hệ giữa Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt
động của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Có thể thấy rõ được rằng, không có dân chủ xã hội chủ nghĩa thì chưa
chắc đã tồn tại một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hay trong thời đại ngày nay
thì dân chủ chính là một trong những yếu tố căn bản trong mục tiêu hình
thành chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 13
- Khác với xã hội tư bản khi đứng đầu là các tập đoàn tư bản, chủ sở hữu
tài sản, tư liệu sản xuất trong thị trường tài chính thì ở xã hội dân chủ xã hội
chủ nghĩa không chỉ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xóa bỏ phân
hóa giai cấp, mà về chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vượt qua dân chủ
tư sản, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Người dân hoàn toàn
có quyền cũng như điều kiện để thực hiện nhưng mong muốn của bản thân
thông qua việc lựa chọn cho mình một cách công bằng, bình đẳng những
người đại diện cho quyền lợi chính đáng của mình vào bộ máy nhà nước,
tham gia một cách trực tiếp hoặc giản tiếp vào hoạt động quản lý của nhà
nước, khai thác và phát huy một cách tốt nhất sức mạnh trí tuệ của nhân dân
cho hoạt động của nhà nước.
+ Điều này thể hiện rõ nhất chính ở việc toàn bộ người dân Việt Nam khi
đủ điều kiện có thể tham gia bầu cử Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật hiện hành, công dân nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Quyền bầu cử và ứng cử là của công
dân, là quyền được hiến định và việc thực hiện các quyền này phải theo quy định của pháp luật.
+ Theo lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “Lá phiếu của cử tri tuy khuôn
khổ nó nhỏ bé, nhưng giá trị của nó thì vô cùng to lớn… nó là một dấu hiệu
xác nhận rằng Nhân dân thật sự làm chủ nước nhà". Nhân dân ta đã trải qua
biết bao gian khổ, hy sinh biết bao xương máu trong cuộc cách mạng đánh đổ
thực dân và phong kiến mới giành được nó. Nó chứng tỏ chế độ dân chủ và tự
do của Nhà nước ta và quyền làm chủ thực sự của mỗi công dân ta. Vì vậy, đi
bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển cử vừa là quyền lợi quý báu, vừa là nghĩa vụ
thiêng liêng của mỗi người cử tri.
- Với những ưu thế sẵn có của mình, việc sớm kiểm soát một cách có
hiệu quả các quyền lực của nhà nước do nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực 14
hiện sẽ sớm đạt những kết quả nhất định. Khi có sự xuất hiện của quyền lực
thì chắc chắn ở đó sẽ tồn tại yêu cầu kiểm soát quyền lực với vai trò như một
công cụ điều tiết, bảo đảm cho quyền lực được sử dụng hợp lý, hiệu quả;
không bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích, dẫn đến hậu quả tiêu cực. Việc
kiểm soát này trước mắt sẽ giúp Đảng và Nhà nước dễ dàng ngăn chặn sự tha
hóa của những người thực thi công vụ nhưng không còn đủ tư cách cũng như
phẩm chất, năng lực để thực hiện nhiệm vụ được giao. Trong những năm đầu
sau khi thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, có thể thấy rõ được
rằng bộ máy lãnh đạo lúc ấy còn non trẻ nên dễ dàng mắc sai sót. Chủ tịch Hồ
Chí Minh ngay thời điểm đó đã quán triệt rõ ràng với các bộ phận chính
quyền về tình trạng “quân phiệt quan liêu”, “óc địa vị”, “tính kiêu ngạo” để
hạn chế cũng như giải quyết triệt để ngay từ khi còn là mầm mống để tránh
những hậu quả nặng nề, làm cho tổ chức Đảng và chính quyền suy yếu.
Suy đến mục đích cuối cùng thì ý nghĩa của tính ưu việt mà nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa có được chính là đảm bảo thực hiện đúng những mục tiêu
đặt ra và hướng đến những lợi ích tốt đẹp cho nhân dân.
- Bởi đặc điểm của dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ “dân là chủ” đến “dân
làm chủ” nên khi các nguyên tắc bị xâm phạm, phá bỏ thì việc xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa cũng sẽ khó để thực hiện thành công. Lãnh đạo trước
vốn là do nhân dân lúc này sẽ bị chuyển thành quyền lực của một nhóm người
với một lợi ích của riêng họ, lúc ấy sẽ không tồn tại một thể thống nhất như
định hướng ban đầu quá trình xây dựng đất nước.
