



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077 MỤC LỤC
- Nguồn gốc, bản chất của ý thức – trang 1 Tài liệu Nghi gửi
- Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức – trang 4 Tài liệu Nghi gửi
- Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật (Nguyên lý mối liên hệphổ biến trang 8;
nguyên lý về sự phát triển trang 11) Tài liệu Nghi gửi
- Quy luật lượng – chất – trang 14 Tài liệu Nghi gửi
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâuthuẫn) – trang 17
Tài liệu Nghi gửi
- Quy luật phủ định của phủ định – trang 27 Tài liệu Nghi gửi
- Thực tiễn và vai trò của thực tiễn với nhận thức – trang 21 Tài liệu Nghi gửi
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.– trang 11 Tài liệu bổ sung
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng– trang 37 Tài liệu Nghi gửi
- Hình thái KT-XH – trang 44 Tài liệu Nghi gửi
- Đấu tranh giai cấp – trang 46 Tài liệu Nghi gửi lOMoAR cPSD| 22014077 lOMoAR cPSD| 22014077
TÀI LIỆU BỔ SUNG LÍ LUẬN + VẬN DỤNG TRIẾT HỌC.
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Khái niệm:
- Theo Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
đượcđem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
- Ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người, tồn tại trong bộ óc người
nêncũng thuộc về thế giới vật chất, không thể có một thế giới thứ hai dành riêng cho ý thức.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước ý thức có sau, vật chất
quyết định ý thức; còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
Cụ thể hơn, trong đời sống xã hội thì nhân tố vật chất quyết định nhân tố ý thức.
Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, điều kiện khách quan, quy
luật khách quan, khả năng khách quan.... năng lực thật sự còn bị hạn chế)
Nhân tố ý thức bao gồm: Tư tưởng, quan điểm, lý luận, đường lối, chính sách, mục tiêu,
phương hướng, giải pháp, biện pháp, cách thức hành động...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Không có vật chất sẽ không có ý thức.
Ví dụ: Bộ não con người là một thực thể vật chất, tạo ra ý thức thông qua hoạt động của
các tế bào thần kinh. Nếu bộ não bị tổn thương nghiêm trọng (như chết não), ý thức sẽ
không còn tồn tại. Điều này chứng minh rằng không có vật chất (não bộ), ý thức cũng không thể xuất hiện.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Nội dung của ý thức mang tính khách quan,do
thế giới khách quan quy định.
Ví dụ: Một người nhìn thấy cây xanh (vật chất) và nhận thức được rằng cây đang phát
triển. Hình ảnh và ý niệm về cây xanh trong ý thức của người đó được quyết định bởi sự
tồn tại khách quan của cây ngoài thực tế.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của ýthức
cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định. lOMoAR cPSD| 22014077
Ví dụ: Ngôn ngữ là công cụ vật chất để con người giao tiếp và biểu đạt ý thức. Nếu không
có ngôn ngữ (hệ thống ký hiệu vật chất), con người không thể hình thành tư duy trừu tượng hay sáng tạo.
- Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Tri thức và các yếu tốcủa
tri thức đều dựa trên sự phản ánh vật chất.
Ví dụ: Khi nhìn thấy một quả táo (vật chất), con người hình thành ý thức về màu sắc,
hình dạng và mùi vị của quả táo. Những tri thức này là sự phản ánh trực tiếp từ sự tồn tại khách quan của quả táo.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
- Ý thức là ý thức của con người, gắn liền với tính năng động, sáng tạo của nhân tố
conngười, nhân tố chủ quan; mặt khác, ý thức là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
Ví dụ: Một nghệ sĩ vẽ tranh về thiên nhiên. Ý thức của nghệ sĩ không chỉ phản ánh thế
giới xung quanh mà còn thể hiện sự sáng tạo, cá tính và cảm nhận riêng của họ về thiên nhiên đó.
- Ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát
triển. Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển
của các quá trình vật chất.
Ví dụ: Trong học tập, nếu một học sinh có ý thức đúng đắn về việc học tập chăm chỉ và
áp dụng phương pháp học hiệu quả, ý thức đó sẽ thúc đẩy quá trình học tập và phát triển
tri thức của học sinh. Ngược lại, nếu học sinh có ý thức sai lệch, như lười biếng hoặc
không chú trọng học hành, thì sẽ kìm hãm sự tiến bộ và phát triển của bản thân.
- Muốn có sức mạnh để tác động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào conngười
và được tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
Ví dụ: Để phát triển kinh tế ở một quốc gia, ý thức về cải cách, sáng tạo và phát triển bền
vững cần được thâm nhập vào người dân và các tổ chức. Khi mọi người và các cơ quan
thực hiện ý thức này trong thực tế, như đầu tư vào công nghệ mới, cải thiện cơ sở hạ tầng,
thì nền kinh tế sẽ có sức mạnh để phát triển mạnh mẽ.
Vì vậy, ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận trong tài liệu của Đông Nghi Vận dụng:
* Trong học tập:
Cấu trúc: thực trạng tri thức – tình cảm – niềm tin – ý chí (ý thức – tự ý thức – tiềm
thức) giải pháp kết quả đạt được lOMoAR cPSD| 22014077
Là sinh viên năm nhất trường Đại học Sư phạm TP.HCM, chúng em được học tập trong
một môi trường chất lượng, sáng tạo, nhân văn, đòi hỏi bản thân người học phải có
những thay đổi về phương pháp học tập trong môi trường mới. Người học nhận thức
được lượng kiến thức ở môi trường đại học rất khác biệt so với môi trường trung học
phổ thông vì vậy họ đã và đang tìm kiếm những phương pháp học tập mới để học tập
hiệu quả ở đại học. Người học vận dụng tình cảm để đảm bảo rằng, quyết định thay đổi
của họ là sáng suốt và sẽ đem đến kết quả tương xứng với sự nỗ lực của họ. Trong quá
trình thay đổi phương pháp học tập, người học sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng vì họ luôn
tin vào quyết định của chính mình nên họ sẽ tìm cách vượt qua mọi trở ngại để có thể
tiếp tục thực hiện mục tiêu của mình. Nhưng ý thức có sự
tác động trở lại đối với vật chất, nên ta phải phát huy tinh tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức. Em đã áp dụng điều này trong quá trình điều chỉnh phương pháp học tập của
mình ở đại học để học tập hiệu quả hơn bằng cách chủ động tìm hiểu các phương pháp
học tập của những anh chị khóa trước đối với từng môn học, sau đó chọn lọc và xem xét
liệu phương pháp đó có phù hợp với bản thân hay không, nhờ đó bản thân em cũng tìm
thấy sự hứng thú đối với việc học. Sau khi lựa chọn phương pháp học tập cho từng môn
học, em lên thời khóa biểu cho các môn, với niềm tim sẽ đạt được kết quả học tập tốt, em
luôn kiên định với mục tiêu của mình và không ngại đối mặt với khó khăn, thử thách.
