Một số câu hỏi ôn thi môn Triết học Mác - Lênin | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Câu 17 Quần chúng nhân dân Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình. Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời
đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau. Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Trường:

Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1.7 K tài liệu

Thông tin:
30 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Một số câu hỏi ôn thi môn Triết học Mác - Lênin | Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Câu 17 Quần chúng nhân dân Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình. Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời
đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau. Tài  liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

33 17 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 47028186
Câu 17 Quần chúng nhân dân
Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của
khối đông đảo con người được gọi quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của một nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích lợi ích của
mình.
Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời
đại quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp hội
giai cấp khác nhau.
Như vậy: Quần chúng nhân dân bộ phận cùng chung lợi ích căn bản,
bao gồm những thành phần, những tầng lớp những giai cấp, liên kết lại
thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm
giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm đó được xác định bởi các nội dung sau đây:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất các giá trị tinh
thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột,
đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bhội
thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo
sự phát triển của lịch sử xã hội.
2 . Vai trò của quần chúng nhân dân
Về căn bản, tất cả các ntriết học trong lịch sử triết học trước Mác đều
không nhận thức đúng vai trò của quần chúng trong trong tiến trình phát triển
của lịch sử. Về nguồn gốc luận, điều đó nguyên nhân từ quan điểm duy
tâm hoặc siêu hình về xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân chủ thể sáng
tạo chân chính ra lịch sử.
lOMoARcPSD| 47028186
Bởi vì, mọi tưởng giải phóng hội, giải phóng con người chỉ được chứng
minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng. Hơn nữa, tưởng
tự không làm biến đổi hội phải thông qua hành động cách mạng, hoạt
động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện
thực trong đời sống xã hội.
Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba
nội dung:
Thứ nhất:
Quần chúng lực lượng sản xuất bản của hội, trực tiếp sản xuất ra
của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Con người muốn tồn tại phải các điều kiện vật chất cần thiết, những
nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực ợng sản xuất
bản đông đảo quần chúng lao động, bao gồm cả lao động chân tay lao
động trí óc.
Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay vai trò đặc biệt đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ thể phát huy
thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng lao động, nhất đội ngũ công
nhân hiện đại trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức.
Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng điều kiện
bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai:
Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà
không hoạt động đông đảo của quần chúng. Họ là lực lượng bản của cách
mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Trong các cuộc cách mạng m chuyển biến hội từ hình thái kinh tế
hội này sang hình thái kinh tế hội khác, nhân dân lao động lực lượng
tham gia đông đảo. Cách mạng ngày hội của quần chúng, sự nghiệp của
quần chúng.
Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất,
lOMoARcPSD| 47028186
nghĩa bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng lao động. Bởi
vậy, nhân dân lao động chủ thể của các qtrình kinh tế, chính trị, hội,
đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba:
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.
Quần chúng đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật,
văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính
trị, đạo đức… của nhân dân vừa cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại.
Hoạt động của quần chúng từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho
mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh
thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng chấp nhận và truyền
bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động
tinh thần, quần chúng luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy
nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chthcủa quần chúng nhân dân
cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ trong chủ nghĩa hội, quần chúng nhân dân
mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng dân, lật thuyền cũng
là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tưởng thường trực
nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
CÂU 15 Bản chất của nhà nước là gì?
Bản chất những cái bên trong của sự vật, sự việc, cái cốt i của sự vật gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của sự vật, sự việc đó. Từ đó, chúng
lOMoARcPSD| 47028186
ta liên tưởng được bản chất của nhà nước, đó cốt lõi bên trong gắn liền với
sự hình thành và phát triển của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, Bản chất của nhà nước được th
hiện qua hai thuộc tính: Bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
Bản chất giai cấp của nhà nước
Nhà nước được sinh ra trong xã hội có giai cấp nên bao giờ cũng thể hiện bản
chất giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của Nhà nước được thể hiện qua việc nhà
nước là công cụ thống trị trong xã hội. Nhà nước sinh ra là để thực hiện ý chí
của giai cấp thống trị, củng cố và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Nhà
nước thiết lập nên hệ thống pháp luật, các thiết chế xã hội, chính phủ, tòa án,
quân đội… để duy trì trật tự xã hội theo ý muốn của giai cấp thống trị.
Bản chất xã hội của nhà nước
Ngoài bản chất giai cấp thì Nhà nước còn thể hiện bản chất xã hội của mình.
Tính hội của Nhà nước hay còn được gọi vai trò kinh tế – hội của Nhà
nước. Bản chất này được thể hiện qua vai trò quản hội của Nhà nước.
Nhà nước trách nhiệm phải giải quyết tất cả các vấn đnảy sinh trong xã
hội như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, thiên tai… nhằm đảm bảo lợi ích
chung cho toàn xã hội.
Bản chất của Nhà nước trong tiếng Anh được hiểu là The nature of the
state.
Tính xã hội giai cấp là hai mặt cơ bản thống nhất, chúng luôn mối quan
hệ tương tác, gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm thể hiện bản chất của của bất kỳ
nhà nước nào. Dù trong xã hội nào, bản chất của nnước cũng đều thể hiện
ở hai mặt: Một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Đồng thời, mặt còn
lại vẫn sẽ cý đến lợi ích chung của toàn hội. Tuy nhiên, mức độ sự thể
hiện của hai thuộc tính này sẽ có sự khác nhau ở từng nhà nước và ở từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Bởi phụ thuộc vào các yếu tố như: nhận thức của giai
cấp cầm quyền, điều kiện kinh tế – xã hội…
Theo như lịch sử phát triển của nhà nước cùng với sự phát triển của văn minh
nhân loại, của tri thức con người cho thấy, tính giai cấp trong bản chất của nhà
lOMoARcPSD| 47028186
nước thay đổi từ công khai thể hiện tới kín đáo hơn với vấn đề giai cấp tăng
dần vai trò, trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội.
2. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
Tương tự như những nhà nước khác, Nhà nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt
Nam cũng tồn tại bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
Bản chất giai cấp của Nhà nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam được th
hiện nét trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cụ thể: “Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và giới trí thức”.
Bản chất của Nhà nước của dân, do dân dân được thể hiện qua các đặc
trưng sau:
Nhân dân là chủ thể tối cao của Nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước do dân mà nòng
cốt liên minh công nông trí thức. Quyền lực của Nhà nước Việt Nam
không phụ thuộc vào bất kỳ một tổ chức hay nhân nào mà thuộc về toàn thể
nhân dân. Nhân dân chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó hình thức bản nhất thông qua
bầu cử để lập ra cơ quan đại diện cho quyền lực của mình.
Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực của mình thông qua việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của các quan nnước cũng như trực tiếp trình bày hoặc
đưa ra ý kiến, kiến nghị của mình đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhà nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam nớc của các dân tộc
trên lãnh thổ Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống suốt dọc chiều
dài của đất nước. Các dân tộc anh em đoàn kết một lòng, đó truyền thống
lâu dài, nguồn sức mạnh to lớn của đất nước mỗi khi ngoại xâm. Ngày
lOMoARcPSD| 47028186
nay, tính dân tộc ấy lại càng được thể hiện nét, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong
cuộc sống hàng ngày và trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức hoạt động dựa trên
nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Thực vậy, công dân đầy đủ các quyền trên mọi lĩnh vực đời sống hội của
đất nước. Công dân có quyền tự do, dân chủ trong việc quyết định những vấn
đề sống còn của đất nước. Tuy nhiên, song song với quyền lợi thì công dân
cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đó mối quan hệ
được xác lập trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của nhau.
Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đặc biệt
là trong lĩnh vực kinh tế – xã hội.
Về chính trị, nhà nước tạo ra sở pháp lý, cụ thể pháp luật để đảm bảo
quyền tự do, dân chủ của công dân.
Trong nh vực kinh tế hội, “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nnước theo định
hướng XHCN”. Nền kinh tế thị trường phương tiện đNhà nước hội
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Đối với vấn đề văn hóa xã hội, Nhà nước chú trọng giải quyết các vấn đề xã
hội như bệnh tật, giáo dục, thiên tai, tệ nạn hội, nghèo đói… Nhà nước cũng
kiên quyết trừng trị các hành vi phá hoại, xâm hại đến an ninh quốc gia, bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân các hành vi vi phạm pháp luật
khác.
Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, giao lưu hợp
tác với tất cả các nước trên thế giới.
Nhà nước mở rộng giao lưu văn hóa, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới
trên sở n trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trên sở đôi bên cùng lợi đồng
lOMoARcPSD| 47028186
thời ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân trên toàn thế giới hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhà nước có hai chức năng chính phân theo đối tượng là chức năng đối nội
và chức năng đối ngoại, cụ thể:
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ
đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế
độ, bảo vệ chế độ kinh tế… la những chức năng đối nội của các nhà nước.
Chức năng đối ngoại thể hiện vai tcủa nhà nước trong quan hệ với các nhà
nước dân tộc khác. dụ: phòng thủ đất nước, chống sự xâm ợc từ bên
ngoài, thiết lập các mối bang giao với các quốc gia khác…
Các chức năng đối nội đối ngoại quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác
định thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn phải xuất phát từ tình hình
thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện các
chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức nang đối
nội.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều hình
thức phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó ba hình thức hoạt động
chính là: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng ba hình thức hoạt động này cũng có những
đặc điểm khác nhau. Tùy thuộc vào nh hình cụ thể của mỗi nước, các phương
pháp hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng
nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là thuyết phục và cưỡng chế.
Trong các nhà nước c lột, cưỡng chế được sử dụng rộng rãi phương
pháp chủ yếu đthực hiện các chức năng của nhà nước. Ngược lại, trong các
nhà nước xã hội chủ nghĩa, thuyết phục phương pháp bản, còn cưỡng chế
được sử dụng kết hợp và dựa trên sở của thuyết phục giáo dục. Các chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước hệ thống các quan từ trung ương xuống địa phương,
bao gồm nhiều loại quan như quan lập pháp, hành pháp, pháp Toàn
lOMoARcPSD| 47028186
bộ hoạt động của bộ máy nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước, phục
vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều quan,
mỗi quan cũng những chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi
quyền hạn được giao.
Vì vậy cần phân biệt chức năng nhà nước với chức năng của mỗi cơ quan nhà
nước cụ thể. Chức năng của nhà nước phương diện hoạt động chủ yếu của
toàn thể bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan khác nhau của nhà nước đều
tham gia thực hiện những mức độ khác nhau. Chức năng của một quan
chỉ những mặt hoạt động chủ yếu của riêng quan đó nhằm p phần thực
hiện những chức năng và nhiệm vụ chung của nhà nước.
Mỗi kiểu nhà nước bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc
mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau việc tổ chức bộ máy đthực hiện các
chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng. Vì vậy, khi nghiên cứu các chức
năng của nhà nước bộ máy nhà nước phải xuất phát từ bản chất nhà nước
trong mỗi kiểu nhà nước cụ thể để xem xét.
Kết luận: Việc nghiên cứu bản chất của nhà nước ý nghĩa cùng quan
trọng cả về mặt nhận thức và thực tiễn đối với công dân Việt Nam i chung
đối với đội ngũ trí thức, nghiên cứu trẻ (nghiên cứu sinh, sinh viên, học
viên…) nói riêng. Đây hội để chúng ta tìm hiểu nắm vững bản chất
của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó củng cố niềm tin
vào chế độ nhà nước vào ơng lai của đất nước “dân chủ công bằng văn
minh tiến bộ” trong tương lai gần.
CÂU 14 Hình thái kinh tế – xã hội là gì ?
