Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyếtđịnh ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.

Thông tin:
6 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức - Triết học Mác - Lênin | Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyếtđịnh ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.

44 22 lượt tải Tải xuống
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết
định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ
là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất trong
xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết
quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc
nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được
dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản
chất của ý thức.
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý
thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào
vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ
hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc
sống con người.
-Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có thể quyết
định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra
hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người
xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai
hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
-Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi
mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
-Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy định của
những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các
chủ thể hoạt động.
2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
23:56 9/8/24
Triết 1,2 - ly thuyet
about:blank
1/6
-Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức, hành động, chủ trương, đường
lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh
chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược
cách mạng.
-Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ
động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò
của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị
lực của bản thân.
-Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội
dựa trên thái độ khách quan.
3. Vận dụng vào học tập và cuộc sống của bản thân tôi.
-Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát từ thực tế
khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống
của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu, những yếu
tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ
giảng viên đề ra.
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh
để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản
thân, gia đình và cộng đồng.
-Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, sáng tạo
của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng những kỹ năng
cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ
mới lạ.
Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh dấu những
chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn
bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra
để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ
chức xã hội.
Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua việc đọc
sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
-Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ, không chủ quan
trước mọi tình huống.
Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các thành viên góp ý
cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần, tôi không chủ quan vào năng
lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân không kham nổi.
Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó và lắng nghe những
đánh giá của những người xung quanh về người đó, không thể chủ quan “trông mặt mà bắt hình dong”,
không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.
23:56 9/8/24
Triết 1,2 - ly thuyet
about:blank
2/6
3.2. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
3.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm:
-Mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau.
-Có nhiều loại liên hệ, trong đó có loại liên hệ chung nhất. Đây là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
-Mối liên hệ phổ biến: là mối liên hệ chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của toàn bộ thế giới khách quan (bao gồm cả
tự nhiên, xã hội và tư duy).
b. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Quan điểm siêu hình: sự vật và hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia: giữa chúng
không sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang
tính ngẫu nhiên.
Quan điểm biện chứng:
Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau.
Cơ sở của sự tồn tại đa dạng các mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Các sự vật, hiện tượng phong phú trong thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất
duy nhất. Vì thế, trong thế giới không có sự vật nào tồn tại cô lập, tách rời, không liên hệ với các sự vật khác,
trái lại đều liên hệ với
nhau theo một phương thức nào đó và tạo nên một hệ thống chằng chịt những liên hệ của thế giới.
c. Tính chất của mối liên hệ phổ biến
-Tính khách quan: mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, tồn tại bên ngoài con
người, không phụ thuộc vào ý thức con người.
-Tính phổ biến: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác, biểu hiện dưới những hình thức
riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau diễn ra ở mọi sự vật, hiện
tương tự nhiên, xã hội, tư duy và diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình.
-Tính đa dạng, phong phú: Mỗi lĩnh vực khác nhau của thế giới tồn tại và biểu hiện những mối liên hệ khác nhau, rất
phong phú và nhiều vẻ. Căn cứ vào đây ta có thể phân chia ra một số mối liên hệ:
+ Mối liên hệ về không gian và thời gian
+ Mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng
+ Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp
+ Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất
+ Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu…
* Chú ý: Sự phân biệt này có tính tương đối, các mối liên hệ có thể chuyển hóa cho nhau. Những liên hệ khác nhau của
sự vật có nội dung và vai trò khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật.
23:56 9/8/24
Triết 1,2 - ly thuyet
about:blank
3/6
d. Ý nghĩa phương pháp luận
Khi nghiên cứu đối tượng cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong
sự thống nhất hữu cơ nội tại để phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối
liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả
các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định.