Bên cạnh đó, sinh viên cần tự ý thức được mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí
cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Học tập là một quá trình dài hạn, trong quá trình đó, sinh
viên luôn phải liên tục cập nhật kiến thức mới, cải tiến phương pháp học tập để bản thân
học tập hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc lắng nghe và tiếp thu kinh nghiệm do các thầy cô,
anh chị truyền đạt cũng góp phần không nhỏ để sinh viên phát triển và ngày càng hoàn thiện bản thân.
Cuối cùng khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn
yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Nhiều sinh viên năm nhất
mong muốn học song ngành ngay từ rất sớm. Điều này đòi hỏi sinh viên phải suy xét kĩ
lượng mọi mặt, đảm bảo tài chính gia đình cũng như khả năng học tập của bản thân, học
môn nào chắc môn đó, không nên để dẫn tới tình trạng kết quả học tập không như mong đợi.
*Trong cuộc sống:
Bước sang môi trường đại học, nhiều sinh viên cảm thấy bỡ ngỡ khi phải xa nhà để
học tập ở một thành phố xa lạ. Nhận thức được cuộc sống của bản thân không chỉ xoay
quanh học tập như trước mà còn phát sinh thêm vấn đề nhà ở, tài chính…vì vậy, họ đã
và đang tìm những biện pháp để cân bằng đời sống cá nhân và học tập của mình. Vấn đề
tài chính đối với sinh viên không phải là vấn đề quá mới lạ, nhiều gia đình sinh viên không
có nguồn tài chính ổn định để chu cấp cho đời sống sinh hoạt cũng như học tập của sinh lOMoAR cPSD| 22014077
viên. Bản thân sinh việc cũng nhận thức rõ điều kiện tài chính của gia đình, vì vậy họ luôn
tìm kiếm những biện pháp để có thể giải quyết khó khăn của mình. Họ tin rằng quyết
định của họ là đúng đắn và luôn luôn kiên trì trong quá trình giải quyết mọi khó khăn tài
chính bằng cách học tập thật tốt để nhận học bổng, đăng ký học bổng ở những quỹ tài
chính cho sinh viên khó khăn, đi làm thêm bên ngoài để kiếm thêm thu nhập…Nhờ sự
kiên trì cùng nỗ lực không ngừng, sinh viên sẽ vượt qua khó khăn tài chính để học tập tốt hơn.
* Vận dụng lĩnh vực giáo dục:
Nhìn chung, giáo dục đại học ở Việt Nam vẫn còn tụt hậu so với các nước trong khu
vực và thế giới, chưa phát triển tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra và chưa đáp ứng
được nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: giáo
trình, phương pháp giảng dạy ở nhiều cơ sở giáo dục đại “Nội dung chương trình,
học còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành [...] Đào tạo
vẫn thiếu sự gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động.”
Đổi mới giáo dục đại học là yêu cầu cấp bách, đặc biệt khi hệ thống giáo dục hiện tại
vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Việc nhận thức rõ thực trạng này sẽ trở thành động lực thúc
đẩy người học, các nhà giáo dục và cơ quan quản lý thực hiện những cải cách cần thiết.
Một trong những hướng đi quan trọng là giảm thiểu cách dạy lý thuyết khô khan, tăng
cường các hoạt động thực tiễn nhằm tạo sự hứng thú cho người học và đồng thời giúp
họ áp dụng kiến thức vào thực tế. Những cải tiến này không chỉ đáp ứng nhu cầu học tập
của cá nhân (giúp người học vận dụng lý thuyết hiệu quả hơn) mà còn phù hợp với nhu
cầu xã hội (các tổ chức khuyến khích năng lực sáng tạo thông qua các cơ hội thực hành),
cũng như nhu cầu cải cách giáo dục của Nhà nước (điều chỉnh nội dung và phương pháp
giảng dạy). Khi các phương pháp cải cách giáo dục được thực hiện dựa trên việc đánh giá
đúng tiềm năng và hạn chế, sẽ tạo niềm tin vào hiệu quả của những đổi mới. Điều này
cũng nhận được sự ủng hộ từ xã hội, và trong quá trình thực hiện, nếu xảy ra sai sót, mọi
người sẽ có quyết tâm khắc phục để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Bên cạnh đó, cần đặc biệt tránh bệnh chủ quan duy ý chí và thái độ bảo thủ, trì trệ.
Bệnh chủ quan duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố chủ quan,
cường điệu ý chí và sáng tạo mà không dựa trên thực tế, dẫn đến việc xa rời hiện thực.
Các nhà giáo dục cần tôn trọng nguyên tắc khách quan, bởi nếu chỉ dựa vào ý chí chủ
quan mà không xét đến thực trạng khách quan, giáo dục sẽ rơi vào tình trạng bảo thủ, trì
trệ, không đổi mới, không đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Khi phân tích các vấn đề xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, cần chú trọng cả điều
kiện vật chất lẫn nhân tố tinh thần, bao gồm yếu tố khách quan và chủ quan. Một hiện lOMoAR cPSD| 22014077
tượng đáng chú ý trong giáo dục hiện nay là sự chênh lệch về trình độ giữa học sinh dân
tộc thiểu số và mặt bằng chung của cả nước. Thực trạng này cần được đánh giá cả ở khía
cạnh điều kiện vật chất và các yếu tố chủ quan.