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành
các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các hội cụ
thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm trù hình thái kinh
tế hội. Hình thái kinh tế hội một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ hội từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất, với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
lOMoARcPSD| 47028186
Hình thái kinh tế hội một hệ thống hoàn chỉnh, cấu trúc phức tạp,
trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hsản xuất kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động
qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế
xã hội. Hình thái kinh tế hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau.
Suy đến cùng, sự phát triển của lực ợng sản xuất quyết định sự hình thành,
phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
Các quan hệ sản xuất tạo thành sở hạ tầng của hội quyết định tất cả
mọi quan hệ hội khác. Mỗi hình thái kinh tế hội một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân
biệt các chế độ xã hội.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành phát triển phù hợp với sở hạ tầng,
nhưng lại công cụ để bảo vệ, duy trì phát triển sở hạ tầng đã sinh
ra nó.
Ngoài các mặt bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế xã hội còn quan
hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệhội khác. Các quan hệ đó đều gắn
chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản
xuất.
2. Sự phát triển các hình thái kinh tế – hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên
Lịch sử phát triển của hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp
đến cao. Tương ứng với quá trình đó lịch sử của các hình thái kinh tế
hội theo những quy luật, đó quá trình lịch sử tự nhiên của hội. Mác khẳng
định rằng “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế hội một quá
trình lịch sử tự nhiên”.
Lực ợng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Mối liên hệ tác
động qua lại của c nhân tố này thể hiện sự tác động của các quy luật chung
vào trong các giai đoạn của sự phát triển của lịch sử làm cho các hình thái kinh
tế – xã hội phát triển như một tiến trình lịch sử tự nhiên.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính tính chất trình độ của lực lượng sản xuất
đã quy định một cách khách quan tính chất trình độ của quan hsản xuất.
lOMoARcPSD| 47028186
Do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động phát
triển của hình thái kinh tế – xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong hệ thống các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của
các hình thái kinh tế xã hội, thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Mặt
khác, sự tác động đến quá trình phát triển của các hình thái kinh tế hội
như một quá trình lịch sử tự nhiên còn thể hiện sự tác động trực tiếp, quan
trọng của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, v.v…
nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến quá trình thay đổi các hình thái kinh
tế hội khác nhau trong sự phát triển của lịch sử. Trong đó điều kiện của
môi trường địa lý, tính độc đáo của các nền văn hóa, của truyền thống, tưởng,
tâm xã hội vấn đề dân tộc v.v… đều ý nghĩa quan trọng nhất định.
Tính chất của tác động lẫn nhau giữa các dân tộc tồn tại các giai đoạn khác
nhau đều phụ thuộc vào tính chất của chế độ hội. Để xác định tính đặc trưng
và phân biệt sự khác nhau giữa các giai đoạn, phù hợp với khuynh hướng chủ
đạo đó, người ta dùng khái niệm thời đại.
3 . Ý nghĩa của hình thái kinh tế – xã hội
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác người đầu tiên nêu lên giải quyết một
cách khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học thuyết hình
thái kinh tế hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự tồn tại, vận
động và phát triển của xã hội thông qua hệ thống các quy luật khách quan của
hội. Học thuyết hình thái kinh tế hội đã phê phán những quan điểm duy
tâm, siêu hình về lịch sử.
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – hội nhất
định lại tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện lịch sử hội
khác nhau. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế hội vào nước ta lúc
đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy
nhanh tốc độ công nghiệp hóa, nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ
những thành phần kinh tế nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp v.v…
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới và từ đó
đến nay đường lối đổi mới đó đã từng bước đi vào hiện thực đạt được nhiều
kết quả to lớn nhất định.
lOMoARcPSD| 47028186
+ Xây dựng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cho nên xây dựng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, nhưng sự quản của nhà nước kinh tế quốc doanh luôn giữ vai
trò chủ đạo.
+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân làm chủ, bảo vệ quyền
dân chủ của mọi thành viên trong hội. Cho nên nhà nước nhà nước của
dân, do dân dân, hoặc dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, v.v… + Mở rộng
giao lưu quốc tế, tiếp cận vận dụng những giá trmới của văn minh nhân
loại. Tạo môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo của mọi con người vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh
4 . Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. S
ra đời học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một
phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học.
Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất sở của đời sống hội, phương
thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống hội. Cho nên, không thể xuất
phát từ ý thức, tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện
tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Học thuyết đó cũng chỉ ra: hội không phải sự kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc giữa các nhân, là một thể sống sinh động, các mặt
thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản
xuất quan hệ bản, quyết định các quan hhội khác, là tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng
đời sống hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống hội
mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ
sản xuất thì mới thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan
hệ sản xuất cũng tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng
đắn, khoa học.
Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế – hội một
quá trình lịch sử tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không
phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống hội
phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội.
V.I.Lênin viết: “Xã hội một thsống đang phát triển không ngừng (chứ
không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép
lOMoARcPSD| 47028186
thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể
muốn nghiên cứu thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan
hệ sản xuất cấu thành một hình thái hội nhất định cần phải nghiên cứu
những quy luật vận hành phát triển của hình thái hội đó” Kể từ khi học
thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có
những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn
phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống
xã hội. Đương nhiên, học thuyết đó không bao giờ có tham vọng giải thích tất
cả, chỉ ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải
thích lịch sử.
Gần đây, những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế
hội cho rằng phải thay thế bằng cách tiếp cận n minh. Cách tiếp cận
này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn
minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh
trí tuệ). Thực chất đây là phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa
o trình độ khoa học công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay
thế được học thuyết hình thái kinh tế xã hội, không vạch ra mối quan h
giữa các mặt trong đời sống hội và các quy luật vận động, phát triển của
hội từ thấp đến cao.