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt
khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi
vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết
trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
II. Nguyên lý về sự phát triển
1. Sự phát triển
a. Khái niệm
Phát triển là quá trình vận động theo khuynh hướng đi lên diễn ra trong không
gian và thời gian: từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất
cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn
b. Phân biệt “tiến hóa” và “tiến bộ”
- Tiến hóa: diễn ra theo cách từ từ, biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn
giản đến phức tạp
2. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
a. Quan điểm siêu hình: phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định
- Phát triển chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại
mà không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới
- Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì
trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá
trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự
thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín
- Sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục không có những bước quanh co, thăng trầm,
phức tạp
b. Quan điểm biện chứng: đối lập với quan điểm siêu hình
- Phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật, hiện
tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế không phải lúc nào sự phát triển cũng
diễn ra theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời
- Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc, có kế thừa, có sự dường như lặp lại sự vật, hiện
tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn
- Quan điểm biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật,
đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác, đó là quá trình giải quyết
23:56 9/8/24
Triết 1,2 - ly thuyet
about:blank
4/6
liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là quá trình tự thân vận động, phát triển
và chuyển hóa của mọi sự vật
- Trong phép biện chứng duy vật, phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của vận động, nó
chỉ khái quát xu hướng chung của vận động là vận động đi lên của sự vật, hiện tượng mới
trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ
3. Tính chất của sự phát triển
a. Tính khách quan
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ không phải do
tác động tự bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan của con
người
b. Tính phổ biến
Sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy
c. Tính kế thừa
Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô, vì
vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng,
còn thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện
tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục phát triển
d. Tính đa dạng, phong phú
Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau phụ thuộc vào không gian
và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó. Sự tác động đó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi
4. Nguyên tắc phát triển ( ý nghĩa pp luận)
- Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi
của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng
phát triển của nó trong tương lai
- Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác
động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó
- Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó
phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến
- Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện
mới
Tóm lại: Muốn nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu cần
“phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động… trong sự biến đổi của nó”
vận dụng nguyên lí về mối liên hệ phổ biến trong cuộc sống.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử
- cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo
hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta.
23:56 9/8/24
Triết 1,2 - ly thuyet
about:blank
5/6
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với
từng con người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ, thầy cô… thì chúng ta
cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động , thái độ
thoải mái,tự nhiên .Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác
nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp
như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán
xét về phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả , có thể bạn
đó có gương mặt lạnh lùngnhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh
giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài , nhìn nhận họ trên mọi phương diện ,
ở từng thời điểm ,từng hoàn cảnh khác nhau.
Ví dụ như khi xưa anh ta là người xấu ,tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp
chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người
không như xưa , chúng ta cần nhìn nhận anh ta khác đi , có thể cư xử khác trước, có thể giao
tiếp , kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét
chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt .
Khi ta học kém đi , điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười
học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn
23:56 9/8/24
Triết 1,2 - ly thuyet
about:blank
6/6
| 1/6

Preview text:

23:56 9/8/24 Triết 1,2 - ly thuyet
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết
định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
 Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ
là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
 Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật chất trong
xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
 Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết
quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
 Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc
nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
 Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất được
dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
 Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý
thức cũng phải thay đổi theo.
 Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào
vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ
hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
-Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có thể quyết
định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra
hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người
xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
 Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
 Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
-Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi
mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
-Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy định của
những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức about:blank 1/6 23:56 9/8/24 Triết 1,2 - ly thuyet
-Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức, hành động, chủ trương, đường
lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh
chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
 -Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ
động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò
của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
-Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với 
lợi ích tập thể, xã hội
dựa trên thái độ khách quan.
3. Vận dụng vào học tập và cuộc sống của bản thân tôi.
-Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát từ thực tế
khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống
của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu, những yếu
tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh
để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản
thân, gia đình và cộng đồng.
-Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, sáng tạo
của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng những kỹ năng
cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh dấu những
chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn
bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra
để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức xã hội.
Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua việc đọc
sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
-Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ, không chủ quan trước mọi tình huống.
Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các thành viên góp ý
cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần, tôi không chủ quan vào năng
lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân không kham nổi.
Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó và lắng nghe những
đánh giá của những người xung quanh về người đó, không thể chủ quan “trông mặt mà bắt hình dong”,
không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó. about:blank 2/6 23:56 9/8/24 Triết 1,2 - ly thuyet
3.2. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
3.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến  a. Khái niệm:
-Mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau.
-Có nhiều loại liên hệ, trong đó có loại liên hệ chung nhất. Đây là đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
-Mối liên hệ phổ biến: là mối liên hệ chung nhất giữa các sự vật, hiện tượng của toàn bộ thế giới khách quan (bao gồm cả
tự nhiên, xã hội và tư duy).
b. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Quan điểm siêu hình: sự vật và hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia: giữa chúng
không sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Quan điểm biện chứng:
Các sự vật, hiện tượng của thế giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập,
chuyển hóa lẫn nhau, không tách biệt nhau.
Cơ sở của sự tồn tại đa dạng các mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Các sự vật, hiện tượng phong phú trong thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất
duy nhất. Vì thế, trong thế giới không có sự vật nào tồn tại cô lập, tách rời, không liên hệ với các sự vật khác,
trái lại đều liên hệ với
nhau theo một phương thức nào đó và tạo nên một hệ thống chằng chịt những liên hệ của thế giới. c.
Tính chất của mối liên hệ phổ biến
 -Tính khách quan: mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, tồn tại bên ngoài con
người, không phụ thuộc vào ý thức con người.