Về điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị dạy học ở nhiều vùng dân tộc thiểu
số còn rất thiếu thốn, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Bên cạnh đó,
chính sách đãi ngộ đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ở những khu vực này chưa
đủ sức hấp dẫn cả về vật chất lẫn tinh thần, khiến việc thu hút nhân lực giỏi gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, yếu tố chủ quan cũng đóng vai trò quan trọng. Ở một số địa phương, nhận
thức của một bộ phận người dân về vai trò của giáo dục còn hạn chế, ảnh hưởng đến thái
độ học tập của học sinh. Những vấn đề này đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, vừa
cải thiện cơ sở vật chất, vừa nâng cao nhận thức, tạo động lực và cơ hội học tập cho học
sinh dân tộc thiểu số, qua đó góp phần thu hẹp khoảng cách giáo dục và thúc đẩy sự phát triển toàn diện.
* Vận dụng trong công cuộc đổi mới đất nước.
Sau đại dịch Covid-19, đất nước nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế -xã
hội trầm trọng, cụ thể nước giảm sâu, từ 6-7%/năm “Tăng trưởng GDP của đất
của các năm trước, năm 2020, chỉ còn đạt 2,93%, 9 tháng đầu năm 2021, chỉ đạt 1,47%
(Quý III năm 2021, do đợt dịch COVID-19 thứ tư bùng phát mạnh, tăng trưởng kinh tế
giảm -6,17%), triển vọng cả năm 2021, tăng trưởng GDP của đất nước được dự báo cũng
ở mức trên, dưới 2%...” Xuất phát từ thực tiễn khách quan, nhìn nhận hậu quả do đại
dịch để lại, cho thấy đây là thời điểm để xây dựng các chính sách phục hồi và phát triển
kinh tế, như thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đầu tư
vào hệ thống y tế dự phòng, và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Các chính sách
này cần tập trung vào việc cải thiện cơ sở vật chất, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân
vượt qua khó khăn, đồng thời hướng tới phát triển bền vững trong dài hạn.
Bên cạnh đó, ý thức đóng vai trò định hướng và thúc đẩy sự thay đổi của vật chất. Tư
duy đổi mới, sáng tạo và tinh thần quyết đoán của lãnh đạo Đảng và Nhà nước là nhân
tố then chốt trong việc đưa ra các chính sách phù hợp với thực tiễn sau đại dịch. Cụ thể,
chương trình phục hồi kinh tế xã hội giai đoạn 2022–2023 với các gói hỗ trợ tài chính lớn
là minh chứng cho sự phản ánh đúng thực tế khách quan. Ngoài ra, ý thức trách nhiệm
xã hội cũng cần được nâng cao trong cộng đồng, từ việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ môi
trường đến tinh thần đoàn kết và sáng tạo của người dân. Khi mỗi cá nhân, tổ chức đều
có ý thức chung tay giải quyết khó khăn, sự thay đổi về vật chất sẽ diễn ra nhanh chóng
và hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy sự phục hồi và phát triển của đất nước. lOMoAR cPSD| 22014077
Cuối cùng, cần tránh bệnh chủ quan duy ý chí và thái độ bảo thủ, trì trệ trong công tác
quản lý và điều hành. Các chính sách và giải pháp cần được xây dựng dựa trên sự phân
tích đúng thực trạng, lắng nghe ý kiến từ các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân,
đảm bảo tôn trọng nguyên tắc khách quan và linh hoạt trong thực hiện. Đồng thời, cần
có sự kết hợp hài hòa giữa cải thiện điều kiện vật chất (đầu tư vào y tế, giáo dục, kinh tế)
và nâng cao ý thức xã hội (trách nhiệm, tinh thần sáng tạo, đoàn kết). Chỉ khi nào vật chất
và ý thức được gắn kết chặt chẽ, chúng ta mới có thể vượt qua những khó khăn, tận dụng
cơ hội và thúc đẩy đất nước phát triển mạnh mẽ, bền vững trong bối cảnh hậu Covid-19.
2. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến.
Theo quan điểm biện chứng, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ
thuộc, quy định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ
phận cấu thành nên sự vật, hiện tượng; giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật,
hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo
sự biến đổi của sự vật hiện tượng khác.
Ví dụ: Hệ sinh thái là minh chứng cho mối liên hệ phổ biến, nơi mọi loài đều tác động và phụ thuộc vào nhau.
Tính chất của mối liên hệ bao gồm các yếu tố sau:
- Tính khách quan: xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới.
Sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú như thế nào thì chúng cũng chỉ là những dạng
cụ thể khác nhau của một dạng vật chất duy nhất. Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân
các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý
thức của cong người, dù muốn hay không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay
các mặt, bộ phận của chúng đều luôn chứa đựng các mối liên hệ.
VD: Nước có thể tồn tại dưới các dạng khác nhau như lỏng, rắn (băng) hay hơi. Dù ở dạng
nào, nó vẫn là một dạng vật chất duy nhất và các mối liên hệ giữa các phân tử nước luôn
tồn tại, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến: mỗi một sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có
sự vật, hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác.
Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
VD: Một chiếc ô tô không thể hoạt động độc lập mà phải liên kết với động cơ, bánh xe,
nhiên liệu và các bộ phận khác để vận hành.
- Tính đa dạng phong phú: xuất phát từ sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật
chất. Mỗi một mối liên hệ lại có những đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn
tại, vận động, phát triển riêng của sự vật, hiện tượng. lOMoAR cPSD| 22014077
VD: Hệ sinh thái rừng có mối liên hệ giữa các loài động vật, thực vật và vi sinh vật, mỗi
loài có vai trò riêng. Cây cối tạo ra oxy, động vật duy trì sự cân bằng sinh học, và vi sinh
vật phân hủy chất hữu cơ, mỗi mối liên hệ này đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển và tồn tại của rừng.