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành công cụ quan trọng cho việc thực
thi quyền làm chủ của người dân
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh của toàn bộ giai cấp
công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu của nhà nước pháp
quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị 15
thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thông qua
dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
- Thực hiện mục tiêu là công cụ bạo lực có tác dụng ngăn chặn có hiệu
quả các hành vi vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, nhà nước xã
hội chủ nghĩa đã bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Lênin cho rằng con
đường vận động và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa là nâng cao hình
thức đại biểu của nhân dân trong việc thực hiện và mở rộng dân chủ, nhằm
thu hút ngày càng nhiều nhân dân tham gia điều hành, quản lý nhà nước và
quản lý xã hội. Bằng việc tham gia hoạt động quản lý nhà nước, các nguồn
lực xã hội được tập hợp, tổ chức và phát huy để phục vụ lợi ích của nhân dân.
Ngược lại, nếu nước xã hội chủ nghĩa mất đi bản chất sẽ tác động xấu đến nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, dễ dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền làm chủ đất
nước, dẫn đến chuyên chế, độc quyền. Sự giàu có, xóa bỏ dân chủ hay dân
chủ chỉ là những thủ tục mang giá trị tượng trưng.
- Với tư cách là một tổ chức chính trị đặc biệt, nhà nước xã hội chủ nghĩa
luôn cố gắng hoàn thành sứ mệnh của mình, là công cụ xác đáng trong mọi
cuộc đấu tranh đối đầu với những âm mưu bạo động, bạo ngược trái lại với lợi
ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả trong quá trình xây dựng xã
hội mới, là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện.
- Bên cạnh những nội dung đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối
liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân, lắng nghe và
tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, quản lý đất
nước vì lợi ích của nhân dân, chứ không phải vì các cơ quan và công chức nhà nước.
Bởi vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xem là “trụ cột”, “một công cụ
chủ yếu, vững mạnh” của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 16
III. Liên hệ với quá trình xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
- Tại thời điểm hiện tại, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp
tục diễn biến phức tạp, có nhiều biến động; cạnh tranh chiến lược, chiến tranh
thương mại, chiến tranh công nghệ và tranh chấp lãnh thổ giữa các nước lớn
diễn ra rất gay gắt, nhất là các nước đang đe dọa Việt Nam dưới tác động
nghiêm trọng của đại dịch Covid-19. Các thế lực thù địch luôn ra sức chống
phá công cuộc trẻ hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua hơn 35 năm thực hiện, Đảng ta đã
hình thành được hệ thống tư tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường xã hội chủ
nghĩa, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát
triển đất nước nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. “Làm giàu cho dân, củng cố
đất nước, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiên về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có
khẳng định rằng: “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách
mạng Việt Nam”3. Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn cũng như phù
hợp với thực tiễn của xã hội Việt Nam ngày nay, được nhìn nhận và đánh giá
trên bằng chứng khoa học cũng như tình hình phát triển đất nước.
- Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đảm bảo rằng mọi người tham gia vào tất cả các giai
đoạn của quá trình ra quyết định liên quan đến lợi ích và cuộc sống của mọi
người. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Trung Quốc
lấy “dân “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng” làm nhiệm vụ chủ yếu và hoàn thiện phương châm thực hiện dân chủ
“phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa,
3 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 16/5/2021 17
quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”4
- Để thực hiện tốt quá trình xây dựng Nhà nước và nền dân chủ XHCN ở
Việt Nam hiện nay trước hết Đảng và Nhà nước cần làm tốt nhiệm vụ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa..., vấn đề
trọng tâm, then chốt nhất là phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Có thể thấy Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm
thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện
quá trình này. Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''Phát triển mạnh khoa học, công
nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển kinh tế thị trường, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
- Tại Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh, bổ sung những quan điểm
mới chính xác hơn về công tác xây dựng Đảng, “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh” 5 với tư cách điều kiện tiên quyết để
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phát huy vai trò lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã
hội và đông đảo quần chúng nhân dân nhằm huy động mọi nguồn lực để hiện
thực hóa các chủ trương, đường lối, chính sách; hành động vì quyền lợi của
nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải
hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân.