5 . Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – hội
Học thuyết hình thái kinh tế hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích
xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi
đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế hội cao hơn, hình thái cộng
sản chủ nghĩa,giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình
thành phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta
khẳng định: độc lập dân tộc chủ nghĩa hội không tách rời nhau. Đó
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường
lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của
nước ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng
nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc c lập vị trí thống trị của quan
lOMoARcPSD| 47028186
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu nhân loại đã đạt được dưới chế đbản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
cho nên phải trải qua một thời kỳ qđộ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, hội nh chất quá độ. Trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. “Đảng Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường sự quản của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“.
Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc”.
Xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa vừa
phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu
phát triển của lực lượng sản xuất nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ,
lao động thủ công phổ biến. Chính vậy, chúng ta phải tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn
liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta nhằm xây
dựng sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó nhiệm vtrung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò
của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh
lOMoARcPSD| 47028186
thần của nhân dân; phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện
công bằng hội nhằm thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
CÂU 13 QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ DẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT
ĐỐI LẬP
Thứ nhất: Mặt đối lập
Mặt đối lập những mặt những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự tồn tại của các mặt đối lập khách quan phổ biến trong tất cả các sự vật.
Thứ hai: Mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái các mặt đối lập liên hệ, c động qua lại
lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan phổ biến trong tự nhiên,
hội duy. Mâu thuẫn biện chứng trong duy phản ánh u thuẫn
trong hiện thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Chúng ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với u thuẫn logic hình thức.
Mâu thuẫn logic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong
tư duy.
Thứ ba: Sự thống nhất của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt
kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng
những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó sự “đồng nhất”
của các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển
khai của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ trạng thái vận động của mâu thuẫn khi
diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Cuối cùng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
lOMoARcPSD| 47028186
Đấu tranh của các mặt đối lập sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc
vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập điều kiện diễn ra
cuộc đấu tranh.
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, cụ thể
như sau:
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất
của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi trong
quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn xu hướng phát triển trái
ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ nhưng xung khắc,
đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược
chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt
đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Như chúng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội
chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chế vận hành
quản kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài xem như đặc
trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng chế kinh tế tập trung nhưng
nhanh chóng bỏ ngay sau chiến tranh đã đạt được thành tựu to lớn về
kinh tế xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn gặp phái rất nhiều mâu
thuẫn tồn tại.
Thứ ba: Tính khách quan phổ biến của quy luật thống nhất đấu tranh
giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế
giới đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng dó là tồn
tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau. Sthống nhất đấu tranh giữa các
mặt đối lập tính khách quan cái vốn trong các sự vật, hiện tượng
lOMoARcPSD| 47028186
tính phổ biến do sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong
tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tính khách quan phổ
biến nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong
mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật, hiện tượng không chỉ
một mức độ nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đặt đến
một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sđược giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu
thuẫn mất đi, mâu thuẫn mới ra đời hình thành một quá trình mới, làm
cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ qđnền kinh tế thị trường vận động
theo chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền
kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa bản. Nhưng nếu sự đấu tranh
thì thể giữ vững được định hướng hội chủ nghĩa. Đây một quá trình
khó khăn, phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng hội chủ nghĩa thì vai trò quản
lý của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn
đề kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong đang ở giai đoạn mới hình thành nên còn đang
thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn tới môi trường sản xuất, kinh doanh thiếu ổn
định, an toàn. Tính chất không ràng, thiếu xác định trên cả phương diện kinh
tế hội dường như đang rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong
nền kinh tế nước ta. Do đó, quá trình chuyển hóa này vấp phải khá nhiều mâu
thuẫn nội tại.
Ví dụ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn thường hai mặt đối lập liên hệ gắn với nhau tạo
tiền đề cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối
lập.
dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất tiêu dùng phát triển theo
những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính việc tạo ra của cải
vật chất, sản phẩm để thđáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. n
tiêu dùng mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được
sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
lOMoARcPSD| 47028186
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như không quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ
không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây
không phải đối tượng nói chúng đối những đối tượng nhất định do bản
thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng tạo
ra nhu cầu cho người tiêu ng. Điều này nghĩa chỉ khi sản xuất ra một
loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Do
vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai
mặt đối lập, chúng tính chất tương đồng và mối liên hệ mật thiết, chặt
chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập
+ Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật đó
thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất
phát từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một
cách chi tiết, cụ thể.
+ Phải nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó thông qua đấu tranh
giữa các mặt đối lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên
phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
+ Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua
hình thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó thmột trong hai mặt đối lập
chuyển hóa vào mặt còn lại, hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt
cùng chuyển hóa sang những hình thức mới của mình.
Câu 11 Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì?
Tồn tại xã hội là gì?
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất xã hội giữa con
người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con
lOMoARcPSD| 47028186
người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai
quan hệ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành
xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
Tồn tại hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất vật chất;
điều kiện tự nhiên-môi trường địa lý; dân số mật độ dân số v.v, trong đó
phương
thức sản xuất vật chất thành phần bản nhất. Các quan hệ vật chất khác
giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã
hội.
Ý thức xã hội là gì?
Ý thức hội mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập
quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận v.v nảy sinh từ tồn tại xã hội
phản ánh tồn tại hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách
khác, ý thức hội những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau, là mặt
tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định,
bao gồm những mức độ khác nhau thức hội thông thường ý thức
luận (khoa học); tâm hội hệ tưởng) và các hình thái của ý thức
hội thức chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa
học v.v).
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.
+) Tồn tại hội cái thứ nhất, ý thức hội cái thứ hai. Tồn tại hội
quy định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức
hội phản ánh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội.
+) Tồn tại hội thay đổi điều kiện quyết định để ý thức hội thay đổi.
Mỗi khi tồn tại xã hội, đặc biệt phương thức sản xuất biến đổi thì những
tưởng và lý luận xã hội cũng dần biến đổi theo.
+) Tồn tại hội quy định ý thứchội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất ktưởng, quan niệm, luận,
hình thái ý thức hội nào cũng phản ánh ràng và trực tiếp những quan hệ
kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan
lOMoARcPSD| 47028186
hệ kinh tế được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong cáctưởng ấy.