Khoa học đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấuthành quyết định.
VD: Một chiếc máy tính hoạt động nhờ vào sự liên kết giữa các yếu tố như phần cứng (bộ
vi xử lý, bộ nhớ) và phần mềm (hệ điều hành, ứng dụng). Cách thức liên hệ giữa các yếu
tố này quyết định phương thức tồn tại và hiệu suất hoạt động của máy tính.
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do sự tác động qua lại giữa các yếu tốcấu
thành quyết định, mà trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
VD: Quá trình quang hợp ở cây diễn ra theo hai pha (pha sáng và pha tối) giúp cây phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận: nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và
thực tiễn cần tuân theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
* Quan điểm toàn diện yêu cầu: -
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét đến tất cả các mặt, các mối
liênhệ, kể cả những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định. -
Trong vô vàn các mối liên hệ đó, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu
(nhữngmối liên hệ trọng tâm, trọng điểm) để nắm bắt bản chất của các sự vật, hiện tượng. -
Sau khi nắm bắt được bản chất thì cần phải đối chiếu với các mối liên hệ khác để
tránhsai lầm trong nhận thức. -
Cần chống lại cách xem xét phiến diện, chủ quan (chỉ thấy một mặt mà không
thấynhiều mặt, chỉ thấy mối liên hệ này mà không thấy mối liên hệ khác). -
Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải các mối liên hệ (coi mọi mối liên hệ là nhưnhau) -
Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bảnthành cái cơ bản)
* Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu: -
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh, lịch
sử cụ thể; trong điều kiện, môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian lOMoAR cPSD| 22014077
nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất
định; trong từng hệ tọa độ nhất định. -
Cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác
nhauphải giải quyết trong thực tiễn. -
Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thểnhất định.
* Vận dụng công cuộc đổi mới đất nước.
Đất nước ta giành độc lập vào năm 1975 nhưng hậu quả chiến tranh để lại quá mức
nặng nề nên mãi đến tận sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta mới thực
sự bước vào thời kì xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay, trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi đất nước ta phải có những nhận định
đúng đắn về thời cuộc cũng như có những chính sách phù hợp để phát triển đất nước. Vì
thế, việc vận dụng nguyên lý mối quan hệ phổ biến trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp định hướng xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều phương diện.
Xét về khía cạnh kinh tế, qua hơn 38 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực và toàn diện “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc
hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở
mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.” [1]
Giáo dục và đào tạo có nhiều đổi mới, vận dụng sáng tạo khoa học và kĩ thuật hiện đại,
công tác giảng dạy vì thế được đẩy mạnh. Tuy nhiên, nền giáo dục tiên tiến vẫn chưa thực
sự hiệu quả, chưa chú trọng vào nâng cao trình độ và phẩm chất người học.
Khoa học - công nghệ được chú trọng phát triển và vận dụng sáng tạo vào đời sống.
Nhà nước ta có nhiều chính sách quản lý, đầu tư cho lĩnh vực tiềm năng này, góp phần
thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Về khía cạnh văn hóa - xã hội, nền văn hóa dân tộc được giữ gìn, kế thừa và phát huy,
bên cạnh đó, việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại cũng khiến nền văn hóa trở nên
đa dạng nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Các chế độ phúc lợi an sinh xã hội ngày càng
được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
[1] Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, NXB
Chính trị quốc gia – Sự thật.
3. Nguyên lý về sự phát triển. VẬN DỤNG lOMoAR cPSD| 22014077
4. Quy luật lượng chất
5. Quy luật mâu thuẫn
1. Vận dụng quy luật mâu thuẫn vào đời sống học tập của sinh viên.
*Trong cuộc sống: Vấn đề tài chính
Mâu thuẫn luôn luôn hiện hữu nên nó đòi hỏi con người luôn phải trau dồi tri thức để có
khả năng ứng biến, giải quyết vấn đề phát sinh trong đời sống. Việc vận dung quy luật
mâu thuẫn vào việc quản lý tài chính giúp sinh viên nhận thức rõ hơn về các hành động,
quyết định liên quan đến tiền bạc, từ đó tránh rơi vào tình trạng mâu thuẫn giữa mục tiêu
tài chính và hành vi thực tế. Sinh viên cần phân bổ thu nhập (tiền trợ cấp gia đình, làm
thêm…) sao cho hợp lý với các khoản chi tiêu như chi phí sinh hoạt, học phí và tiết kiệm
để từ đó kiểm soát chi tiêu, đảm bảo không vượt quá, hoặc thiếu hụt chi tiêu. Ngoài ra nếu
khoản thu nhập không đảm bảo đủ chi tiêu, sinh viên có thể kiếm thêm thu nhập từ các
công việc bán thời gian, học bổng hoặc các khoản hỗ trợ sinh viên để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của bản thân. Nếu như thu nhập có sự biến động, sinh viên cần có sự điều chỉnh chi
tiêu sao cho phù hợp với thu nhập để tránh trường hợp rơi vào khủng hoảng tài chính. Mặc
dù vậy, chúng ta vẫn đang trải qua thời kì có nhiều nhu cầu khám phá thế giới, có ý kiến
cho rằng sinh viên nên tận hưởng cuộc sống hiện tại, chi tiêu cho các hoạt động du lịch,
giải trí để giảm căng thẳng sau giờ học, cũng có ý kiến cho rằng sinh viên nên tiết kiệm
để phục vụ cho các mục tiêu dài hạn, phát triển bản thân hoặc tích góp tài chính sau khi
ra trường. Tuy nhiên sinh viên vẫn có thể cân bằng cả hai nhu cầu này nếu như có kế hoạch thu chi hợp lý.