- Xây dựng và từng bước hoàn thiện các hệ thống giám sát, phản biện xã
hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Vấn đề then chốt nhất chính là
phải xây dựng được một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về 4[2, tr.89]. 5[2, tr.40] . 18
nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải cho
một thiểu số giàu có6. Nhân dân - người chủ xã hội, không chỉ có quyền mà
còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành và giám sát việc thi hành,
đồng thời còn là đối tượng thụ hưởng các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay không chỉ được khẳng định trong các chủ
trương, đường lối của Đảng, mà đã được thể chế hóa, bảo đảm thực hiện
thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước.
- Tuy nhiên bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được cũng như những
điều nên làm để xây dựng một nền dân chủ, một Nhà nước xã hội chủ nghĩa
vững mạnh thì vẫn còn nhiều tồn tại. Một số văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến dân chủ ở cơ sở chậm được xây dựng và hoàn thiện. Việc thực hiện
phương châm chưa thực sự gắn với giữ gìn trật tự, kỷ cương, còn tình trạng
lợi dụng, chống đối, xuyên tạc theo hướng tiêu cực, gây mất an ninh, trật tự,
gây mất đoàn kết, chia rẽ trong tập thể. Ở một số nơi vẫn còn tình trạng dân
chủ hình thức, ý kiến của nhân dân chưa thực sự được lắng nghe, chủ quyền
của nhân dân còn bị xâm phạm7, tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu gây bức
xúc cho nhân dân vẫn còn diễn ra nhiều, chưa được ngăn chặn hoặc loại trừ.
Việc thực hiện ở cấp cơ sở chưa đồng đều giữa các vùng và các loại hình cơ sở.
Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
hiện nay chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thực sự sâu sát đời
sống các tầng lớp nhân dân, sâu sát cơ sở; hiệu quả giám sát và phản biện xã
hội của các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội chưa đồng đều. Trong doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các cơ sở dịch vụ,
6 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, 16/5/2021 7[2, tr.50] 19
đơn vị sự nghiệp ngoài công lập… khó thực hiện. Hệ thống chính trị cơ sở,
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa
thực sự tôn trọng, coi nhẹ ý kiến, kiến nghị của nhân dân, giải quyết chưa kịp
thời các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, trong phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Có thể thấy trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là một trong những mối quan
hệ cơ bản cần được tăng cường nắm vững và thực hiện hiệu quả nhằm thực
hiện mục tiêu: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về
mục tiêu và lợi ích”8.
- Tăng cường sự lãnh đạo, hướng dẫn của các Bộ, Tỉnh ủy, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp về thực hiện
tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; kết hợp thanh tra, kiểm tra thường
xuyên để xây dựng kế hoạch thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu tiết kiệm cụ thể
trên từng lĩnh vực. Phân công trách nhiệm của từng cơ sở, tổ chức, đơn vị; lấy
kết quả siêng năng, tiết kiệm, chống lãng phí làm tiêu chuẩn đánh giá để cán
bộ, công chức, viên chức noi gương, khen thưởng, bổ nhiệm. Tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục công khai, nâng cao nhận thức cho cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức từ Trung ương đến cơ sở trong mọi hoạt
động đối với các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và xã hội. Ghi
nhận, khen thưởng kịp thời những gương điển hình tiết kiệm, chống tham
nhũng, lãng phí; bảo vệ người cung cấp thông tin phát hiện lãng phí theo thẩm quyền.
8 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngày 16 tháng 5 năm 2021 20 KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu một số vấn đề về dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như nhìn nhận, đánh giá được mối liên
hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa chúng ta thấy
được rằng sự thay đổi cũng như hình thành một kiểu xã hội, nhà nước mới ở
Việt Nam là một lựa chọn thay đổi đúng đắn. Để thực hiện được những mong
muốn của toàn thể dân tộc thì việc kế thừa và phát huy những gì mà thế hệ đi
trước để lại, tiếp bước trên con đường xây dựng một nước Việt Nam công
bằng, dân chủ, văn minh là nhiệm vụ không chỉ của mỗi cá nhân mà là của cả
cộng động. Là một công dân Việt Nam tất cả chúng ta sẽ cùng cố gắng để có
thể thực hiện được điều đó để xứng đáng với công lao ông cha ta để lại, đến
gần hơn với cuộc sống hạnh phúc, ấm no và công bằng cũng như tiếp cận văn minh nhân loại.
Bài tiểu luận của em đã nêu ra những vấn đề cơ bản về mối quan hệ
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như liên hệ
đến việc xây dựng nhà nước và nền dân chủ hiện nay. Em mong nhận được
những đánh giá và nhận xét của các thầy cô để lần sau bài làm được hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!