Như vậy, sự phản ánh tồn tại hội của ý thức hội phải được xem xét một
cách biện chứng.
Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở:
+) Ý thức hội thường lạc hậu so với tồn tại hội do không phản ánh kịp
những thay đổi của tồn tại hội do sức của thói quen, truyền thống, tập
quán và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội v.v tiếp tục tồn tại sau
khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ lâu; do lợi ích nên không
chịu thay đổi.
+) Ý thức hội thể vượt trước tồn tại hội. Do tính năng động của ý thức,
trong những điều kiện nhất định, tưởng, đặc biệt những tưởng khoa học
tiên tiến thể vượt trước sự phát triển của tồn tại hội; dự báo được quy luật
tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích
nhất định.
+) Ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo
ra trên sở kế thừa những thành tựu luận của các thời đại trước. Kế thừa
tính tất yếu khách quan; tính chọn lọc sáng tạo; kế thừa theo quan
điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Lịch sử phát triển của các tư tưởng
cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của suy tàn của nền kinh tế.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng
tới tồn tại xã hội.
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có
những hình thái ý thức hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động chi phối
các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý thức
hội không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại hội, mà còn chịu sự
tác động lẫn nhau. Mối liên hệ tác động lẫn nhau đó giữa các hình thái ý
thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý thức hội những tính chất những
mặt không thể giải thích trực tiếp được bằng các quan hệ vật chất.
Sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện
quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
lOMoARcPSD| 47028186
Đó là sự tác động nhiều chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này
thể hiện mức độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức
hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng phụ thuộc vào khả năng
hiện thực hoá ý thức xã hội của giai cấp và đảng phái. Như vậy, ý thức xã hội,
với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động ngược trở lại lên tồn
tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
CÂU 1 Vấn đề cơ bản của triết học là gì?
Khái niệm về vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề bản của triết học những vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa
duy tồn tại, giữa vật chất ý thức. do vấn đề bản việc giải
quyết nó sẽ quyết định được cơ sở, tiền đề để giải quyết những vấn đề của triết
học khác. Điều này đã được chứng minh rất ràng trong lịch sử phát triển lâu
dài và phức tạp của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có mấy mặt?
Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mặt, cụ thể:
Mặt thứ nhất - Bản thluận: Trả lời cho câu hỏi giữa ý thức vật
chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Và cái nào quyết định cái nào?
Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học dựa trên 3
cách sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
2. Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
3. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhau
Hai cách giải quyết đầu tiên tuy đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm
chung của hai cách giải quyết này đều thừa nhận một trong hai nguyên thể ( ý
thức hoặc vật chất) nguồn gốc của thế giới. Cách giải quyết một hai thuộc
về triết học nhất nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái: trường phái triết học nhất
nguyên duy vật và trường phái triết học nhất nguyên duy tâm.
| 1/30

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47028186
Câu 17 Quần chúng nhân dân
Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của
khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình.
Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời
đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.
Như vậy: Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản,
bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại
thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm
giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm đó được xác định bởi các nội dung sau đây:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh
thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột,
đối kháng với nhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội
thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo
sự phát triển của lịch sử xã hội.
2 . Vai trò của quần chúng nhân dân
Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch sử triết học trước Mác đều
không nhận thức đúng vai trò của quần chúng trong trong tiến trình phát triển
của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy
tâm hoặc siêu hình về xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng
tạo chân chính ra lịch sử. lOMoAR cPSD| 47028186
Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng
minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng. Hơn nữa, tư tưởng
tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt
động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện
thực trong đời sống xã hội.
Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung: Thứ nhất:
Quần chúng là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra
của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những
nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ
bản là đông đảo quần chúng lao động, bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc.
Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy
thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng lao động, nhất là đội ngũ công
nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức.
Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng là điều kiện cơ
bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Thứ hai:
Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà
không là hoạt động đông đảo của quần chúng. Họ là lực lượng cơ bản của cách
mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế – xã
hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng
tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng.
Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, lOMoAR cPSD| 47028186
nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng lao động. Bởi
vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội,
đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Thứ ba:
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.
Quần chúng đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật,
văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính
trị, đạo đức… của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại.
Hoạt động của quần chúng từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho
mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh
thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng chấp nhận và truyền
bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động
tinh thần, quần chúng luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy
nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân
cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân
mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng
là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”.
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực
nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
CÂU 15 Bản chất của nhà nước là gì?
Bản chất là những cái bên trong của sự vật, sự việc, cái cốt lõi của sự vật gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của sự vật, sự việc đó. Từ đó, chúng lOMoAR cPSD| 47028186
ta liên tưởng được bản chất của nhà nước, đó là cốt lõi bên trong gắn liền với
sự hình thành và phát triển của nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bản chất của nhà nước được thể
hiện qua hai thuộc tính: Bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
Bản chất giai cấp của nhà nước
Nhà nước được sinh ra trong xã hội có giai cấp nên bao giờ cũng thể hiện bản
chất giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của Nhà nước được thể hiện qua việc nhà
nước là công cụ thống trị trong xã hội. Nhà nước sinh ra là để thực hiện ý chí
của giai cấp thống trị, củng cố và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Nhà
nước thiết lập nên hệ thống pháp luật, các thiết chế xã hội, chính phủ, tòa án,
quân đội… để duy trì trật tự xã hội theo ý muốn của giai cấp thống trị.
Bản chất xã hội của nhà nước
Ngoài bản chất giai cấp thì Nhà nước còn thể hiện bản chất xã hội của mình.
Tính xã hội của Nhà nước hay còn được gọi là vai trò kinh tế – xã hội của Nhà
nước. Bản chất này được thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước.
Nhà nước có trách nhiệm phải giải quyết tất cả các vấn đề nảy sinh trong xã
hội như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, thiên tai… nhằm đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội.