*Trong học tập:
Quá trình tiếp thu kiến thức của sinh viên cũng là một quá trình tăng trưởng tri thức và áp
dụng tri thức vào thực tiễn, cho nên quá trình này cũng chịu sự tác động của quy luật mâu
thuẫn. Điển hình là trong bối cảnh công nghệ số lên ngôi, công tác giáo dục có nhiều cải
tiến, nhiều sinh viên năm nhất cho rằng lượng kiến thức ở đại học quá lớn, khó tiếp thu và
vận dụng vào đời sống. Áp dụng quy luật mâu thuẫn để giải quyết vấn đề này, đầu tiên ta
cần phải xác định được nhu cầu học tập là nguồn gốc phát sinh ra mâu thuẫn để từ đó xem
xét, tìm ra cách giải quyết mâu thuẫn (tìm tòi thêm tài liệu trên những kênh thông tin chính
thống để học tập, tra cứu những kiến thức mới để nghiên cứu thêm…). Đồng thời sinh
viên cũng cần nhất quán mục tiêu học tập và vượt qua xao nhãng, lười biếng để trau dồi
tri thức, phát triển bản thân.
6. Quy luật phủ định của phủ định 9. Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX với QHSX
9.1. Khái niệm và vai trò của PTSX lOMoAR cPSD| 22014077
- Khái niệm PTSX dùng để chỉ cách thức mà con người sử dụng để thực hiện quá trìnhsản
xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Phương thức SX với tính cách là một chỉnh thể thống nhất, có thể tiếp cận đến nó từhai
phương diện (“lát cắt”) sau đây:
+ Thứ nhất, về mặt kinh tế - kỹ thuật, tức là xem xét phương thức sản xuất từ trình độ kĩ
thuật của nền sản xuất thì phương thức sản xuất biểu hiện là LLSX (cách thức sản xuất).
+ Thứ hai, về mặt kinh tế - xã hội, tức là xem xét phương thức sản xuất từ mối quan hệ
giữa người và người trong quá trình sản xuất thì phương thức sản xuất biểu hiện là quan
hệ sản xuất (cách thức quan hệ giữa người và người)
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của cùng một phương thức sản xuất
- Vai trò của phương thức sản xuất:
+ Phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội
+ Trong các xã hội có giai cấp, phương thức sản xuất quyết định kết cấu giai cấp
+ Phương thức sản xuất quyết định vị trí vai trò, sứ mệnh lịch sử của các giai cấp
+ Phương thức sản xuất quyết định tương quan lực lượng giữa các giai cấp;
+ Phương thức sản xuất quyết định mọi mặt của đời sống xã hội.
Do vậy, phương thức sản xuất quyết định lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch
sử nối tiếp nhau của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
9.2. Quy luật quan hệ SX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX Khái
niệm và kết cấu của LLSX và QHSX:
Khái niệm và kết cấu của LLSX:
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, khẳng
địnhkhả năng chinh phục giới tự nhiên của con người
- LLSX là toàn bộ các nhân tố vật chất, kĩ thuật của QTSX, chúng tồn tại trong mối quanhệ
biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biển các đối tượng trong quá trình sản
xuất vật chất, tức là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới
tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
- LLSX bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất; trong tư liệu SX gồm có tư liệu
laođộng và đối tượng lao động; trong tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và phương tiện lao động lOMoAR cPSD| 22014077
- Người lao động thể hiện ở ý thức, phẩm chất và trình độ về trí tuệ, chuyên môn, taynghề,
kĩ năng, kinh nghiệm… của mình
- Đối tượng lao động là một phần của giới tự nhiên được con người tác động tới trongquá
trình lao động. Đối tượng lao động bao gồm đối tượng lao động có sẵn và đối tượng lao
động nhân tạo. Đối tượng lao động có sẵn là những đối tượng tự có trong giới tự nhiên;
còn đối tượng lao động nhân tạo là những đối tượng được con người tạo ra trong QTSX,
nó biểu hiện dưới dạng nguyên, nhiên, vật liệu, bán phẩm.
Trong tư liệu lao động thì phương tiện lao động là những phương tiện dùng để vận chuyển
và bảo quản sản phẩm; còn công cụ lao động là những vật thể được con người sử dụng để
tác động vào đối tượng lao động, nó đóng vai trò là “sợi dây nối” giữa con người và đối tượng lao động.
Để làm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, đối tượng lao động ngày càng
được mở rộng và công cụ lao động ngày càng được cải tiến, hoàn thiện hơn. Do đó, công
cụ lao động đã trở thành yếu tố năng động nhất trong tư liệu SX.
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất, quyết
định sự phát triển nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng SX trực tiếp của xã hội.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học ngày
càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. C.Mác dự báo
rằng, khoa học sẽ trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”
Quả thật, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng SX trực tiếp của xã hội, những thành
tựu của khoa học được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi vào sản xuất, có tác động thúc đẩy
mạnh mẽ sản xuất phát triển. Nền sản xuất đã được khoa học hóa, khoa học đã thâm nhập
vào từng ngõ ngách, từng “tế bào” của quá trình SX. Ngược lại, khoa học thì đã được vật
chất hóa, nghĩa là nó trở thành lực lượng vật chất, khoa học làm thay đổi tính chất của lao
động, khoa học đã tạo ra những vật liệu mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và đời sống xã hội.
Tóm lại, trình độ của LLSX biểu hiện ở những yếu tố cơ bản sau:
- Thứ nhất, trình độ trí tuệ, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của người laođộng
- Thứ hai, trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học vào SX
- Thứ ba, trình độ tổ chức, quản lý SX lOMoAR cPSD| 22014077
- Thứ tư, trình độ phân công lao động- Thứ năm, trình độ của các công cụ lao động * Khái
niệm và kết cấu của quan hệ SX:
- Quan hệ SX biểu hiện mqh giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất vàtái sản xuất xã hội)
Quan hệ SX là “bộ sườn”, “bộ khung” của hình thái kinh tế- xh, là quan hệ kinh tế cơ bản,
quyết định tất cả mối quan hệ khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội với nhau
Quan hệ SX bao gồm: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu SX; quan hệ trong tổ chức và
quản lí SX; quan hệ trong phân phối sản phẩm.