-Tính phổ biến: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác, biểu hiện dưới những hình thức 
riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau diễn ra ở mọi sự vật, hiện
tương tự nhiên, xã hội, tư duy và diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình.
-Tính đa dạng, phong phú: Mỗi lĩnh vực khác nhau của thế giới tồn tại và biểu hiện những mối liên hệ khác nhau, rất 
phong phú và nhiều vẻ. Căn cứ vào đây ta có thể phân chia ra một số mối liên hệ: +
 Mối liên hệ về không gian và thời gian +
 Mối liên hệ chung và mối liên hệ riêng +
 Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp +
 Mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên +
 Mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất +
 Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu… *
 Chú ý: Sự phân biệt này có tính tương đối, các mối liên hệ có thể chuyển hóa cho nhau. Những liên hệ khác nhau của
sự vật có nội dung và vai trò khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật. about:blank 3/6 23:56 9/8/24 Triết 1,2 - ly thuyet d.
Ý nghĩa phương pháp luận
Khi nghiên cứu đối tượng cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện:
Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó
Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong
sự thống nhất hữu cơ nội tại để phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối
liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả
các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định.
Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt
khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi
vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết
trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào một mối liên hệ phổ biến).
II. Nguyên lý về sự phát triển 1. Sự phát triển a. Khái niệm
Phát triển là quá trình vận động theo khuynh hướng đi lên diễn ra trong không
gian và thời gian: từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất
cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn
b. Phân biệt “tiến hóa” và “tiến bộ”
- Tiến hóa: diễn ra theo cách từ từ, biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp
2. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
a. Quan điểm siêu hình:
phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định
- Phát triển chỉ là sự tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại
mà không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới
- Những người theo quan điểm siêu hình coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì
trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những chất như thế nào thì toàn bộ quá
trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự
thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra trong một vòng khép kín
- Sự phát triển là một quá trình tiến lên liên tục không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp
b. Quan điểm biện chứng: đối lập với quan điểm siêu hình
- Phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua bước nhảy; sự vật, hiện
tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế không phải lúc nào sự phát triển cũng
diễn ra theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời
- Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc, có kế thừa, có sự dường như lặp lại sự vật, hiện
tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn
- Quan điểm biện chứng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật,
đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Nói cách khác, đó là quá trình giải quyết about:blank 4/6 23:56 9/8/24 Triết 1,2 - ly thuyet
liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó cũng là quá trình tự thân vận động, phát triển
và chuyển hóa của mọi sự vật
- Trong phép biện chứng duy vật, phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của vận động, nó
chỉ khái quát xu hướng chung của vận động là vận động đi lên của sự vật, hiện tượng mới
trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ
3. Tính chất của sự phát triển a. Tính khách quan
Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, chứ không phải do
tác động tự bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan của con người b. Tính phổ biến
Sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy c. Tính kế thừa
Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật, hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô, vì
vậy trong sự vật, hiện tượng mới còn giữ lại, có chọn lọc và cải tạo các yếu tố còn tác dụng,
còn thích hợp với chúng, trong khi vẫn gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện
tượng cũ đang gây cản trở sự vật mới tiếp tục phát triển
d. Tính đa dạng, phong phú
Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau phụ thuộc vào không gian
và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó. Sự tác động đó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi
4. Nguyên tắc phát triển ( ý nghĩa pp luận)
- Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi
của nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng
phát triển của nó trong tương lai
- Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác
động phù hợp để hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó
- Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó
phát triển; chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến
- Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới
Tóm lại: Muốn nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên cứu cần
“phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động… trong sự biến đổi của nó”
vận dụng nguyên lí về mối liên hệ phổ biến trong cuộc sống.
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử
- cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo
hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. about:blank 5/6 23:56 9/8/24 Triết 1,2 - ly thuyet
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với
từng con người. Đối với những người bề trên như ông ,bà ,bố ,mẹ, thầy cô… thì chúng ta
cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những hành động , thái độ
thoải mái,tự nhiên .Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian khác
nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp
như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà phán
xét về phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả , có thể bạn
đó có gương mặt lạnh lùngnhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ gần. Vì vậy muốn đánh
giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài , nhìn nhận họ trên mọi phương diện ,
ở từng thời điểm ,từng hoàn cảnh khác nhau.
Ví dụ như khi xưa anh ta là người xấu ,tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp
chơi thân, nhưng hiện nay anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người
không như xưa , chúng ta cần nhìn nhận anh ta khác đi , có thể cư xử khác trước, có thể giao
tiếp , kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét
chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt .
Khi ta học kém đi , điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười
học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu , thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn about:blank 6/6