Bản chất của Nhà nước trong tiếng Anh được hiểu là The nature of the state.
Tính xã hội và giai cấp là hai mặt cơ bản thống nhất, chúng luôn có mối quan
hệ tương tác, gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm thể hiện bản chất của của bất kỳ
nhà nước nào. Dù ở trong xã hội nào, bản chất của nhà nước cũng đều thể hiện
ở hai mặt: Một mặt bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Đồng thời, mặt còn
lại vẫn sẽ chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội. Tuy nhiên, mức độ và sự thể
hiện của hai thuộc tính này sẽ có sự khác nhau ở từng nhà nước và ở từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố như: nhận thức của giai
cấp cầm quyền, điều kiện kinh tế – xã hội…
Theo như lịch sử phát triển của nhà nước cùng với sự phát triển của văn minh
nhân loại, của tri thức con người cho thấy, tính giai cấp trong bản chất của nhà lOMoAR cPSD| 47028186
nước thay đổi từ công khai thể hiện tới kín đáo hơn với vấn đề giai cấp và tăng
dần vai trò, trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội.
2. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
Tương tự như những nhà nước khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cũng tồn tại bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
Bản chất giai cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể
hiện rõ nét trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cụ thể: “Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và giới trí thức”.
Bản chất của Nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện qua các đặc trưng sau:
Nhân dân là chủ thể tối cao của Nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do dân mà nòng
cốt là liên minh công – nông – trí thức. Quyền lực của Nhà nước Việt Nam
không phụ thuộc vào bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào mà thuộc về toàn thể
nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó hình thức cơ bản nhất là thông qua
bầu cử để lập ra cơ quan đại diện cho quyền lực của mình.
Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực của mình thông qua việc kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như trực tiếp trình bày hoặc
đưa ra ý kiến, kiến nghị của mình đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống suốt dọc chiều
dài của đất nước. Các dân tộc anh em đoàn kết một lòng, đó là truyền thống
lâu dài, là nguồn sức mạnh to lớn của đất nước mỗi khi có ngoại xâm. Ngày lOMoAR cPSD| 47028186
nay, tính dân tộc ấy lại càng được thể hiện rõ nét, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong
cuộc sống hàng ngày và trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động dựa trên
nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Thực vậy, công dân có đầy đủ các quyền trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của
đất nước. Công dân có quyền tự do, dân chủ trong việc quyết định những vấn
đề sống còn của đất nước. Tuy nhiên, song song với quyền lợi thì công dân
cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đó là mối quan hệ
được xác lập trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của nhau.
Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đặc biệt
là trong lĩnh vực kinh tế – xã hội.
Về chính trị, nhà nước tạo ra cơ sở pháp lý, cụ thể là pháp luật để đảm bảo
quyền tự do, dân chủ của công dân.
Trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN”. Nền kinh tế thị trường là phương tiện để Nhà nước và xã hội
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đối với vấn đề văn hóa – xã hội, Nhà nước chú trọng giải quyết các vấn đề xã
hội như bệnh tật, giáo dục, thiên tai, tệ nạn xã hội, nghèo đói… Nhà nước cũng
kiên quyết trừng trị các hành vi phá hoại, xâm hại đến an ninh quốc gia, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, giao lưu và hợp
tác với tất cả các nước trên thế giới.
Nhà nước mở rộng giao lưu văn hóa, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trên cơ sở đôi bên cùng có lợi đồng lOMoAR cPSD| 47028186
thời ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân trên toàn thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhà nước có hai chức năng chính phân theo đối tượng là chức năng đối nội
và chức năng đối ngoại, cụ thể:
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ
đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế
độ, bảo vệ chế độ kinh tế… la những chức năng đối nội của các nhà nước.
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà
nước và dân tộc khác. Ví dụ: phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên
ngoài, thiết lập các mối bang giao với các quốc gia khác…
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác
định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn phải xuất phát từ tình hình
thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện các
chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức nang đối nội.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều hình
thức và phương pháp hoạt động khác nhau, trong đó có ba hình thức hoạt động
chính là: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Trong mỗi nhà nước, việc sử dụng ba hình thức hoạt động này cũng có những
đặc điểm khác nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, các phương
pháp hoạt động để thực hiện các chức năng của nhà nước cũng rất đa dạng
nhưng nhìn chung có hai phương pháp chính là thuyết phục và cưỡng chế.
Trong các nhà nước bóc lột, cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương
pháp chủ yếu để thực hiện các chức năng của nhà nước. Ngược lại, trong các
nhà nước xã hội chủ nghĩa, thuyết phục là phương pháp cơ bản, còn cưỡng chế
được sử dụng kết hợp và dựa trên cơ sở của thuyết phục và giáo dục. Các chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan từ trung ương xuống địa phương,
bao gồm nhiều loại cơ quan như cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp … Toàn lOMoAR cPSD| 47028186
bộ hoạt động của bộ máy nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước, phục
vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cơ quan,
mỗi cơ quan cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng phù hợp với phạm vi quyền hạn được giao.
Vì vậy cần phân biệt chức năng nhà nước với chức năng của mỗi cơ quan nhà
nước cụ thể. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của
toàn thể bộ máy nhà nước, trong đó mỗi cơ quan khác nhau của nhà nước đều
tham gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Chức năng của một cơ quan
chỉ là những mặt hoạt động chủ yếu của riêng cơ quan đó nhằm góp phần thực
hiện những chức năng và nhiệm vụ chung của nhà nước.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nên chức năng của các nhà nước thuộc
mỗi kiểu nhà nước cũng khác nhau và việc tổ chức bộ máy để thực hiện các
chức năng đó cũng có những đặc điểm riêng. Vì vậy, khi nghiên cứu các chức
năng của nhà nước và bộ máy nhà nước phải xuất phát từ bản chất nhà nước
trong mỗi kiểu nhà nước cụ thể để xem xét.