Quan hệ SX là hình thức xã hội của quá trình SX và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần
xã hội. Ba mặt hợp thành QHSX gắn bó hữu cơ với nhau tạo thành một hệ thống mang
tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của LLSX, trong đó QH sở hữu
về tư liệu SX giữ vai trò quyết định, các mặt còn lại cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.
- Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất. Quan hệ sở hữu đối với TLSX quyết định trực tiếp địa vị của các tập đoàn người
trong xã hội. Cụ thể là, tập đoàn người nào, giai cấp nào có quyền sở hữu về TLSX thì giữ
địa vị thống trị xã hội; ngược lại, tập đoàn người nào, giai cấp nào không có quyền sở hữu
về TLSX thì bị thống trị trong xã hội.
Đến lượt mình, địa vị của các tập đoàn người lại quy định cách thức tổ chức, quản lý sản
xuất, cũng như các nguyên tắc phân phối sản phẩm. Cụ thể là, tập đoàn người nào, giai
cấp nào giữ địa vị thống trị thì bằng quyền lực thống trị của mình thiết lập nên bộ máy
nhà nước và xây dựng nên hệ thống luật pháp, chính sách về tổ chức, quản lý SX, cũng
như các nguyên tắc phân phối sản phẩm. Ngược lại, tập đoàn người nào, giai cấp nào giữ
địa vị bị thống trị thì buộc phải phục tùng hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách về tổ
chức, quản lí sản xuất, cũng như các nguyên tắc phân phối sản phẩm do giai cấp thống trị thiết lập nên.
Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người tồn tại hai loại hình sở
hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.
- Về quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất
Quan hệ tổ chức, quản lý SX quyết định trực tiếp quy mô, tốc độ, nhịp độ phát triển của
nền SX xã hội. Đặc biệt, quan hệ này ngày càng trở nên quan trọng trong thời đại ngày
nay, khi các quan hệ quản lý đang phát triển hết sức mạnh mẽ.
- Về quan hệ phân phối sản phẩm lOMoAR cPSD| 22014077
Quan hệ phân phối sản phẩm liên quan trực tiếp đến lợi ích của con người, cho nên nó
đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
Tuy nhiên, lợi ích đóng vai trò là động lực khi và chỉ khi nó nằm trong mối quan hệ thống
nhất giữa các cấp độ lợi ích và các loại hình lợi ích. Vì vậy, trong nhận thức và thực tiễn
không được tuyệt đối hóa bất kỳ một mặt nào, mà cần phải xem xét chúng trong sự thống nhất với nhau.
Sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa LLSX và quan hệ SX hình thành nên quy luật
quan hệ SX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
* Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
Lực lượng SX và QHSX thống nhất biện chứng với nhau, hình thành nên quy luật quan
hệ SX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, trong đó lực lượng sản xuất quyết định
sự hình thành, biến đổi và phát triển của QHSX, đồng thời, QHSX có sự tác động trở lại đối với LLSX.
Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX:
Trong quá trình sản xuất, để làm thỏa mãn nhu cầu tiết kiệm thời gian và giảm bớt sự chi
phí, tiêu hao năng lượng, thần kinh, cơ bắp thì các công cụ lao động ngày càng được cải
tiến và hoàn thiện. Đồng thời với quá trình ấy, người lao động cũng ngày càng phát triển
với trình độ trí tuệ, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của mình.
Như vậy, LLSX trở thành yếu tố năng động nhất, thường xuyên nhất biến đổi, còn QHSX mang tính ổn định hơn.
Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với QHSX cũ, QHSX cũ
trở thành chướng ngại vật cản trở sự phát triển của LLSX.
Theo tính tất yếu khách quan, mâu thuẫn ấy được giải quyết bằng cách: QHSX cũ bị xóa
bỏ và được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, báo hiệu
phương thức SX mới ra đời.
Cứ như vậy, sự tác động của nó đã làm cho lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch
sử nối tiếp nhau của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
Ví dụ: Cách mạng tư sản ở Anh (1642 – 1651), ở Pháp (1789 – 1799) đã xóa bỏ phương
thức sản xuất phong kiến và thay bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa * Sự tác
động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Sở dĩ quan hệ sản xuất có sự tác động trở lại đối với LLSX, vì QHSX quy định mục đích
của QTSX. Do đó QHSX ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, lòng nhiệt tình và khả năng sáng lOMoAR cPSD| 22014077
tạo của người lao động. Vì vậy, QHSX có thể làm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển.
Ngược lại, nếu QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Tuy nhiên, sự kìm hãm ấy cũng chỉ mang tính chất tạm thời, bởi vì sự vật bao giờ cũng
vận động theo các quy luật khách quan vốn có của nó, cho nên QHSX không phù hợp nhất
định sẽ bị xóa bỏ và được thay thế bằng một QHSX mới cho phù hợp, thúc đẩy nền sản
xuất xã hội phát triển
Sự tác động của QHSX đối với LLSX thể hiện ở cả ba mặt của QHSX. VÍ DỤ: (tăng điểm) 1.
Sở hữu: Trong xã hội phong kiến, đất đai thuộc sở hữu của địa chủ, nông dân không
có quyền sở hữu, dẫn đến thiếu động lực cải tiến sản xuất. Ngược lại, trong tư bản chủ
nghĩa, tư hữu về tư liệu sản xuất khuyến khích đầu tư máy móc, thúc đẩy LLSX. 2.
Tổ chức quản lý: Ở chế độ nô lệ, tổ chức sản xuất cưỡng bức khiến năng suất thấp.
Trong tư bản, quản lý chuyên môn hóa và sản xuất dây chuyền giúp LLSX phát triển vượt bậc. 3.