Kết luận: Việc nghiên cứu bản chất của nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan
trọng cả về mặt nhận thức và thực tiễn đối với công dân Việt Nam nói chung
và đối với đội ngũ trí thức, nghiên cứu trẻ (nghiên cứu sinh, sinh viên, học
viên…) nói riêng. Đây là cơ hội để chúng ta tìm hiểu và nắm vững bản chất
của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó củng cố niềm tin
vào chế độ nhà nước và vào tương lai của đất nước “dân chủ– công bằng – văn
minh – tiến bộ” trong tương lai gần.
CÂU 14 Hình thái kinh tế – xã hội là gì ?
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành
các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ
thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm trù hình thái kinh
tế – xã hội. Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
lOMoAR cPSD| 47028186
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp,
trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động
qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế –
xã hội. Hình thái kinh tế – xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau.
Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành,
phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội.
Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả
mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân
biệt các chế độ xã hội.
Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng,
nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế – xã hội còn có quan
hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó
chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
2. Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp
đến cao. Tương ứng với quá trình đó là lịch sử của các hình thái kinh tế – xã
hội theo những quy luật, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Mác khẳng
định rằng “Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên”.
Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Mối liên hệ tác
động qua lại của các nhân tố này thể hiện sự tác động của các quy luật chung
vào trong các giai đoạn của sự phát triển của lịch sử làm cho các hình thái kinh
tế – xã hội phát triển như một tiến trình lịch sử tự nhiên.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ của quan hệ sản xuất. lOMoAR cPSD| 47028186
Do đó xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát
triển của hình thái kinh tế – xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong hệ thống các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của
các hình thái kinh tế xã hội, thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Mặt
khác, sự tác động đến quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội
như một quá trình lịch sử tự nhiên còn thể hiện sự tác động trực tiếp, quan
trọng của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, v.v…
Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn đến quá trình thay đổi các hình thái kinh
tế – xã hội khác nhau trong sự phát triển của lịch sử. Trong đó điều kiện của
môi trường địa lý, tính độc đáo của các nền văn hóa, của truyền thống, tư tưởng,
tâm lý xã hội và vấn đề dân tộc v.v… đều có ý nghĩa quan trọng nhất định.
Tính chất của tác động lẫn nhau giữa các dân tộc tồn tại ở các giai đoạn khác
nhau đều phụ thuộc vào tính chất của chế độ xã hội. Để xác định tính đặc trưng
và phân biệt sự khác nhau giữa các giai đoạn, phù hợp với khuynh hướng chủ
đạo đó, người ta dùng khái niệm thời đại.
3 . Ý nghĩa của hình thái kinh tế – xã hội
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết một
cách khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học thuyết hình
thái kinh tế – xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự tồn tại, vận
động và phát triển của xã hội thông qua hệ thống các quy luật khách quan của
xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã phê phán những quan điểm duy
tâm, siêu hình về lịch sử.
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – xã hội nhất
định lại có tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện lịch sử xã hội
khác nhau. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội vào nước ta có lúc
đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như sau năm 1976 khi nóng vội đẩy
nhanh tốc độ công nghiệp hóa, nhưng chưa có những tiền đề cần thiết, xóa bỏ
những thành phần kinh tế tư nhân, coi nhẹ quan hệ sản xuất hàng hóa, cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp v.v…
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thực hiện công cuộc đổi mới và từ đó
đến nay đường lối đổi mới đó đã từng bước đi vào hiện thực và đạt được nhiều
kết quả to lớn nhất định. lOMoAR cPSD| 47028186
+ Xây dựng phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cho nên xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, nhưng có sự quản lý của nhà nước và kinh tế quốc doanh luôn giữ vai trò chủ đạo.
+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân làm chủ, bảo vệ quyền
dân chủ của mọi thành viên trong xã hội. Cho nên nhà nước là nhà nước của
dân, do dân và vì dân, hoặc dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, v.v… + Mở rộng
giao lưu quốc tế, tiếp cận và vận dụng những giá trị mới của văn minh nhân
loại. Tạo môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo của mọi con người vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh
4 . Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Sự
ra đời học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một
phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học.
Học thuyết đó chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương
thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất
phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện
tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Học thuyết đó cũng chỉ ra: xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt
thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản
xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng
đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội
và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt phải đi sâu phân tích về quan hệ
sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan
hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.
Học thuyết đó còn chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một
quá trình lịch sử – tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không
phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội
phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội.
V.I.Lênin viết: “Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ
không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó cho phép lOMoAR cPSD| 47028186
có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà
muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan
hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu
những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó” Kể từ khi học
thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có
những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn là
phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống
xã hội. Đương nhiên, học thuyết đó không bao giờ có tham vọng giải thích tất
cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử.
Gần đây, có những quan điểm đi đến phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế –
xã hội và cho rằng phải thay thế bằng cách tiếp cận văn minh. Cách tiếp cận
này phân chia lịch sử phát triển nhân loại thành văn minh nông nghiệp, văn
minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh
trí tuệ). Thực chất đây là phân chia dựa vào các trình độ phát triển kinh tế, dựa
vào trình độ khoa học và công nghệ. Rõ ràng, cách tiếp cận này không thể thay
thế được học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, nó không vạch ra mối quan hệ
giữa các mặt trong đời sống xã hội và các quy luật vận động, phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
5 . Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích
xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi
đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, hình thái cộng
sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình
thành phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta
khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường
lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng
nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan lOMoAR cPSD| 47028186
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ
. Trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“.
Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa
phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ,
lao động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn
liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò
của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh lOMoAR cPSD| 47028186
thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện
công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
CÂU 13 QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ DẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
Thứ nhất: Mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính
quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách
quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật.
Thứ hai: Mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên,
xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn
trong hiện thực và nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Chúng ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn logic hình thức.
Mâu thuẫn logic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy.
Thứ ba: Sự thống nhất của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có
những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó là sự “đồng nhất”
của các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển
khai của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn khi
diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Cuối cùng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập: lOMoAR cPSD| 47028186
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc
vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất
của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong
quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái
ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ nhưng xung khắc,
đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược
chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt
đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Như chúng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội
chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành
và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như đặc
trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng
nhanh chóng bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về
kinh tế và xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn gặp phái rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
Thứ ba: Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế
giới đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng dó là tồn
tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập có tính khách quan vì cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và lOMoAR cPSD| 47028186
tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ
biến nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong
mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật, hiện tượng không chỉ có
một mức độ nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đặt đến
một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu
thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm
cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận động
theo cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền
kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh
thì có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quá trình
khó khăn, phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản
lý của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong đang ở giai đoạn mới hình thành nên còn đang
thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn tới môi trường sản xuất, kinh doanh thiếu ổn
định, an toàn. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương diện kinh
tế – xã hội dường như đang rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong
nền kinh tế nước ta. Do đó, quá trình chuyển hóa này vấp phải khá nhiều mâu thuẫn nội tại.
Ví dụ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo
tiền đề cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo
những chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải
vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn
tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được
sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng. lOMoAR cPSD| 47028186
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu
dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây
không phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản
thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về
phương thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo
ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một
loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Do
vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai
mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt
chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
+ Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật đó là
thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất
phát từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết, cụ thể.
+ Phải nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó là thông qua đấu tranh
giữa các mặt đối lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên
phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
+ Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua
hình thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập
chuyển hóa vào mặt còn lại, hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt
cùng chuyển hóa sang những hình thức mới của mình.
Câu 11 Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội là gì?
Tồn tại xã hội là gì?
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con
người với tự nhiên và giữa con người với nhau; trong đó, quan hệ giữa con lOMoAR cPSD| 47028186
người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con người với nhau là hai
quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành
xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội gồm các thành phần chính như phương thức sản xuất vật chất;
điều kiện tự nhiên-môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v, trong đó phương
thức sản xuất vật chất là thành phần cơ bản nhất. Các quan hệ vật chất khác
giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội là gì?
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm, tập
quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận v.v nảy sinh từ tồn tại xã hội
và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Nói cách
khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người với nhau, là mặt
tinh thần trong quá trình lịch sử. Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định,
bao gồm những mức độ khác nhau (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý
luận (khoa học); tâm lý xã hội và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã
hội (ý thức chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học v.v).
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
– Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.
+) Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội
quy định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã
hội phản ánh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội.
+) Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi.
Mỗi khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư
tưởng và lý luận xã hội cũng dần biến đổi theo.
+) Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận,
hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ
kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan lOMoAR cPSD| 47028186
hệ kinh tế được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong các tư tưởng ấy.
Như vậy, sự phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội phải được xem xét một cách biện chứng.
– Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở:
+) Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do không phản ánh kịp
những thay đổi của tồn tại xã hội do sức ỳ của thói quen, truyền thống, tập
quán và tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội v.v tiếp tục tồn tại sau
khi những điều kiện lịch sử sinh ra chúng đã mất đi từ lâu; do lợi ích nên không chịu thay đổi.
+) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Do tính năng động của ý thức,
trong những điều kiện nhất định, tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng khoa học
tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội; dự báo được quy luật
và có tác dụng tổ chức, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích nhất định.
+) Ý thức xã hội có tính kế thừa. Quan điểm, lý luận của mỗi thời đại được tạo
ra trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Kế thừa
có tính tất yếu khách quan; có tính chọn lọc và sáng tạo; kế thừa theo quan
điểm lợi ích; theo truyền thống và đổi mới. Lịch sử phát triển của các tư tưởng
cho thấy những giai đoạn hưng thịnh và suy tàn của suy tàn của nền kinh tế.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng gây ảnh hưởng
tới tồn tại xã hội.
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có
những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối
các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý thức xã
hội không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã hội, mà còn chịu sự
tác động lẫn nhau. Mối liên hệ và tác động lẫn nhau đó giữa các hình thái ý
thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những tính chất và những
mặt không thể giải thích trực tiếp được bằng các quan hệ vật chất.
Sự tác động ngược trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội là biểu hiện
quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. lOMoAR cPSD| 47028186
Đó là sự tác động nhiều chiều với các phương thức phức tạp. Sự tác động này
thể hiện mức độ phù hợp giữa tư tưởng với hiện thực; sự xâm nhập của ý thức
xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng và phụ thuộc vào khả năng
hiện thực hoá ý thức xã hội của giai cấp và đảng phái. Như vậy, ý thức xã hội,
với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động ngược trở lại lên tồn
tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
CÂU 1 Vấn đề cơ bản của triết học là gì?
Khái niệm về vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của triết học là những vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa
tư duy và tồn tại, giữa vật chất và ý thức. Lý do nó là vấn đề cơ bản vì việc giải
quyết nó sẽ quyết định được cơ sở, tiền đề để giải quyết những vấn đề của triết
học khác. Điều này đã được chứng minh rất rõ ràng trong lịch sử phát triển lâu
dài và phức tạp của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có mấy mặt?
Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mặt, cụ thể:
Mặt thứ nhất - Bản thể luận: Trả lời cho câu hỏi giữa ý thức và vật
chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Và cái nào quyết định cái nào?
Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học dựa trên 3 cách sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
2. Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
3. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhau
Hai cách giải quyết đầu tiên tuy có đối lập nhau về nội dung, tuy nhiên điểm
chung của hai cách giải quyết này đều thừa nhận một trong hai nguyên thể ( ý
thức hoặc vật chất) là nguồn gốc của thế giới. Cách giải quyết một và hai thuộc
về triết học nhất nguyên.
Triết học nhất nguyên bao gồm hai trường phái: trường phái triết học nhất
nguyên duy vật và trường phái triết học nhất nguyên duy tâm.