Phân phối sản phẩm: Phong kiến chiếm đoạt sản phẩm qua tô thuế, nông dân làm
cầm chừng. Trong xã hội chủ nghĩa, phân phối theo lao động khuyến khích sáng tạo, nâng cao năng suất. VẬN DỤNG * Lĩnh vực y tế:
Vận dụng quy luật biện chứng giữa LLSX và QHSX trong lĩnh vực y tế tại Việt
Nam thời kỳ COVID-19
Trong thời kỳ COVID-19, Việt Nam đã vận dụng hiệu quả quy luật biện chứng giữa
lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX), đặc biệt qua ba mặt: sở hữu, tổ
chức quản lý, và phân phối sản phẩm.
Về sở hữu, Việt Nam đã chủ động hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ sản xuất
vaccine như Sputnik V và NanoCovax, giúp tăng cường năng lực tự chủ y tế. Đồng thời,
Việt Nam còn đẩy mạnh nghiên cứu trong nước, phát triển các bộ kit xét nghiệm đạt tiêu
chuẩn quốc tế, tận dụng tri thức và năng lực khoa học công nghệ sẵn có.
Về tổ chức quản lý, chính phủ đã triển khai chiến lược 5K + vaccine + công nghệ, kết
hợp xét nghiệm diện rộng, xây dựng bệnh viện dã chiến và áp dụng các ứng dụng công
nghệ như Sổ sức khỏe điện tử để quản lý tiêm chủng. Nhờ tổ chức khoa học, đến cuối năm lOMoAR cPSD| 22014077
2021, Việt Nam đã tiêm hơn 150 triệu liều vaccine, đưa tỷ lệ bao phủ vaccine lên hàng đầu khu vực.
Về phân phối sản phẩm, vaccine được cung cấp miễn phí và ưu tiên cho các nhóm nguy
cơ cao như nhân viên y tế, lực lượng tuyến đầu và người cao tuổi, đảm bảo công bằng xã hội.
Sự tương thích giữa LLSX (trình độ khoa học, công nghệ y tế) và QHSX (chính sách
hợp lý) đã giúp Việt Nam kiểm soát dịch bệnh, giảm thiểu tử vong và tạo nền tảng vững
chắc cho phục hồi và phát triển kinh tế.
* Lĩnh vực giáo dục:
Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đã thể hiện sự vận dụng linh hoạt quy luật biện
chứng giữa lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX) để thích ứng với
những thách thức do đại dịch COVID-19.
Về mặt sở hữu, khi công nghệ thông tin và các nền tảng học trực tuyến (như Zoom,
Microsoft Teams, Google Classroom) ngày càng phát triển, chính phủ và các trường học
đã tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có để triển khai phương thức dạy và học trực tuyến. Việt
Nam cũng phát triển các nền tảng giáo dục trong nước như VNEdu và K12Online, giúp
giảm sự phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài và tăng cường tính tự chủ.
Về tổ chức quản lý, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kịp thời ban hành chính sách chuyển
đổi từ dạy trực tiếp sang trực tuyến, đồng thời hướng dẫn các trường học tổ chức kiểm tra,
đánh giá phù hợp với điều kiện mới. Các địa phương cũng chủ động huy động nguồn lực
xã hội để hỗ trợ thiết bị học tập cho học sinh khó khăn, đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục.
Về mặt phân phối sản phẩm, các chương trình như "Sóng và máy tính cho em" đã cung
cấp hàng trăm ngàn máy tính và hỗ trợ kết nối internet miễn phí cho học sinh ở vùng sâu,
vùng xa, thu hẹp khoảng cách số trong giáo dục. Sự kết hợp hài hòa giữa LLSX (công
nghệ thông tin, đội ngũ giáo viên) và QHSX (chính sách hỗ trợ, tổ chức dạy học linh hoạt)
đã giúp giáo dục Việt Nam vượt qua khó khăn, duy trì việc học tập cho hàng triệu học sinh
và tạo nền tảng cho chuyển đổi số trong giáo dục.
* Lĩnh vực kinh tế:
Hiện nay, Việt Nam đang vận dụng hiệu quả quy luật biện chứng giữa lực lượng sản
xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX) để thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Về mặt sở hữu, Việt Nam đã thúc đẩy đa dạng hóa sở hữu trong nền kinh tế, kết hợp
giữa khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Kinh tế tư nhân hiện chiếm hơn 40% GDP, trong khi khu vực FDI đóng góp khoảng 23%
GDP và hơn 70% giá trị xuất khẩu. Điều này đã giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và sức
cạnh tranh của nền kinh tế, khi các doanh nghiệp tư nhân và FDI đầu tư công nghệ hiện lOMoAR cPSD| 22014077
đại vào các ngành trọng điểm như sản xuất ô tô, công nghệ cao và nông nghiệp thông minh.
Về tổ chức quản lý, chính phủ đã cải cách mạnh mẽ hệ thống quản lý kinh tế, đặc biệt
là trong chuyển đổi số, hướng đến phát triển kinh tế số, với mục tiêu chiếm 20% GDP vào
năm 2025 (Theo nội dung Đại hội lần thứ XIII). Các chính sách khuyến khích ứng dụng
công nghệ 4.0 trong sản xuất và thương mại điện tử đã giúp các doanh nghiệp Việt tối ưu
hóa quy trình sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Về mặt phân phối sản phẩm, các chương trình hỗ trợ người lao động và đào tạo kỹ
năng lao động đã giúp giảm bất bình đẳng xã hội và nâng cao thu nhập bình quân đầu
người, từ 2.000 USD năm 2015 lên hơn 4.500 USD năm 2023. Các chính sách đầu tư
vào vùng sâu, vùng xa cũng đã góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực.
Nhờ sự kết hợp hài hòa giữa LLSX và QHSX, Việt Nam không chỉ duy trì tốc độ tăng
trưởng ổn định mà còn hướng đến phát triển kinh tế bền vững, công bằng và hiện đại, phù
hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0.
12. Đấu tranh giai cấp:
1. Định nghĩa giai cấp
Quan điểm phi Mác-xít Định nghĩa của Lênin về GC
- Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp: “…GC là những
tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ
các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội (KT-XH) nhất định.”
- Đặc trưng chung nhất của GC: Giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị KTXH
khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội (SXXH) nhất định.
- Sự khác nhau về địa vị của các GC trong hệ thống SX là do: + Thứ nhất, khác nhau về
quan hệ sở hữu (QHSH) đối với TLSX + Thứ hai, khác nhau về tổ chức, quản lý sản xuất.
+ Thứ ba, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập của cải XH.
Lênin đã dựa vào QHSX để định nghĩa GC. Nguồn gốc giai cấp:
- Nguồn gốc sâu xa của sự xuất hiện GC: sự phát triển của LLSX làm cho năng suất
laođộng tăng lên, xuất hiện “của dư”, tạo điều kiện cho tập đoàn người này chiếm đoạt
lao động của tập đoàn người khác. lOMoAR cPSD| 22014077
- Nguồn gốc trực tiếp của sự xuất hiện GC: chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX.
2. Định nghĩa ĐTGC
Quan điểm về ĐTGC của Lênin : “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phân nhân
dân này chống một bộ phân khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị
áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc
đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những
người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
- Thực chất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa bộ phận nhân dân này chống một
bộphận khác, đấu tranh của quần chúng cùng khổ, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền đặc lợi.
- Có nhiều hình thức đấu tranh: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tưtưởng...
Trong thực tế còn có đấu tranh dân tộc, tôn giáo Nguyên nhân của ĐTGC:
- Nguyên nhân sâu xa: LLSX >< QHSX trong lòng PTSX.
- Nguyên nhân trực tiếp: GC bị trị >< GC thống trị về lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinhtế.
Mâu thuẫn giữa một bên là GC tiến bộ, cách mạng, đại diện cho PTSX mới với một bên
là GC thống trị, bóc lột đại biểu cho PTSX lỗi thời, lạc hậu.
ĐTCM (Tính tất yếu và thực chất của ĐTGC trong giai đoạn hiện nay – Hỏi thì mới trả lời).
3. Vai trò của ĐTGC trong sự phát triển của các XH có GC -
Thứ nhất, kết cục của ĐTGC, đó là mâu thuận giữa LLSX và QHSX được giải
quyết,QHSX cũ bị mất đi được thay thế bằng QHSX mới, cơ sở hạ tầng (CSHT) mới ra
đời, kiến trúc thượng tầng (KTTT) mới xuất hiện, làm cho mọi mặt của đời sống SX phát
triển, từ đó thúc đẩy cho sự phát triển của XH. -
Thứ hai, ĐTGC lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với quá trình
đó,kết cấu XH-GC cũ bị xóa bỏ, kết cấu XH-GC mới được hình thành làm cho XH phát triển. -
Thứ ba, đấu tranh giai cấp không chỉ góp phần xóa bỏ thế lực phản động lạc hậu,
màcòn đồng thời có tác dụng cải tạo bản thân các GC cách mạng (CM) và quần chúng
CM, GC đó sẽ lãnh đạo CM và thúc đẩy XH phát triển. -
Thứ tư, ĐTGC không chỉ là đòn bẩy của LS trong thời kì CM, mà còn là động lực
pháttriển của XH ngay cả trong thời kì “hòa bình” của XH có GC. Trong tiến trình phát
triển của LLSX, CM khoa học – công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ XH…không
tách rời khỏi cuộc ĐTGC tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế lực thù địch phản động lOMoAR cPSD| 22014077
4. Tính tất yếu và thực chất của ĐTGC trong giai đoạn hiện nay
ĐTGC là một tất yếu không chỉ dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), mà ngay cả trong thời kì quá độ (TKQĐ).
- Dưới CNTB, ĐTGC vẫn là một tất yếu, bỏi vì:
+ Mâu thuẫn cơ bản giữa CNTB là mâu thuẫn giữa LLSX ngày càng mang tính XH hóa
và QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX vẫn chưa được giải quyết. Biểu
hiện về mặt XH là mâu thuẫn giữa GC công nhân và GC tư sản – mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa.
+ Hơn nữa, nhiều vấn đề XH nan giải không thể giải quyết. Đặc biệt, bản chất của
CNTB là một chế độ áp bức, bóc lột.
- TKQĐ lên chủ nghĩa XH (CNXH), ĐTGC vẫn là một tất yếu, bởi vì:
+ Thứ nhất, trong TKQĐ lên CNXH vẫn tồn tại cơ sở KT làm phân hóa XH thành GC,
đó là nền KT vận hành theo cơ chế thị trường, nên bên cạnh mặt tích cực còn có mặt hạn
chế – sự phân hóa XH thành giàu, nghèo.
+ Thứ hai, các thế lực phản động luôn rắp tâm mưu đồ giành giật lại chính quyền mà chúng đã bị mất.
+ Thứ ba, vẫn tồn tại những tàn dư của XH cũ để lại.
+ Thứ tư, trong nền KT mở cửa, bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu cực, đó là sự du
nhập của những yếu tốt ngoại lai không phù hợp.
+ Thứ năm, các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực phản động quốc
tế sử dụng “Diễn biến hòa bình” chống lại thành quả cách mạng của nhân dân… Đấu
tranh GC hơn bao giờ hết vẫn là một tất yếu.
15. Hiện tượng tha hóa con người
1. Định nghĩa về sự “tha hóa”
- “Tha hóa” có mầm mống trong tư tưởng Triết học của J.Rousseau.
- Định nghĩa (Theo J.Rousseau): sự tha hóa đất nước, từ chỗ là nhà nước của dân, do dân
và vì dân đến chỗ trở thành công cụ để đàn áp nhân dân, nô dịch nhân dân.
- Định nghĩa (Theo C.Mác & Ph.Ăngghen): quá trình lao động và sản phẩm của lao động
từ chỗ để phục vụ con người, để phát triển con người đã bị biến thành lực lượng đối lập,
nô dịch và thống trị con người.
2. Biểu hiện của lao động bị tha hóa: