Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực | Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi phải có đội ngũ lao động kỹ thuật với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Ở nước ta lực lượng lao động khá dồi dào, có trình độ học vấn căn bản làm cơ sở cho việc đào tạo nghề nghiệp. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 45980359
1
M ĐU
Bất cứ một chương trình phát triển kinh tế xã hội nào của một đất nước, một địa
phương, hay một doanh nghiệp thì sự thành hay bại thường xuất phát từ một số yếu
tố cơ bản như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ và lao động. Trong các yếu tố
bản quan trọng này thì việc quyết định sự phát triển kinh tế hội đó chính
nhân tố con người. Đây cũng yếu tố đầu vào quan trọng đối với mọi doanh nghiệp
hiện nay. Nếu trình độ nghề nghiệp của người lao động thấp thì tài nguyên, vốn
công nghệ cũng sẽ trthành lãng phí và tất yếu dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Do
tính quan trọng này, để làm rõ vấn đề em chọn chủ đề “Vấn đề sử dụng nguồn nhân
lực hiện nay ở Việt nam”.
Mục tiêu chung của tiêu luận là: đánh giá thực trạng sử dụng nguồn nhân lực ở
Việt nam hiện nay.
Mục tiêu cụ thể: Tổng quát về tình hình lao động Việt nam hiện nay; Phân
tích thực trạng sử dụng nguồn nhân lực.
Để đạt mục tiêu nêu trên, phương pháp nghiên cứu được áp dụng là: phương
pháp thu thập số liệu, thông tin ttạp chí, internet; phương pháp thống phân
tích định tính.
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi phải đội ngũ
lao động kthuật với số lượng chất lượng ngày càng cao. nước ta lực lượng
lao động khá dồi dào, có trình độ học vấn căn bản làm cơ sở cho việc đào tạo nghề
nghiệp nhanh chóng tiếp thu khoa học kthuật mới, sẵn sàng để được tham gia
vào các chương trình kinh tế hội của địa phương, kcả tham gia xuất khẩu lao
động và người lao động hầu hết họ đều cần cù, chịu khó làm việc, có ý thức học hỏi
và chấp hành nội quy, chấp hành luật pháp khá nghiêm túc. Đây chính là nguồn lực
ban đầu cần thiết cho những quyết định đầu tư trong nước cũng như kêu gọi hợp tác
đầu của nước ngoài vào các dự án phát triển kinh tế. Nhưng để nguồn nhân lực đó
trở thành nội lực thực sự mạnh cho việc gọi vốn, thu hút công nghệ, khai thác tiềm
năng thiên nhiên thì phải đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đào tạo nghề nghiệp cho
người lao động. Vì hiện nay trình độ qua đào tạo lành nghề nước ta còn thấp như
vậy thì khó thể tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng vốn, công nghệ và khai thác
tiềm năng, càng khó khăn để cạnh tranh về chất lượng hàng hóa càng khó cho
việc giải quyết việc làm.
Ở nước ta mỗi năm có khoảng có 1,2 triệu người đến tuổi lao động và được b
sung vào lực lượng lao động của đất nước. Thế nhưng số lượng lao động thì được
bổ sung chất lượng thì lại hạn chế. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn,
chưa qua học nghề i bản, thiếu tác phong công nghiệp..v.v.v, nên nhiều doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều lao động lại không tuyển được hoặc tuyển dụng rồi
chưa hài lòng về chất lượng. Mặc khác, hiện nay Việt Nam chính thức đã gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và sẽ mở cửa thị trường rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực. Đối với lao động Việt Nam thì hiện nay mới chỉ có 25% trong số 42
triệu lao động qua đào tạo; khoảng 80% thanh niên (18 23 tuổi) bước vào thị trường
lao động chưa qua đào tạo nghề; thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật
lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý, cán bộ hành chính, cán bộ
lOMoARcPSD| 45980359
2
quản chất lượng cao, cán bộ khoa học công nghệ trình độ cao. Chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 so với 5,78/10 của Trung Quốc
4,04/10 của Thái Lan, đây những thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam.
Bên cạnh đó gia nhập WTO đồng nghĩa việc Việt Nam gia nhập chuỗi phân công lao
động toàn cầu. Do nguồn nhân lực trẻ, dồi dào giá nhân công rẻ, trong ngắn
hạn, Việt Nam lợi thế so sánh về việc làm ở các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng yếu tlao động rẻ thì sẽ không thể biến thế mạnh đó thành
hội. Ngoài ra yếu tố lao động rẻ chỉ lợi thế đối những ngành kinh tế sử dụng
nhiều lao động, không lợi thế đối với những ngành kinh tế sử dụng công nghệ cao
hoặc ngành sử dụng nhiều vốn.
Đối với doanh nghiệp, gia nhập WTO buộc các doanh nghiệp của Việt Nam
phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng
suất, sử dụng hợp hiệu quả các nguồn lực, kể cả nguồn lực lao động. Sức ép
sẽ ngày càng tăng, nhất đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Việc phát triển nguồn
nhân lực là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu. Các chủ doanh nghiệp đều
cảm nhận được rằng, nền kinh tế ngày càng phát triển quá trình hội nhập quốc tế
ngày càng rộng mở thì việc thu hút nhân lực trình độ càng cạnh tranh gay gắt nhất
trong tình hình hiện nay khi Việt Nam gia nhập WTO những tập đoàn quốc gia
với lợi thế cạnh tranh về chính sách đãi ngộ, sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước vào chỗ khó khăn hơn, phải đương đầu với cuộc chiến giành giật nhân tài.
Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI, với dự báo trình độ khoa học kỹ thuật
thế giới sẽ phát triển như vũ bão và đất nước ta cũng trên đường tiến mạnh lên công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Để giành được mục tiêu đó, lẽ một trong những việc
phải được ưu tiên đầu đó là xây dựng nguồn nhân lực trong đó cần thiết phải trang
bị không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, xem đó
điểm tựa của hệ thống đòn bẩy để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế
hội.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là đầu tư cho phát
triển, một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cho lâu dài về sau.
thể nói, trình độ lao động hay chất lượng của nguồn nhân lực yếu tố quyết định
nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho doanh nghiệp nói riêng.
CHƯƠNG 1:
CƠ S LÝ LUN V VIC S DNG YU T ĐU VÀO
CA SN XUT
1. Sn xut là gì?
Sản xuất là hoạt động tạo ra sản phẩm - dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nói cách khác, sản xuất quá trình chuyển
hoá giữa các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra (hay sản phẩm). Thực tế cho
thấy rằng cách thức đối với các loại sản phẩm khác nhau là không giống nhau. Tuy
lOMoARcPSD| 45980359
3
nhiên, đối với các loại hàng hoá để sản xuất ra một sản lượng nhất định thì cần phải
có một yếu tố ban đầu nào đó.
1.1 Yếu t đu vào (yếu t sn xut) và yếu t đu ra (sn phm)
Yếu tố đầu vào (hay còn gọi yếu tố sản xuất) các loại hàng hoá - dịch v
được dùng để sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ khác. Yếu tố đầu vào bao gồm lao động,
máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, năng lượng....hàng hoá và dịch vụ là
những yếu tđầu ra (hay sản phẩm) của quá trình sản xuất. Yếu tố đầu ra được đo
lường bởi sản lượng.
Mỗi yếu tố sản xuất cụ thsẽ cần những yếu tđầu vào riêng. vậy, để nghiên
cứu một quá trình sản xuất tổng quát, các nhà kinh tế chia các yếu tố đầu vào theo
tiêu thức chung nhất của mọi quá trình sản xuất thành lao động và vốn.
1.2 Hàm sn xut
Mối quan hgiữa số lượng các yếu tố đầu vào số lượng sản phẩm (sản lượng)
của quá trình sản xuất được biểu diễn bằng hàm sản xuất. Hàm sản xuất của một loại
sản phẩm nào đó cho biết sản lượng tối đa của sản phẩm đó (ký hiệu q) thể
được sản xuất ra bằng cách sử dụng các phối hợp khác nhau giữa vốn (K) lao
động (L) ứng với một trình độ công nghệ nhất định trong một khoảng thời gian nào
đó.
Hàm sản xuất thông thường được viết như sau:
q f K L ,
Trong đó: q sản lượng tối đa thđược sản xuất ra một trình độ công nghệ
nhất định với số lượng lao động là L và số lượng vốn là K. sản lượng q thay đổi tuỳ
thuộc vào sự thay đổi của vốn lao động. Hàm sản xuất chỉ ý nghĩa đối với
những giá trị không âm của K và L. Thông thường hàm sản xuất được giả định
là hàm số đồng biến với vốn và lao động, nghĩa là q 0 q 0 trong miền
K L
xác định của trong một chừng mực nhất định khi sử dụng nhiều yếu tố đầu vào
hơn, nhà sản xuất sẽ sản xuất ra sản lượng cao hơn.
Hàm sản xuất áp dụng cho một trình độ công nghệ nhất định. Một hàm số f cụ
thể có thể đặc trưng cho một trình độ công nghệ nhất định. Khi công nghệ được cải
tiến thì hàm sản xuất sẽ thay đổi và sản lượng sẽ lớn hơn với cùng số lượng các yếu
tố như trước hay thậm chí ít hơn.
lOMoARcPSD| 45980359
4
2. Năng sut biên và năng sut trung bình
2.1 Năng sut biên (MP)
Năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó (vốn hay lao động) là lượng sản
phẩm tăng thêm được sản xuất ra do sử dụng thêm một đơn vị yếu tố sản xuất đó,
nếu các yếu tố khác không đổi. Như vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần
lượt là đạo hàm riêng của sản lượng (q) theo số lượng vốn (K) và số lượng lao động
(L):
MPK q q fKMPL q q fL
K K L L
Trong đó: MP
K
và MP
L
lần lượt là năng suất biên của vốn và lao động.
Như vậy, năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó chính đạo hàm riêng
của hàm số tổng sản lượng (hay hàm sản xuất) theo số lượng yếu tố sản xuất đó. Về
mặt hình học, năng suất biên là độ dốc của đồ thị hàm sản xuất (hay đường tổng sản
lượng) tại từng điểm của đồ thị.
2.2 Quy lut năng sut biên gim dn
Quy luật năng suất biên giảm dần: Nếu số lượng của một yếu tố sản xuất tăng
dần trong khi số lượng các yếu tsản xuất khác giữ nguyên thì sản lượng sẽ tăng
nhanh dần (nghĩa năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng lớn). Tuy nhiên,
vượt qua một mốc nào đó thì sản lượng sẽ gia tăng chậm hơn (nghĩa năng suất
biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng nhỏ nhưng vẫn còn dương). Nếu tiếp tục gia
tăng số lượng yếu tố sản xuất đó thì tổng sản lượng đạt đến mức tối đa (năng suất
biên bằng không) và sau đó sẽ sút giảm (năng suất biên ngày càng nhỏ và mang giá
trị âm).
Đứng trên phương diện toán học, quy luật năng suất biên giảm dần tương ứng
với giả định là đạo hàm riêng bậc hai của hàm sản xuất là âm.
MPKK K2q fKK 0 MP L 2q2 fLL 0
2 L L
Trong phân tích sản xuất, ta giả định rằng chất lượng của từng đơn vị của một
yếu tố sản xuất nào đó như nhau. Năng suất biên giảm dần kết quả của việc hạn
chế sử dụng các đầu vào cố định khác. Quy luật năng suất biên giảm dần tác động
đến hành vi và quyết định của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất
để tăng năng suất, giảm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận.
2.3 Năng sut trung bình (AP)
Năng suất trung bình của một yếu tsản xuất nào đó được tính bằng cách lấy
tổng sản lượng chia cho số lượng yếu tố sản xuất đó.
q q
Công thức tính năng suất trung bình: AP
L
AP
K
, trong đó: AP
L
L K
lOMoARcPSD| 45980359
5
AP
K
lần lượt là năng suất trung bình của lao động và của vốn.
Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất giảm xuống khi năng suất biên
thấp hơn năng suất trung bình ngược lại năng suất trung tăng lên khi năng suất
biên lớn hơn năng suất trung bình.
2.4 Tác đng ca tiến b công ngh đến sn lượng
Mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào sản lượng được quyết định bởi
công nghệ sản xuất. Hay nói cách khác, công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất ra
hàng hoá - dịch vụ. Công nghệ được cải tiến khi có những phát minh khoa học mới
được áp dụng vào sản xuất. Công nghệ tiến bộ sẽ giúp sử dụng tài nguyên hiệu quả
hơn. Điều này nghĩa công nghệ mới thể giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm
hơn với cùng số lượng các yếu tố đầu vào như trước hay thậm chí ít hơn. Với công
nghệ mới, máy móc thiết bị có năng suất cao hơn và công nhân có thể đạt năng suất
cao hơn. Những điều này làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vì vậy, ng
nghệ sản xuất thường được xem như một yếu tố phản ánh trình độ phát triển của
nền kinh tế về phương diện sản xuất.
3. Đường đng lượng
3.1 Đường đng lượng
Các kết hợp của các yếu tố đầu vào tạo ra cùng một sản lượng sđược biểu diễn
trên một đường đẳng lượng.
Đường đẳng lượng cho biết các kết hợp khác nhau về mặt số lượng của vốn (K)
và lao động (L) để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định q
0
nào đó.
Phương trình của đường đẳng lượng:
f K L , q
0
hay K g q
0
, L
5
Các đặc điểm của đường đẳng lượng:
- Tất cả những phối hợp khác nhau giữa vốn và lao động trên một đường
đẳnglượng sẽ cho ra một mức sản lượng như nhau.
- Tất cả những phối hợp về mặt số lượng của vốn lao động nằm trên
đườngđẳng lượng phía trên (phía dưới) mang lại mức sản lượng cao hơn (thấp
hơn).
- Đường đẳng lượng dốc xuống về hướng bên phải và lồi về phía gốc toạ
độ.
- Những đường đẳng lượng không bao giờ cắt nhau.
Trên một hệ trục ta thể vẽ ra rất nhiều đường đẳng lượng tuỳ theo sản lượng.
Các nhà sản xuất sẽ linh hoạt sử dụng những kết hợp đầu vào tạo ra cùng một sản
lượng nhưng họ sẽ chọn tập hợp có chi phí thấp nhất khi xét đến yếu tố giá của các
đầu vào.
lOMoARcPSD| 45980359
6
3.2 T l thay thế k thut biên (MRTS)
Khi di chuyển dọc trên một đường đẳng lượng, ta thấy có sự thay thế giữa các
yếu tố sản xuất để tạo ra một sản lượng không đổi. Để đo lường mức độ thay thế
giữa vốn và lao động, ta khái niệm tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS). Tỷ lệ thay
thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn số đơn vvốn phải bớt đi để tăng thêm một
đơn vị lao động mà không làm thay đổi tổng sản lượng.
Công thức tính tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên:
MRTSLchoK KL q q 0 dKdL q q 0
Trong đó: MRTS
L cho K
là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn. Ký
hiệu q = q
0
cho ta thấy việc tính toán tỷ lệ thay thế biên được thực hiện trên đường
đẳng lượng q
0
. Dấu (-) trong đẳng thức giữ cho tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên luôn
giá trị dương. vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên cho biết độ lớn của sự thay thế giữa
vốn và lao động. Căn cứ vào công thức này ta có thể thấy nghịch dấu với đdốc của
đường đẳng lượng tại một điểm nào đó chính là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao
động cho vốn tại điểm đó. Đó vì q
0
= f(K, L) nên thể suy ra dK phương trình
đường đẳng lượng K = g(q
0
, L). Do đó: MRTS hay chính dL nghịch dấu
với độ dốc của đường đẳng lượng.
4. Mt s hàm sn xut thông dng và đường đng lượng tương ng
4.1 Hàm sn xut tuyến tính
q aK bL a b, 0 . Với hàm sản xuất này, khi vốn hay lao động tăng thêm một đơn
vị thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng tương ứng là a hay b đơn vị. Do vậy, năng
suất biên của vốn lao động lần lượt các hệ số a và b. ng suất biên của vốn
lao động không thay đổi khi số vốn lao động được sử dụng tăng thêm. Do đó,
đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng số lượng các đầu vào (vốn và lao
động) là các đường thẳng dốc lên với độ dốc là a hay b.
Do phương trình của đường đẳng lượng ứng với hàm sản xuất tuyến tính
là:
q b q
0
aK bL nên K L. Như vậy, đường đẳng
lượng của hàm số này là
a a
b n
hững đường thẳng song song có độ dốc
.
a
Trong trường hợp hàm sản xuất này, vốn và lao động có thể hoàn toàn thay thế
cho nhau. Nhà sản xuất có thể chỉ sử dụng vốn hay lao động cho sản xuất tuỳ thuộc
vào giá của chúng.
4.2 Hàm sn xut vi t l kết hp c đnh
lOMoARcPSD| 45980359
7
q min aK bL, ; a b, 0 . Phương trình hàm sản xuất này cho biết sản lượng
bằng với giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc.
- Nếu aK < bL thì q = aK. Trong trường hợp này, vốn yếu ràng buộc đối
vớisản lượng. Việc tăng thêm lao động không làm không làm gia tăng sản lượng nên
MP
L
= 0. Vốn là yếu tố quyết định.
- Nếu aK > bL thì q = aL. Trong trường hợp này, lao động yếu ràng
buộcđối với sản lượng. Việc tăng thêm vốn không làm không làm gia tăng sản lượng
nên MP
K
= 0. Lao động là yếu tố quyết định.
- Khi aK = bL thì cả hai yếu tố K L được sử dụng một cách hợp lý nhất
K b
không hiện tượng dư thừa vốn hay lao động.
Khi đó . Đẳng thức này xảy
L a
ra tại các điểm ở góc của đường đẳng lượng.
Với hàm sản xuất này, vốn và lao động phải được sử dụng với một tỷ lệ nhất
định chúng không thể thay thế cho nhau. Mỗi một mức sản lượng đòi hỏi một
phương án kết hợp đặc biệt giữa vốn lao động. Trong trường hợp này, ta không
thể tạo thêm sản lượng nếu như không đưa thêm vào cả vốn và lao động theo một t
lệ cụ thể.
4.3 Hàm sn xut COBB-DOUGLAS
q cK L
a b
; a,b,c >0.
Đây là trường hợp trung gian giữa hai trường hợp trên và cũng là hàm sản xuất
phổ biến nhất được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu
vào và sản lượng của một quá trình sản xuất.
6. Đường đng phí
Giả sử một doanh nghiệp dùng một số tiền nào đó, được gọitổng chi phí và
được ký hiệu là TC - để mua hay thuê vốn lao động cho sản xuất.Nếu đơn giá vốn
là v và đơn giá của lao động là w thì doanh nghiệp sẽ sử dụng bao nhiêu vốn và lao
động? Đường đẳng phí sẽ giúp trả lời câu hỏi này.
Đường đẳng phí cho biết các kết hợp khác nhau của số lượng lao động (L) và
vốn (K) thể mua được bằng một số tiền (tổng chi phí) nhất định ứng với những
mức giá nhất định.
Phương trình đường đẳng phí có dạng: TC = vK + wL, trong đó TC là tổng chi
phí, v là đơn gvốn, w là đơn giá lao động, vK là chi phí cho vốn, wL chi phí cho
lao động. Phương trình này cho biết tổng chi phí cho vốn (vK) cho lao động (wL)
phải bằng với tổng chi phí (TC).
Sự đánh đổi giữa vốn và lao động được biểu diễn bằng độ dốc của đường đẳng
phí. Nếu gọi S là độ dốc của đường đẳng phí, ta có thể viết:
TC v/ w
lOMoARcPSD| 45980359
8
S
TC w/ v
S bằng với tsố giữa đơn giá của lao động và vốn và không phụ thuộc vào tổng
chi phí. Do đó, khi giá của các yếu tố đầu vào thay đổi thì độ dốc của đường đẳng
phí thay đổi.
CHƯƠNG 2:
THC TRNG NGUN NHÂN LC NƯỚC TA HIN NAY
1. Tng quan v lao đng - vic làm
1.1. V dân s và lao đng
Nước ta quy dân số lớn, tốc độ tăng dân sbình quân tương đối cao. Dân
số cả nước năm 2000 là 77.635,4 nghìn người, đến năm 2005 83.119,9 nghìn
người. Như vậy trong 5 năm, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1,1 triệu người. Tỷ lệ
dân số giữa thành thị nông thôn sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, song
còn chậm. Tỷ trọng dân số thành thị tăng từ 24,22% năm 2000 lên 26,75% năm 2005.
Dân số chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, năm 2005 có 73,25% dân số ở nông
thôn. Do dân số tăng nhanh nên hàng năm lực lượng lao động đã được bổ sung với
một số lượng đáng kể, nhất là ở khu vực nông thôn. Năm 2005, lực lượng lao động
(LLLĐ) của cả nước là 44.382,1 nghìn người, tăng gần 1,13 triệu người so với năm
2004, chiếm 53% dân số. LLLĐ dồi dào một lợi thế rất lớn của nước ta, song
đây cũng một thách thức trong vấn đề giải quyết việc làm. Hơn nữa, tỷ lệ lao động
thành thị tăng, song lực lượng lao động nông thôn n quá lớn. Năm 2005 lực
lượng lao động nông thôn 33.313,9 nghìn người, chiếm 75,1% LLLĐ của cả
nước. Đây là sự bất hợp trong cơ cấu lao động ở nước ta hiện nay và là vấn đề hết
sức cấp bách về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Cơ cấu dân số phân chia theo giới tính không có biến đổi lớn. Trong khoảng 10
năm trở lại đây, tỷ lệ nam giới chiếm khoảng trên 49%, nữ giới chiếm khoảng gần
51%. Lực lượng lao động là nam giới trong thực tế có xu hướng tăng: năm 2004 lao
động nam 22.065,2 nghìn người, chiếm 51%, lao động nữ 21.190,1 nghìn
người, chiếm 49,0%. Năm 2005, lao động nam 22.573,8 nghìn người, chiếm
51,26%, lao động nữ21.631,2 nghìn người, chiếm 48,74%. Như vậy tỷ trọng lao
động nữ trong tổng lực lượng lao động đang có xu hướng giảm.
1.2. V cht lượng lao đng
Ở nước ta, chất lượng lao động của LLLĐ tuy đã có bước chuyển biến đáng kể
do sự cải cách và tăng cường đầu tư trong công tác giáo dục, đào tạo, dạy nghề,
song nhìn chung còn thấp, chưa thể đáp ứng tốt và kịp thời những yêu cầu của công
cuộc đổi mới và quá trình hội nhập. Chất lượng lao động được thể hiện ở một số mặt
sau:
+ Về trình độ học vấn: Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực
sự đem lại những chuyển biến về trình độ học vấn trong cộng đồng người dân, đây
một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào
lOMoARcPSD| 45980359
9
tạo nghề cũng như giải quyết việc làm cho LLLĐ nước ta hiện nay. Xét về tổng
thể thì trình độ học vấn của LLLĐ đã được nâng cao hơn, tỷ lệ lao động tốt nghiệp
trung học sở trung học phổ thông đã tăng đáng kể. Tỷ lệ lao động tốt nghiệp
trung học phổ thông đã tăng từ 17,23% năm 2000 lên 21,2% năm 2005. Tuy nhiên,
tỷ lệ lao động biết chữ nhưng mới đạt trình độ tiểu học và dưới tiểu học còn cao, t
lệ mù chữ cũng còn khá cao. Tình trạng tái mù chữ xuất hiện ở nhiều nơi, nhất là ở
các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, khiến cho tỷ lệ người chưa biết chữ đã tăng lên từ
3,58% năm 2001 lên 5,0% năm 2004. Tuy nhiên tình trạng này đã được cải thiện
bằng việc tích cực thực hiện chủ trương phổ cập tiểu học xóa mù chữ. Đến năm
2005, tỷ lchữ đã giảm xuống còn 4,0%. Tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học
giảm từ 16,48% năm 2000 xuống còn 11, 95% năm 2005. Nhìn vào số lượng tỷ
lệ thì tình hình dường như đã được cải thiện, song về chát lượng thì đây vẫn là vấn
đề có nhiều bất cập.
Trong thực tế còn sự cách biệt khá lớn về trình độ học vấn của LLLĐ giữa
thành thị nông thôn cũng như giữa các vùng, miền lãnh thổ. Năm 2003, khu vực
thành thị, cứ 100 người tham gia LLLĐ thì có 67 người tốt nghiệp phổ thông cơ sở
trở lên, cao gấp 1,5 lần so với chỉ số này khu vực nông thôn. Trong khi đó tỷ lệ
chữ hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học, trong khi Đồng bằng sông Cửu Long có các ch
số tương ứng là: 11, 16 và 33; Tây Bắc là: 12,23 35; ở Tây Nguyên là: 16,26 và
26. Các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ là những vùng
đông dân cư, tiềm năng sản xuất lớn, nhưng tỷ trọng lao động chưa biết chữ cao, tỷ
lệ lao động có trình độ học vấn cấp THCS và THPT còn thấp. Trình độ học vấn của
LLLĐ ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa vẫn thấp hơn nhiều so với các vùng khác.
Đây chính một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng tăng năng suất lao
động và thu hút vốn đầu tư của vùng.
+ Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Những năm gần đây, chât lượng của nguồn
lao động nước ta về phương diện chuyên môn kỹ thuật đã được cải thiện đáng kể, t
lệ lao động được đào tạo tăng lên: từ 19,62% năm 2002 tăng lên 21% năm 2003,
22,5% năm 2004, 24,79% năm 2005. Tuy nhiên đây vẫn là con số ít ỏi so với yêu
cầu của thị trường lao động đang ngày càng phát triển, đặc biệt các vùng kinh
tế trọng điểm, các khu công nghiệp và các khu đô thị tập trung. Nhiều ngành, nhiều
địa phương còn rất thiếu lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong khi
lao động phổ thông, lao động không chuyên môn kỹ thuật còn chiếm một tỷ lệ
lớn. Năm 2005, tỷ lệ lao động phổ thông (chưa qua đào tạo) là 75,21%. Đây là một
trong những mặt yếu kém bất lợi nhất của LLnước ta, thể hiện sức cạnh
tranh của LLLĐ nước ta là yếu so với LLLĐ của nhiều nước trong khu vực.
Thực tế còn cho thấy sự tách biệt lớn về trình độ chuyên môn kỹ thuật của
LLLĐ giữa thành thị và nông thôn cũng như các vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Năm
2005, vùng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất vùng Đông Nam Bộ 37,98%,
Đồng bằng sông Hồng 34,75%, thấp nhất Tây Bắc 13,84%, sau đó vùng Đồng
bằng sông Cửu Long 16,75%.
lOMoARcPSD| 45980359
10
1.3. V tình trng vic làm
Lực lượng lao động đông đảo được bổ sung hàng năm đang đặt ra nhiều vấn đề
cấp bách. Các giải pháp về giải quyết lao động, việc làm đã được thực hiện tích cực
và đạt nhiều hiệu quả. Số lao động có việc làm thường xuyên tăng lên liên tục trong
thời kỳ tnăm 1996 đến nay. Năm 1996, số lao động việc làm thường xuyên
34.907,6 nghìn người, đến năm 2004 tăng lên 40.792,6 nghìn người. (xem bảng
1). Tuy nhiên chất lượng của việc làm mới được tạo ra còn thấp, chủ yếu tập trung ở
khu vực phi kết cấu, phần lớn là lao động giản đơn.
BẢNG 1. S NGƯỜI ĐỦ 15 TUỎI TRỞ LÊN VIỆC M THƯỜNG XUYÊN
Đơn vị: Nghìn người
Năm Tổng số Nữ Thành thị Nông thôn
1996 34907,6 17350,5 6463,6 28444,0
1997 34716,4 17453,9 6858,9 27857,4
1998 36018,3 18079,9 7222,4 28795,9
1999 35731,1 17716,9 7923,8 27807,2
2000 36205,5 17931,5 8185,9 28019,6
2001 37677,4 18638,9 8718,9 28958,5 2002 39289,6 - 9195,5 30094,1
2003 39585,0 - 9533,6 30051,4 2004 40792,6 19604,0 10140,7 30651,9
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm 1996 đến 2004.
* Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành kinh tế:
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã có tiến bộ, song còn khó
khăn chậm chạp. Đến nay đại bộ phận lực lượng lao động vẫn tập trung trong
ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Tỷ trọng lao động trong nông - lâm - ngư nghiệp
chiếm tới 57,90% năm 2004, và 56,80% (đến 1.7.2005), số liệu tương ứng các năm
trong ngành công nghiệp xây dựng 17,4% 17,9%, trong ngành dịch vụ
24,7% và 25,3% trong tổng số lao động có việc làm của cả nước. (xem bảng 2). Tỷ
trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp cao phản ảnh mức độ thu hút lao
động vào các ngành công nghiệp dịch vụ chưa thực sự đủ mạnh để thể làm
thay đổi một cách căn bản cơ cấu lao động xã hội.
BẢNG 2. CƠ CẤU LAO ĐỘNG VIỆC LÀM CẢ NƯỚC THEO NHÓM NGÀNH KINH TẾ
Đơn vị tính:%
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Nông-lâm-ngư nghiệp 62,61 62,76 61,14 58,35 57,90 56,80
Công nghiệp-xây dựng 13,10 14,42 15,05 16,96 17,40 17,9
Dịch vụ 24,28 22,82 23,81 24,69 24,70 25,3
Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển, số 98, năm 2005, tr.21, Báo Lao
động, ngày 18-11-2005
Đặc điểm nổi bật nhất trong cấu lao động việc làm sự chênh lệch lớn
giữa các vùng. Năm 2005, vùng được coi là có cơ cấu lao động tiến bộ nhất là vùng
Đông Nam Bộ (tương ứng với các vùng I, II, III là: 27,8%, 30,9%; 41,3%); vùng có
lOMoARcPSD| 45980359
11
cơ cấu lao động kém phát triển nhất là vùng Tây Bắc với gần 84,87% lao động làm
việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chỉ 5,23% lao động làm việc trong
ngành công nghiệp và xây dựng, và 9,9% làm việc trong ngành dịch vụ.
Mặt khác, sự đóng góp của các khu vực kinh tế vào tốc độ tăng GDP trong
những năm gần đây có chuyển biến theo chiều hướng tích cực song vẫn có sự chênh
lệch lớn, trong đó khu vực I có số lượng lao động nhiều nhất nhưng tỷ lệ đóng góp
lại thấp nhất. Năm 2004, lao động trong khu vực I chiếm 57,9% nhưng chỉ đóng góp
vào tóc độ tăng GDP 0,7%, trong khi hai khu vực kia đóng góp 6,9%; hoặc nếu xét
theo cấu GDP thì năm 2004 khu vực I chđạt 21,76%, trong khi khu vực II đạt
40,09% và khu vực III đạt 38,15%.
* cấu lao động theo thành phần kinh tế cũng những chuyển biến song
chưa phải là lớn. Trong các khu vực thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tạo nhiều
việc làm nhất. Năm 2005, lao động trong khu vực này chiếm 88,8% tổng số việc làm
trong nền kinh tế; sau đó khu vực kinh tế nhà nước chiếm 9,7% khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 1,6%. (xem bảng 3)
BẢNG 3. CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ NĂM 2000-2005
Đơn vị tính:%
2000 2002 2003 2004 2005
Kinh tế nhà nước 9,3 9,5 9,9 10,0 9,7
Kinh tế ngoài nhà nước 90,1 89,4 88,8 88,5 88,8
Khu vực ĐTNN 0,6 1,1 1,3 1,5 1,6
Nguồn: Niên giám thống kê 2004,2005.
1.4. Vn đ tht nghip
Nhìn chung, tình trạng việc làm đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ thất nghiệp
giảm liên tục trên cả nước và ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Năm 2005, tỷ l
thất nghiệp tại thành thị 5,3% (giảm 0,3% so với năm 2004), đặc biệt độ tuổi
15-24 tỷ lnày 13,4% (giảm 0,5% so với 2004). Trong 8 vùng lãnh thổ tvùng
Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất. Bên cạnh đó,
tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn là 80%, tăng 1,6% so với
năm 2004).
Trong các vùng lãnh thổ, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi khu vực
thành thị đã giảm xuống ở 5 vùng là: Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung
Bộ, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, tăng lên các vùng Tây Bắc,
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, thì thất nghiệp không chỉ có ở LLLĐ chưa
qua đào tạo (chiếm 8%) còn các nhóm lao động đã qua đào tạo (tỷ lệ thất
nghiệp của LLLĐ đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; đã tốt nghiệp cao
đẳng, đại học 3,8%). Trong tổng số lao động thất nghiệp thành thị, số người
chưa tìm được việc làm sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp các cơ sở đào tạo chiếm tới
73,7%. Đây cũng một trong những vấn đề quan trọng cần phải quan tâm giải quyết
bởi phần lớn số lao động này những người còn trẻ tuổi, sức khỏe, trình độ
học vấn, có tay nghề...
lOMoARcPSD| 45980359
12
Bên cạnh vấn đề thất nghiệp ở thành thị, vấn đề thời gian lao động ở nông thôn
chưa được sử dụng vẫn là một vấn đề bức xúc. Nếu xét một cách tương đối thì tỷ lệ
thời gian lao động chưa được sdụng khu vực này 20,6%, nếu tính theo số tuyệt
đối thì nghĩa là sẽ có là gần 7 triệu người thiếu việc làm.
1.5. Vn đ di cư lao đng
Thực tế ở nước ta hiện nay do di cư lao động đang là một vấn đề lớn. Di cư từ
nông thôn ra thành thị, từ ngành nghề này sang ngành nghề khác, từ nơi làm việc có
thu nhập thấp sang nơi làm việc có thu nhập cao, từ nơi có ít cơ hội việc làm đến có
nhiều hội việc làm (như các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị tập
trung...). Đây là một quy luật tự nhiên trong quá trình phát triển đến vùng phát triển
hơn, tnông thôn ra thành thị xu hướng gia tăng, khó kiểm soát. Ước tính năm
2004, thành phố Hồ Chí Minh khoảng hơn 80.000 lao động, Nội hơn 20.000
lao động làm việc thường xuyên đến từ các tỉnh khác. Số liệu thống của bộ Lao
động - Thương binh và hội cho thấy số lao động di ra khỏi vùng lãnh thổ đ
kiếm việc làm nơi khác cao nhất Duyên hải Nam Trung Bộ (29,4%), sau đó
Đồng bằng sông Cửu Long (24,1%), thấp nhất Tây Nguyên (0,7%) và Tây Bắc
(0,1%). Trong khi đó khu vực tỷ lệ người lao động đến tìm việc nhiều nhất khu
vực Đông Nam Bộ (68,5%). Đây vùng nhiều hội việc làm mức sống cũng
như mức thu nhập cao hơn các vùng khác.
1.6. V xut khu lao đng
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - hội ý nghĩa quan trọng, góp
phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề tác phong
công nghiệp cho người lao động. Một trong những lợi thế về cạnh trạnh xuất khẩu
lao động của nước ta là nguồn lao động dồi dào, lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ
khá cao trong tổng lao động của toàn hội. Trong những năm gần đây, xuất khẩu
lao động đã những bước tiến đáng kể. Số lượng lao động xuất khẩu thời hạn
đã tăng từ 46.112 người năm 2002 lên 75.000 người năm 2003 giảm xuống còn
67.447 người vào năm 2004. Đến nay, Việt Nam đã trên 400.000 lao động chủ
yếu của Việt Nam là Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Lào... Hàng năm, số
lao động xuất khẩu chuyển về nước khoảng 1,6 tỷ USD. Tuy nhiên, bên cạnh đó lao
động xuất khẩu của ta cũng còn có những hạn chế, đặc biệt là trình độ tay nghề của
người lao động còn thấp, tỷ lệ lao động xuất khẩu được đào tạo nghề còn khá khiêm
tốn. Theo thống của Bộ Lao động - Thương binh và hội, tlệ lao động được
đào tạo nghề trong tổng số lao động tham gia xuất khẩu lao động năm 2002 là 25%,
năm 2003 là 35,5%. Năm 2004, mặc 90% lao động xuất khẩu được đào tạo,
nhưng chỉ gần 50% trong số đó được đào tạo nghề trước khi đi, còn trên 40%
được đào tạo nghề trực tiếp tại nơi làm việc. Đây một trong những bất cập của
công tác đào tạo nghề nâng cao chất lượng lao động, nhất là lao động xuất khẩu
của nước ta.
2. Thc trng lao đng nước ta hin nay
2.1 Lc lượng lao đng: Theo điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2004 lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên cả nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng
lOMoARcPSD| 45980359
13
lao động nhóm tuổi 15 34 tuổi chiếm 46,8%, từ 35 54 tuổi chiếm 35,4%, trên
55 tuổi chiếm 7,8%. Như vậy lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm
xấp xỉ 50% lực lượng lao động điều đó cũng cho thấy được tiềm năng về lao động
ở nước ta là dồi dào.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng lao động thừa mà thiếu đang diễn ra, đây là một
khó khăn lớn cần giải quyết: Theo dbáo của các chuyên gia lao động, năm 2007,
thị trường trong nước tiếp tục khan hiếm lao động cấp cao; lao động bậc trung
phổ thông tại c khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) ng thiếu, cụ thể
như sau:
Tại TP.HCM, trung m kinh tế lớn nhất của cả nước, trong năm 2007, 15 KCN,
KCX của Thành phố cần tuyển 51.750 lao động, trong đó 38.295 lao động phổ thông.
Còn tại Bình Dương, theo bà Nguyễn Hoài Nam, Trưởng phòng Quản lao động
các KCN Bình Dương, trong năm 2007, nhu cầu tuyển dụng lao động tại các KCN
là 20.000 người. Trong đó, lao động phổ thông chiếm 85%, số còn lại tập trung vào
lao động có tay nghề trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học.
Phản ánh từ các trung tâm giới thiệu việc làm (GTVL) TP.HCM cho thấy, quý
I/2007, nhu cầu tuyển dụng lao động, nhất là lao động phổ thông tăng vọt, nhưng s
ứng viên đến đăng tìm việc làm lại giảm. Sự khan hiếm lao động này gây khó
khăn cho các doanh nghiệp, nhưng đó lại tín hiệu tốt, khi các doanh nghiệp phải
cạnh tranh gay gắt để thu hút giữ chân người lao động, thì họ buộc phải tăng
cường cải thiện đời sống và sinh hoạt cho người lao động. Từ đó, người lao động có
thể yên tâm làm việc lâu dài, với mức thu nhập có thể trang trải được cuộc sống tốt
hơn.
Dịch chuyển lao động các KCX, KCN tại TP.HCM đã và đang ngày càng rõ
nét, tạo ra những nguy về thiếu hụt lao động khi cân đối lại các ngành nghề. Theo
phân tích của Ban Quản lý các KCX-KCN TP.HCM (HEPZA), những năm tới, nhu
cầu lao động sẽ thay đổi theo từng ngành nghề, theo hướng giảm dần các ngành thâm
dụng lao động trình độ thấp, ưu tiên các ngành sản xuất công nghệ cao sử dụng nhiều
công nhân lành nghề, lao động kỹ thuật bậc cao.
Ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm GTVL TP.HCM cho biết, qua
khảo sát 2.300 doanh nghiệp đóng trên địa bàn, các nhóm ngành: kthuật - công
nghệ phục vụ sản xuất, điện tử - viễn thông, cơ khí chính xác, công nghệ - thông tin,
chế biến thực phẩm cần 30% lao động lành nghề; các nhóm ngành quản trị kinh
doanh, tiếp thị, quảng cáo, kế toán, ngân hàng, dịch vdu lịch cần 30%; 40% còn
lại tập trung vào công nhân tay nghề, lao động phổ thông các ngành may, giày da,
chế biến thực phẩm.
Nhiều ý kiến cho rằng, nếu doanh nghiệp quan tâm đến mức lương và đời sống
của người lao động hơn sẽ góp phần hạn chế người lao động bỏ việc. Theo nhận định
của ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó vụ trưởng VQuan hệ quốc tế (Bộ Lao động
Thương binh hội), đối với nhân lực cao cấp, các doanh nghiệp phải thực sự
nhập cuộc, bởi cuộc chiến giành nhân tài giữa các doanh nghiệp càng trở nên khốc
liệt. vậy, để tránh áp lực thiếu hụt, mất cân đối về lao động, các doanh nghiệp
phải lộ trình cho kế hoạch đào tạo, phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh
lOMoARcPSD| 45980359
14
theo từng thời điểm; xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa để đem lại sự phát triển
bền vững.
2.2 Phân b lc lượng lao đng: Trong tổng số lực lượng lao động hiện có thì
tỷ lệ lao động khu vực thành thị chiếm 24,6%, lao động khu vực nông thôn
75,5%. Phân bổ lao động hiện nay cho thấy sự chuyển dịch về cơ cấu lao động chưa
tương thích với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 5 năm qua. Trong 5 năm qua tỷ
trọng ngành nông nghiệp xấp xỉ 21,6% GDP nhưng lực lượng lao động lớn, điều đó
cho thấy hiệu quả sử dụng lao động ở khu vực nông thôn, nông nghiệp thấp và càng
tạo sức ép về giải quyết việc làm ở khu vực này.
Mặt khác, sự phân bố lao động chủ yếu tập trung 3 vùng: Đồng bằng sông
Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long Đông Nam Bộ - 2 vùng Tây Bắc Tây Nguyên
chưa thu hút lao động.
Sự phân bổ lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm năng
của các vùng đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó. Chẳng
hạn: 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên lớn, có thể
phát triển sản xuất những loại cây đặc sản giá trị kinh tế cao (cây công nghiệp,
cây ăn quả…) nhưng lao động 2 lĩnh vực này chỉ chiếm 8,8% (xét về mặt lượng,
về mặt chất lại còn vấn đề bức xúc hơn). Vì vậy, sự phát triển kinh tế khu vực
này còn gặp nhiều khó khăn trong đó có khó khăn lớn thiếu nguồn nhân lực có trình
độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của vùng.
2.3 Cht lượng lao đng: Nhìn vào số liệu về phân bổ lực lượng lao động giữa
các khu vực cũng đã phần nào nói lên chất lượng lao động nước ta. Phần lớn lao
động khu vực nông thôn chưa qua đào tạo, hoặc đào tạo không bản, trình độ
văn hóa thấp. Vì trên thực tế hiện nay yêu cầu lao động đây cũng chủ yếu lao
động phổ thông chính, những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao ở khu vực này chưa
phát triển.
Hiện nay lực lượng đã qua đào tạo (tính lao động được đào tạo từ 3 tháng trở
lên) trong cả nước chiếm 25%, lao động từ bậc tiểu học trở xuống chiếm 42,5%, lao
động chữ 5%. Trình độ đào tạo của Việt Nam còn nhiều bất cập so với yêu cầu
phát triển kinh tế - hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng.
vậy, nhu cầu lao động có chất lượng cao (tức lao động có trình độ chuyên môn cao,
tác phong lao động công nghiệp, ý thức, kỷ luật cao) ngày càng tăng. Mặt khác,
từ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh kinh tế thế giới thì
vấn đề chất lượng lao động ở nước ta trở thành một vấn đề bức xúc của nền kinh tế
và là nguyên nhân cơ bản của tình trạng lao động thiếu việc làm hiện nay. Chúng ta
vẫn thường nói: lao động ở nước ta n dư thừa, điều ấy là đúng nhưng chưa đủ, ta
chỉ thừa lao động phổ thông (lao động không tay nghề) nhưng lại rất thiếu
những lao động trình độ chuyên nghiệp, tay nghề giỏi, thiếu những lao động
nghiên cứu khoa học để ứng dụng thành tựu đó là phát triển kinh tế - xã hội cho đất
nước.
lOMoARcPSD| 45980359
15
2.4 Tác đng ca WTO đi vi vic làm ti Vit Nam
Tác động của gia nhập WTO đối với việc tạo thêm việc làm thể hiện 3 khu
vực: Thứ nhất khu vực đầu nước ngoài dưới tác động của các điều khoản về
đầu tư; thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là
những ngành sử dụng nhiều lao động, dưới tác động của các điều khoản về thương
mại; thứ ba tại các khu vực tuy không giao thương quốc tế trực tiếp nhưng do
việc gia tăng giao thương quốc tế ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về
hàng hóa – dịch vụ mà có tác dụng tăng nhu cầu lao động, tức là tạo thêm việc làm.
Đối với khu vực đầu nước ngoài, do hiện nay nước ta đã Luật đầu nước
ngoài tại Việt Nam tạo điều kiện thông thoáng, môi trường đầu ngày càng được
cải thiện và nước ta đã ký được nhiều Hiệp định thương mại song phương, đặc biệt
với Hoa Kỳ, nên đầu nước ngoài vào Việt Nam vẫn tăng tương đối đều đặn
trong những năm qua. Bởi vậy, dự báo sự thay đổi về đầu nước ngoài trước và sau
khi Việt Nam gia nhập WTO thể không lớn nên việc làm mới được tạo ra trong
khu vực này có thể tăng từ 2 8% nâng tổng số việc làm được tạo nên hàng năm lên
khoảng 3 4%. Ngoài số việc làm được tạo ra trực tiếp từ vốn FDI, phải kể đến cả
số việc làm tăng lên gián tiếp từ đầu nước ngoài, dụ như những cơ sở cung cấp,
những nhà thầu phụ, những nhà cung cấp dịch vụ….
Sự gia tăng việc làm mới có thể rõ hơn trong những ngành nghề làm hàng xuất
khẩu; trong đó những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn sử dụng nhiều
lao động như ngành dệt may, giày dép, nuôi trồng chế biến thủy sản, thủ công m
nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp công nghiệp như lúa, phê, hạt điều cao
su, cây ăn quả…
Ngoài hai khu vực nói trên, việc làm mới cũng sẽ được tạo ra ở những khu vực
khác. Việc gia tăng giao dịch thương mại đầu quốc tế sẽ làm thu nhập của
người dân tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong ngoài nước tăng.
Những yếu tố này sẽ ch thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng lẫn
về chất. Đây chính là yếu tố kích cầu hàng hóa và dịch vụ tại thị trường trong nước.
Ngoài tác động tích cực, đối với tạo việc làm mới, việc gia nhập WTO cũng
buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh,
cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng suất, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn
lực, kể cả nguồn lực lao động.
Việc gia nhập WTO cũng đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh
cấu lao động hội sao cho hiệu quả nhất đối với nền kinh tế; việc gia nhập
WTO sẽ giúp Việt Nam tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tđó
hình thành một cấu kinh tế - hội hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến
trình hiện đại hóa.
Nói tóm lại lực lượng lao động ở nước ta đông nhưng không mạnh, sự phân
bổ và sử dụng lao động còn nhiều điều bất hợp lý với một nền kinh tế chuyển đổi
và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH.
3. Nhng vn đ đt ra v lao đng, vic làm và hướng gii quyết
* Sự mất cân đối giữa cung và cầu về lao động trên các mặt sau đây:
lOMoARcPSD| 45980359
16
- Về chất lượng đội ngũ lao động: Do yêu cầu của tiến trình công nghiệp
hóa,hiện đại hóa hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi lao động chất lượng cao ngày
càng lớn. Nhưng trên thực tế đội ngũ lao động của chúng ta đang hụt hẫng trước yêu
cầu đó. Chúng ta vừa thiếu cả thầy và thiếu cả thợ, khác một số ý kiến cho rằng Việt
Nam “thừa thầy thiếu thợ”. Chúng ta “thiếu thầy” tức thiếu đội ngũ cán bộ quản
các chuyên gia giỏi để vận hành nền kinh tế hiệu quả; “thiếu thợ” thiếu
đội ngũ công nhân lành nghề, tính chuyên nghiệp cao. Vì vậy, vấn đề nâng cao
chất lượng đội ngũ lao động trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược giải quyết
việc làm nước ta. vừa điều kiện tiền đề để giảm thất nghiệp và cải thiện
đời sống cho người lao động.
- Về cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm đang sự mất
cânđối lớn xét theo ngành, vùng kinh tế. Điều đó được thể hiện sự phân bổ lao
động bất hợp giữa các ngành, vùng kinh tế, đẩy đến tình trạng một số ngành
vùng kinh tế lao động dôi dư, tỷ llao động thất nghiệp cao. Hiện tượng lao động
các khu vực nông thôn ra tìm việc làm thành thị đã minh chứng cho điều đó.
Ngược lại một số ngành (ngành có kỹ thuật cao) thiếu lao động buộc chúng ta thuê
lao động nước ngoài. Để sử dụng lao động hiệu quả thì việc chuyển dịch cấu
lao động là yêu cầu quan trọng trong chính sách lao động – việc làm hiện nay.
- Về cấu đào tạo nguồn nhân lực: cấu đào tạo ảnh hưởng trực tiếp
cơcấu lao động theo trình độ, nghề nghiệp chuyên môn. Thực tế trong thời gian qua
chúng ta thường chú ý đến đào tạo những ngành nghề có chi phí đào tạo thấp (ít thí
nghiệm, ít thực hành…) như các ngành kinh tế, luật (chiếm 43% số sinh viên đào
tạo), còn các ngành khoa học kỹ thuật chỉ chiếm 25,5%. Điều này chưa tương thích
với yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Tình trạng đó làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lao
động bậc đại học xấp xỉ tới 4%, nhiều cử nhân kinh tế, luật phải làm việc không
theo đúng ngành nghề được đào tạo….
* Thị trường lao động nước ta chưa phát triển (đặc biệt khu vực
nôngthôn); cung cầu về lao động chưa được giải quyết qua thị trường. Điều đó cũng
ách tắc cho việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động việc làm bởi nguồn nhân
lực và khả năng tiếp cận nguồn nhân lực không có môi trường để thực hiện. Vì vậy,
phát triển thị trường lao động để lực lượng lao động được xã hội hóa đặc biệt là lao
động có trình độ cao, để đảm bảo sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả và giải quyết
được những mâu thuẫn giữa lao động và việc làm.
* Giải quyết việc làm: Giải quyết việc làm nước ta trong những năm
quatheo hướng tập trung giải quyết việc làm cho lực lượng lao động chưa qua đào
tạo, vì vậy tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động (giày da, dệt may,
chế biến thủy sản….). Đây không phải những ngành lợi thế trong cạnh tranh,
cũng không phải những ngành nền tảng hoặc ngành tiềm năng của nền kinh tế Việt
Nam. Bởi ngành dệt may, giày da nước ta hiện nay 80% nguyên liệu để sản xuất
nhập ngoại. vậy, nếu chiến lược phát triển lao động, việc làm vẫn theo đuổi
hướng đó sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam trì trệ, tụt hậu hơn. Do đó, hướng giải
quyết việc làm trong giai đoạn tiếp theo cần thu hút lực lượng lao động vào các
ngành lợi thế cạnh tranh (những ngành đưa lại hiệu quả kinh tế cao) những ngành
nền tảng những ngành tiềm năng của nền kinh tế. Phát triển một số ngành khác
lOMoARcPSD| 45980359
17
sử dụng nhiều lao động phổ thông nên gắn với những ngành sử dụng nguyên liệu
sản xuất ra từ trong nước (các ngành công nghiệp chế biến thủy sản, hàng nông sản
phẩm….). Điều đó, một mặt sẽ giải quyết lao động tại chỗ, mặt khác thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển bền vững và đưa lại lợi ích cho quốc gia nhiều hơn.
* Lao động dôi ra từ việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước
trongthời gian qua cũng một trong những nhân tố tác động lớn đến lao động – việc
làm của nền kinh tế. Hiện nay có khoảng hơn 10 vạn lao động dôi dư khi thực hiện
việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung lực lượng lao động
này khả năng phát triển rất hạn chế, tuy nhiên họ vẫn nằm trong lực lượng lao động
của quốc gia. Hướng giải quyết lực lượng lao động đó việc khuyến khích phát
triển nhiều thành phần kinh tế để họ thể tự nguyện tham gia lao động phù hợp với
khả năng của họ (tức là hướng giải quyết chủ yếu để họ tự tìm và tạo việc làm).
Từ bức tranh lao động việc làm nước ta hướng giải quyết bản cần tập
trung vào những vấn đề sau:
- Đào tạo nguồn nhân lực: Đây bước đi căn bản đầu tiên, đặt nền tảng
choviệc giải quyết việc làm ổn định, bền vững. Đặc biệt chú ý đến chất lượng đào
tạo, cấu đào tạo gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - hội. Công tác đào
tạo phải hướng tới mục tiêu chuyển thế hệ lao động nông nghiệp sang lao động công
nghiệp (lao động kỹ thuật, kỷ luật). Để thực hiện được mục tiêu đó một quá
trình lâu dài lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn nhất định, không thể nóng
vội, đốt cháy giai đoạn.
- Đầu hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - hội để
đadạng hóa mô hình tạo việc làm, chú ý tạo việc làm tại chỗ trên cơ sở chuyển dịch
cấu kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định trật tự an toàn xã hội.
Mặt khác, phải phát triển các ngành khoa học kỹ thuật cao để thu hút lao động
chất lượng để tăng thu nhập và khuyến khích người lao động ý thức nâng cao
trình độ. Đây một trong những yếu tố tạo sự ổn định và phát triển bền vững đối
với lao động và việc làm.
- Phát triển thị trường lao động: phát triển thị trường lao động đ lao
độngđược xã hội hóa, người lao động được quyền tham gia trao đổi sức lao động
trên thị trường theo quan hệ kinh tế thị trường. Điều đó vừa đảm bảo lợi ích cho
người lao động, vừa tạo động lực thúc đẩy chất lượng đội ngũ lao động. Trong những
năm tới hướng giải quyết khá tích cực đối với lao động, việc làm ở nước ta mở rộng
và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động.
Lao động việc làm vấn đề tính hội cao, đòi hỏi sự kết hợp nỗ lực giữa
nhà nước, cộng đồng xã hội, gia đình và cá nhân người lao động khi giải quyết tháo
gỡ các khó khăn.
5. Nhng khó khăn ca doanh nghip v tuyn dng lao đng
- Các doanh nghiệp Việt Nam chọn nhân sự quản với những đòi hỏi
caokhông kém công ty nước ngoài nhưng mức lương đãi ngộ thì chưa bằng. Đó
do đầu tiên làm cho các công ty Việt Nam, đặc biệt là những công ty vừa
nhỏ, khó thắng cuộc đua tuyển dụng quản lý. Nhìn chung, mặt bằng lương quản
lOMoARcPSD| 45980359
18
ở các công ty này thấp hơn các công ty nước ngoài khoảng 30 - 50%. Đây thật sự là
một khoảng cách đủ để chuyển hướng quan tâm của các ứng viên khi chọn nơi làm
việc, trong cuộc cạnh tranh về nhân sự cao cấp hiện nay, phần thắng đang nghiêng
về các công ty có vốn đầu tư nước ngoài với chính sách lương bổng và phúc lợi cao
hơn các doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ điển hình như: Theo ông Trương Chí Dũng
- Cty IT Solution, cho biết các doanh nghiệp phần mềm quy nhỏ đang " bãi
đáp tạm" của sinh viên ngành công nghệ thông tin mới ra trường.
Từ đó họ trưởng thành và sẽ rời bỏ cái nôi ban đầu này để đi đến với các "đại gia".
Thậm chí, việc này trở thành lộ trình thăng tiến rất bài bản.
- Các doanh nghiệp không đi tìm những người lao động chung chung, mà
đitìm những người lao động với trình độ ngành nghề và kỹ năng làm việc sáng tạo,
hiệu quả. Đây là khó khăn lớn nhất khiến cả cộng đồng doanh nghiệp lên tiếng hiện
nay là các doanh nghiệp không thể tuyển được người giỏi, không thể tuyển được lao
động chất xám vì... không để tuyển. dụ như nhiều doanh nghiệp hiện
nay đã đưa ra mức lương sau thuế từ 1.500 USD/ tháng trở lên, thậm chí đạt đến
mức 5.000 - 10.000 USD/tháng cùng hàng loạt ưu đãi, phúc lợi để chiêu dụ nhân tài
với những vị tnhư trưởng phòng kế hoạch, trưởng phòng thí nghiệm, trưởng phòng
kinh doanh, trưởng phòng kỹ thuật... song cũng chưa hẳn tìm được người. Thị trường
lao động đang khan hiếm tất cả các loại giám đốc, chuyên gia trên mọi lĩnh vực.
Thậm chí, những người giỏi nhất về marketing trên thị trường hiện nay chỉ "đếm
được trên đầu ngón tay". Với những vị trí cao cấp như vậy, nhiều Cty phải giành giật
nhau để có được người tốt nhất.
lOMoARcPSD| 45980359
19
lOMoARcPSD| 45980359
20
KT LUN
Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá đối với một quốc gia nói chung
đối với từng doanh nghiệp nói riêng, nhất là trong gia đoạn hội nhập với khu vực
quốc tế như hiện nay áp lực về sức cạnh tranh đối với từng doanh nghiệp ngày
càng gay gắt họ luôn tìm cách đsăn tìm những con người trình độ chuyên
môn giỏi về mình bằng nhiều hình thức khác nhau.
Ở nước hiện nay đang sở hữu nguồn nhân lực trẻ rất dồi dào, lượng lao động từ
15 tuổi trở lên cả nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng lao động ở nhóm
tuổi 15 34 tuổi chiếm 46,8%, từ 35 54 tuổi chiếm 35,4%, trên 55 tuổi chiếm
7,8%. Như vậy lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm xấp xỉ 50% và
chất lượng của nguồn lao động về phương diện chuyên môn kỹ thuật đã được cải
thiện đáng kể, tỷ lệ lao động được đào tạo tăng lên: t19,62% năm 2002 tăng lên
21% năm 2003, 22,5% năm 2004, và 24,79% năm 2005. Đây là lợi thế của nước ta
và đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh nguồn cung lao động trẻ dồi dào
đó chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn đó chất lượng lao động, sự phân bố lao động
bất hợp lý giữa thành thị và nông thôn.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu của doanh nghiệp
không còn là lao động đơn giản mà là lao động có trình độ chuyên môn đã qua đào
tạo. Do đó với nguồn lao động nước ta hiện nay so với yêu cầu là chưa đáp ứng đủ
về nguồn nhân lực trình độ chuyên môn đã qua đào tạo, đặc biệt nguồn nhân
lực có chuyên môn giỏi. Như vậy giải pháp nào để cải thiện chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu hiện nay khi với sự phát triển của khoa học công nghệ
nhất là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin?
* Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lục
Trước mắt, Nhà nước cần chính sách đặc biệt để khuyến khích cho kiến thức,
chất xám của thế giới vào Việt Nam càng nhiều càng tốt. Trải "thảm đỏ" để đón chất
xám của thế giới vào Việt Nam qua các kênh như: tư vấn, giảng dạy, làm việc...
nhiều ưu đãi đặc biệt cho đội ngũ chất xám đến làm việc tại Việt Nam như ưu đãi về
thuế, về nơi ăn, chốn ở... Cho phép thành lập các học viện, trường đại học, các viện
nghiên cứu để đón kiến thức, kinh nghiệm của thế giới vào Việt Nam. Hơn nữa, hiện
nay chúng ta đang hàng triệu Việt kiều, trong đó lượng chất xám rất cao. Do đó,
nhà nước phải chính sách kêu gọi, " trải thảm đỏ" đón tri thức Việt kiều chân
chính về nước.
Hiện nay nước ta rất ít trường, trung tâm thực sự chất lượng trong lĩnh vực
đào tạo nguồn lao động cao cấp. Ngay cả công nhân kỹ thuật tay nghề cao cũng
không được đào tạo nền tảng chỉ được góp nhặt, chắp vá từ những lao động
phổ thông được chủ doanh nghiệp cho đi bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ. Trường
dạy nghề, trung tâm dạy nghề mọc lên khắp nơi nhưng chương trình đào tạo không
đáp ứng được mặt bằng kỹ thuật hiện tại, không theo kịp tiến độ phát triển công nghệ
cao của thế giới. Do đó Nhà nước phải hỗ trợ kinh phí đầu cho nguồn lao động
cao cấp này, tạo điều kiện để đưa ra nước ngoài đào tạo nếu cần thiết.
Trước tình trạng khan hiếm lao động chất xám, để tcứu mình, các doanh
nghiệp cần thiết lập mối quan hệ với các trường đại học, cao đẳng... để tham gia ý
| 1/22

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45980359 MỞ ĐẦU
Bất cứ một chương trình phát triển kinh tế xã hội nào của một đất nước, một địa
phương, hay một doanh nghiệp thì sự thành hay bại thường xuất phát từ một số yếu
tố cơ bản như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ và lao động. Trong các yếu tố
cơ bản quan trọng này thì việc quyết định sự phát triển kinh tế xã hội đó chính là
nhân tố con người. Đây cũng là yếu tố đầu vào quan trọng đối với mọi doanh nghiệp
hiện nay. Nếu trình độ nghề nghiệp của người lao động thấp thì tài nguyên, vốn và
công nghệ cũng sẽ trở thành lãng phí và tất yếu dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Do
tính quan trọng này, để làm rõ vấn đề em chọn chủ đề “Vấn đề sử dụng nguồn nhân
lực hiện nay ở Việt nam”.
Mục tiêu chung của tiêu luận là: đánh giá thực trạng sử dụng nguồn nhân lực ở Việt nam hiện nay.
Mục tiêu cụ thể: Tổng quát về tình hình lao động ở Việt nam hiện nay; Phân
tích thực trạng sử dụng nguồn nhân lực.
Để đạt mục tiêu nêu trên, phương pháp nghiên cứu được áp dụng là: phương
pháp thu thập số liệu, thông tin từ tạp chí, internet; phương pháp thống kê và phân tích định tính.
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì đòi hỏi phải có đội ngũ
lao động kỹ thuật với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Ở nước ta lực lượng
lao động khá dồi dào, có trình độ học vấn căn bản làm cơ sở cho việc đào tạo nghề
nghiệp và nhanh chóng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới, sẵn sàng để được tham gia
vào các chương trình kinh tế xã hội của địa phương, kể cả tham gia xuất khẩu lao
động và người lao động hầu hết họ đều cần cù, chịu khó làm việc, có ý thức học hỏi
và chấp hành nội quy, chấp hành luật pháp khá nghiêm túc. Đây chính là nguồn lực
ban đầu cần thiết cho những quyết định đầu tư trong nước cũng như kêu gọi hợp tác
đầu tư của nước ngoài vào các dự án phát triển kinh tế. Nhưng để nguồn nhân lực đó
trở thành nội lực thực sự mạnh cho việc gọi vốn, thu hút công nghệ, khai thác tiềm
năng thiên nhiên thì phải đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đào tạo nghề nghiệp cho
người lao động. Vì hiện nay trình độ qua đào tạo lành nghề ở nước ta còn thấp như
vậy thì khó có thể tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng vốn, công nghệ và khai thác
tiềm năng, càng khó khăn để cạnh tranh về chất lượng hàng hóa và càng khó cho
việc giải quyết việc làm.
Ở nước ta mỗi năm có khoảng có 1,2 triệu người đến tuổi lao động và được bổ
sung vào lực lượng lao động của đất nước. Thế nhưng số lượng lao động thì được
bổ sung mà chất lượng thì lại hạn chế. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn,
chưa qua học nghề bài bản, thiếu tác phong công nghiệp..v.v.v, nên nhiều doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều lao động lại không tuyển được hoặc tuyển dụng rồi
mà chưa hài lòng về chất lượng. Mặc khác, hiện nay Việt Nam chính thức đã gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và sẽ mở cửa thị trường rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực. Đối với lao động Việt Nam thì hiện nay mới chỉ có 25% trong số 42
triệu lao động qua đào tạo; khoảng 80% thanh niên (18 – 23 tuổi) bước vào thị trường
lao động chưa qua đào tạo nghề; dư thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật
lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý, cán bộ hành chính, cán bộ 1 lOMoAR cPSD| 45980359
quản lý chất lượng cao, cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao. Chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 so với 5,78/10 của Trung Quốc và
4,04/10 của Thái Lan, đây là những thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam.
Bên cạnh đó gia nhập WTO đồng nghĩa việc Việt Nam gia nhập chuỗi phân công lao
động toàn cầu. Do có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào và giá nhân công rẻ, trong ngắn
hạn, Việt Nam có lợi thế so sánh về việc làm ở các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở yếu tố lao động rẻ thì sẽ không thể biến thế mạnh đó thành
cơ hội. Ngoài ra yếu tố lao động rẻ chỉ có lợi thế đối những ngành kinh tế sử dụng
nhiều lao động, không là lợi thế đối với những ngành kinh tế sử dụng công nghệ cao
hoặc ngành sử dụng nhiều vốn.
Đối với doanh nghiệp, gia nhập WTO buộc các doanh nghiệp của Việt Nam
phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng
suất, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, kể cả nguồn lực lao động. Sức ép
sẽ ngày càng tăng, nhất là đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Việc phát triển nguồn
nhân lực là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu. Các chủ doanh nghiệp đều
cảm nhận được rằng, nền kinh tế ngày càng phát triển quá trình hội nhập quốc tế
ngày càng rộng mở thì việc thu hút nhân lực có trình độ càng cạnh tranh gay gắt nhất
là trong tình hình hiện nay khi Việt Nam gia nhập WTO những tập đoàn quốc gia
với lợi thế cạnh tranh về chính sách đãi ngộ, sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước vào chỗ khó khăn hơn, phải đương đầu với cuộc chiến giành giật nhân tài.
Chúng ta đang bước vào thế kỷ XXI, với dự báo là trình độ khoa học kỹ thuật
thế giới sẽ phát triển như vũ bão và đất nước ta cũng trên đường tiến mạnh lên công
nghiệp hóa hiện đại hóa. Để giành được mục tiêu đó, có lẽ một trong những việc
phải được ưu tiên đầu tư đó là xây dựng nguồn nhân lực trong đó cần thiết phải trang
bị và không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, xem đó là
điểm tựa của hệ thống đòn bẩy để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là đầu tư cho phát
triển, một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cho lâu dài về sau.
Có thể nói, trình độ lao động hay chất lượng của nguồn nhân lực là yếu tố quyết định
nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho doanh nghiệp nói riêng. CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC SỬ DỤNG YẾU TỐ ĐẦU VÀO CỦA SẢN XUẤT
1. Sản xuất là gì?
Sản xuất là hoạt động tạo ra sản phẩm - dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm
đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Nói cách khác, sản xuất là quá trình chuyển
hoá giữa các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra (hay sản phẩm). Thực tế cho
thấy rằng cách thức đối với các loại sản phẩm khác nhau là không giống nhau. Tuy 2 lOMoAR cPSD| 45980359
nhiên, đối với các loại hàng hoá để sản xuất ra một sản lượng nhất định thì cần phải
có một yếu tố ban đầu nào đó.
1.1 Yếu tố đầu vào (yếu tố sản xuất) và yếu tố đầu ra (sản phẩm)
Yếu tố đầu vào (hay còn gọi là yếu tố sản xuất) là các loại hàng hoá - dịch vụ
được dùng để sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ khác. Yếu tố đầu vào bao gồm lao động,
máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, năng lượng....hàng hoá và dịch vụ là
những yếu tố đầu ra (hay sản phẩm) của quá trình sản xuất. Yếu tố đầu ra được đo
lường bởi sản lượng.
Mỗi yếu tố sản xuất cụ thể sẽ cần những yếu tố đầu vào riêng. Vì vậy, để nghiên
cứu một quá trình sản xuất tổng quát, các nhà kinh tế chia các yếu tố đầu vào theo
tiêu thức chung nhất của mọi quá trình sản xuất thành lao động và vốn.
1.2 Hàm sản xuất
Mối quan hệ giữa số lượng các yếu tố đầu vào và số lượng sản phẩm (sản lượng)
của quá trình sản xuất được biểu diễn bằng hàm sản xuất. Hàm sản xuất của một loại
sản phẩm nào đó cho biết sản lượng tối đa của sản phẩm đó (ký hiệu là q) có thể
được sản xuất ra bằng cách sử dụng các phối hợp khác nhau giữa vốn (K) và lao
động (L) ứng với một trình độ công nghệ nhất định trong một khoảng thời gian nào đó.
Hàm sản xuất thông thường được viết như sau: q f K L ,
Trong đó: q là sản lượng tối đa có thể được sản xuất ra ở một trình độ công nghệ
nhất định với số lượng lao động là L và số lượng vốn là K. sản lượng q thay đổi tuỳ
thuộc vào sự thay đổi của vốn và lao động. Hàm sản xuất chỉ có ý nghĩa đối với
những giá trị không âm của K và L. Thông thường hàm sản xuất được giả định
là hàm số đồng biến với vốn và lao động, nghĩa là q 0 và q 0 trong miền K L
xác định của nó vì trong một chừng mực nhất định khi sử dụng nhiều yếu tố đầu vào
hơn, nhà sản xuất sẽ sản xuất ra sản lượng cao hơn.
Hàm sản xuất áp dụng cho một trình độ công nghệ nhất định. Một hàm số f cụ
thể có thể đặc trưng cho một trình độ công nghệ nhất định. Khi công nghệ được cải
tiến thì hàm sản xuất sẽ thay đổi và sản lượng sẽ lớn hơn với cùng số lượng các yếu
tố như trước hay thậm chí ít hơn. 3 lOMoAR cPSD| 45980359
2. Năng suất biên và năng suất trung bình
2.1 Năng suất biên (MP)
Năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó (vốn hay lao động) là lượng sản
phẩm tăng thêm được sản xuất ra do sử dụng thêm một đơn vị yếu tố sản xuất đó,
nếu các yếu tố khác là không đổi. Như vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần
lượt là đạo hàm riêng của sản lượng (q) theo số lượng vốn (K) và số lượng lao động (L):
MPK q q fKMPL q q fL K K L L
Trong đó: MPK và MPL lần lượt là năng suất biên của vốn và lao động.
Như vậy, năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó chính là đạo hàm riêng
của hàm số tổng sản lượng (hay hàm sản xuất) theo số lượng yếu tố sản xuất đó. Về
mặt hình học, năng suất biên là độ dốc của đồ thị hàm sản xuất (hay đường tổng sản
lượng) tại từng điểm của đồ thị.
2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần
Quy luật năng suất biên giảm dần: Nếu số lượng của một yếu tố sản xuất tăng
dần trong khi số lượng các yếu tố sản xuất khác giữ nguyên thì sản lượng sẽ tăng
nhanh dần (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng lớn). Tuy nhiên,
vượt qua một mốc nào đó thì sản lượng sẽ gia tăng chậm hơn (nghĩa là năng suất
biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng nhỏ nhưng vẫn còn dương). Nếu tiếp tục gia
tăng số lượng yếu tố sản xuất đó thì tổng sản lượng đạt đến mức tối đa (năng suất
biên bằng không) và sau đó sẽ sút giảm (năng suất biên ngày càng nhỏ và mang giá trị âm).
Đứng trên phương diện toán học, quy luật năng suất biên giảm dần tương ứng
với giả định là đạo hàm riêng bậc hai của hàm sản xuất là âm.
MPKK K2q fKK 0 và
MP L 2q2 fLL 0 2 L L
Trong phân tích sản xuất, ta giả định rằng chất lượng của từng đơn vị của một
yếu tố sản xuất nào đó là như nhau. Năng suất biên giảm dần là kết quả của việc hạn
chế sử dụng các đầu vào cố định khác. Quy luật năng suất biên giảm dần tác động
đến hành vi và quyết định của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố sản xuất
để tăng năng suất, giảm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận.
2.3 Năng suất trung bình (AP)
Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất nào đó được tính bằng cách lấy
tổng sản lượng chia cho số lượng yếu tố sản xuất đó. q q
Công thức tính năng suất trung bình: APL APK , trong đó: APL và L K 4 lOMoAR cPSD| 45980359
APK lần lượt là năng suất trung bình của lao động và của vốn.
Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất giảm xuống khi năng suất biên
thấp hơn năng suất trung bình và ngược lại năng suất trung tăng lên khi năng suất
biên lớn hơn năng suất trung bình.
2.4 Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng
Mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu vào và sản lượng được quyết định bởi
công nghệ sản xuất. Hay nói cách khác, công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất ra
hàng hoá - dịch vụ. Công nghệ được cải tiến khi có những phát minh khoa học mới
được áp dụng vào sản xuất. Công nghệ tiến bộ sẽ giúp sử dụng tài nguyên hiệu quả
hơn. Điều này có nghĩa là công nghệ mới có thể giúp sản xuất ra nhiều sản phẩm
hơn với cùng số lượng các yếu tố đầu vào như trước hay thậm chí ít hơn. Với công
nghệ mới, máy móc thiết bị có năng suất cao hơn và công nhân có thể đạt năng suất
cao hơn. Những điều này làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vì vậy, công
nghệ sản xuất thường được xem như là một yếu tố phản ánh trình độ phát triển của
nền kinh tế về phương diện sản xuất.
3. Đường đẳng lượng
3.1 Đường đẳng lượng
Các kết hợp của các yếu tố đầu vào tạo ra cùng một sản lượng sẽ được biểu diễn
trên một đường đẳng lượng.
Đường đẳng lượng cho biết các kết hợp khác nhau về mặt số lượng của vốn (K)
và lao động (L) để sản xuất ra một số lượng sản phẩm nhất định q0 nào đó.
Phương trình của đường đẳng lượng:
f K L , q0 hay K g q 0, L 5
Các đặc điểm của đường đẳng lượng: -
Tất cả những phối hợp khác nhau giữa vốn và lao động trên một đường
đẳnglượng sẽ cho ra một mức sản lượng như nhau. -
Tất cả những phối hợp về mặt số lượng của vốn và lao động nằm trên
đườngđẳng lượng phía trên (phía dưới) mang lại mức sản lượng cao hơn (thấp hơn). -
Đường đẳng lượng dốc xuống về hướng bên phải và lồi về phía gốc toạ độ. -
Những đường đẳng lượng không bao giờ cắt nhau.
Trên một hệ trục ta có thể vẽ ra rất nhiều đường đẳng lượng tuỳ theo sản lượng.
Các nhà sản xuất sẽ linh hoạt sử dụng những kết hợp đầu vào tạo ra cùng một sản
lượng nhưng họ sẽ chọn tập hợp có chi phí thấp nhất khi xét đến yếu tố giá của các đầu vào. 5 lOMoAR cPSD| 45980359
3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS)
Khi di chuyển dọc trên một đường đẳng lượng, ta thấy có sự thay thế giữa các
yếu tố sản xuất để tạo ra một sản lượng không đổi. Để đo lường mức độ thay thế
giữa vốn và lao động, ta có khái niệm tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS). Tỷ lệ thay
thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn là số đơn vị vốn phải bớt đi để tăng thêm một
đơn vị lao động mà không làm thay đổi tổng sản lượng.
Công thức tính tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên: MRTSLchoK
KL q q 0 dKdL q q 0
Trong đó: MRTSL cho K là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn. Ký
hiệu q = q0 cho ta thấy là việc tính toán tỷ lệ thay thế biên được thực hiện trên đường
đẳng lượng q0. Dấu (-) trong đẳng thức giữ cho tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên luôn có
giá trị dương. Vì vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên cho biết độ lớn của sự thay thế giữa
vốn và lao động. Căn cứ vào công thức này ta có thể thấy nghịch dấu với độ dốc của
đường đẳng lượng tại một điểm nào đó chính là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao
động cho vốn tại điểm đó. Đó là vì q0 = f(K, L) nên có thể suy ra dK phương trình
đường đẳng lượng là K = g(q0, L). Do đó: MRTS
hay chính là dL nghịch dấu
với độ dốc của đường đẳng lượng.
4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng
4.1 Hàm sản xuất tuyến tính
q aK bL a b, 0 . Với hàm sản xuất này, khi vốn hay lao động tăng thêm một đơn
vị thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng tương ứng là a hay b đơn vị. Do vậy, năng
suất biên của vốn và lao động lần lượt là các hệ số a và b. Năng suất biên của vốn và
lao động không thay đổi khi số vốn và lao động được sử dụng tăng thêm. Do đó,
đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng và số lượng các đầu vào (vốn và lao
động) là các đường thẳng dốc lên với độ dốc là a hay b.
Do phương trình của đường đẳng lượng ứng với hàm sản xuất tuyến tính là: q b q0 aK
bL nên K L. Như vậy, đường đẳng
lượng của hàm số này là a a b n
hững đường thẳng song song có độ dốc . a
Trong trường hợp hàm sản xuất này, vốn và lao động có thể hoàn toàn thay thế
cho nhau. Nhà sản xuất có thể chỉ sử dụng vốn hay lao động cho sản xuất tuỳ thuộc vào giá của chúng.
4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định 6 lOMoAR cPSD| 45980359
q min aK bL, ; a b, 0 . Phương trình hàm sản xuất này cho biết sản lượng
bằng với giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc. -
Nếu aK < bL thì q = aK. Trong trường hợp này, vốn là yếu ràng buộc đối
vớisản lượng. Việc tăng thêm lao động không làm không làm gia tăng sản lượng nên
MPL = 0. Vốn là yếu tố quyết định. -
Nếu aK > bL thì q = aL. Trong trường hợp này, lao động là yếu ràng
buộcđối với sản lượng. Việc tăng thêm vốn không làm không làm gia tăng sản lượng
nên MPK = 0. Lao động là yếu tố quyết định. -
Khi aK = bL thì cả hai yếu tố K và L được sử dụng một cách hợp lý nhất vì K b
không có hiện tượng dư thừa vốn hay lao động. Khi đó . Đẳng thức này xảy L a
ra tại các điểm ở góc của đường đẳng lượng.
Với hàm sản xuất này, vốn và lao động phải được sử dụng với một tỷ lệ nhất
định vì chúng không thể thay thế cho nhau. Mỗi một mức sản lượng đòi hỏi một
phương án kết hợp đặc biệt giữa vốn và lao động. Trong trường hợp này, ta không
thể tạo thêm sản lượng nếu như không đưa thêm vào cả vốn và lao động theo một tỷ lệ cụ thể.
4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS
q cK La b ; a,b,c >0.
Đây là trường hợp trung gian giữa hai trường hợp trên và cũng là hàm sản xuất
phổ biến nhất được sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa số lượng yếu tố đầu
vào và sản lượng của một quá trình sản xuất.
6. Đường đẳng phí
Giả sử một doanh nghiệp dùng một số tiền nào đó, được gọi là tổng chi phí và
được ký hiệu là TC - để mua hay thuê vốn và lao động cho sản xuất.Nếu đơn giá vốn
là v và đơn giá của lao động là w thì doanh nghiệp sẽ sử dụng bao nhiêu vốn và lao
động? Đường đẳng phí sẽ giúp trả lời câu hỏi này.
Đường đẳng phí cho biết các kết hợp khác nhau của số lượng lao động (L) và
vốn (K) có thể mua được bằng một số tiền (tổng chi phí) nhất định ứng với những mức giá nhất định.
Phương trình đường đẳng phí có dạng: TC = vK + wL, trong đó TC là tổng chi
phí, v là đơn giá vốn, w là đơn giá lao động, vK là chi phí cho vốn, wL là chi phí cho
lao động. Phương trình này cho biết tổng chi phí cho vốn (vK) và cho lao động (wL)
phải bằng với tổng chi phí (TC).
Sự đánh đổi giữa vốn và lao động được biểu diễn bằng độ dốc của đường đẳng
phí. Nếu gọi S là độ dốc của đường đẳng phí, ta có thể viết: TC v/ w 7 lOMoAR cPSD| 45980359 S TC w/ v
S bằng với tỷ số giữa đơn giá của lao động và vốn và không phụ thuộc vào tổng
chi phí. Do đó, khi giá của các yếu tố đầu vào thay đổi thì độ dốc của đường đẳng phí thay đổi. CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Tổng quan về lao động - việc làm
1.1. Về dân số và lao động
Nước ta có quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số bình quân tương đối cao. Dân
số cả nước năm 2000 là 77.635,4 nghìn người, đến năm 2005 là 83.119,9 nghìn
người. Như vậy trong 5 năm, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1,1 triệu người. Tỷ lệ
dân số giữa thành thị và nông thôn có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực, song
còn chậm. Tỷ trọng dân số thành thị tăng từ 24,22% năm 2000 lên 26,75% năm 2005.
Dân số chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, năm 2005 có 73,25% dân số ở nông
thôn. Do dân số tăng nhanh nên hàng năm lực lượng lao động đã được bổ sung với
một số lượng đáng kể, nhất là ở khu vực nông thôn. Năm 2005, lực lượng lao động
(LLLĐ) của cả nước là 44.382,1 nghìn người, tăng gần 1,13 triệu người so với năm
2004, và chiếm 53% dân số. LLLĐ dồi dào là một lợi thế rất lớn của nước ta, song
đây cũng là một thách thức trong vấn đề giải quyết việc làm. Hơn nữa, tỷ lệ lao động
ở thành thị có tăng, song lực lượng lao động ở nông thôn còn quá lớn. Năm 2005 lực
lượng lao động ở nông thôn là 33.313,9 nghìn người, chiếm 75,1% LLLĐ của cả
nước. Đây là sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động ở nước ta hiện nay và là vấn đề hết
sức cấp bách về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Cơ cấu dân số phân chia theo giới tính không có biến đổi lớn. Trong khoảng 10
năm trở lại đây, tỷ lệ nam giới chiếm khoảng trên 49%, nữ giới chiếm khoảng gần
51%. Lực lượng lao động là nam giới trong thực tế có xu hướng tăng: năm 2004 lao
động nam có 22.065,2 nghìn người, chiếm 51%, lao động nữ có 21.190,1 nghìn
người, chiếm 49,0%. Năm 2005, lao động nam có 22.573,8 nghìn người, chiếm
51,26%, lao động nữ có 21.631,2 nghìn người, chiếm 48,74%. Như vậy tỷ trọng lao
động nữ trong tổng lực lượng lao động đang có xu hướng giảm.
1.2. Về chất lượng lao động
Ở nước ta, chất lượng lao động của LLLĐ tuy đã có bước chuyển biến đáng kể
do có sự cải cách và tăng cường đầu tư trong công tác giáo dục, đào tạo, dạy nghề,
song nhìn chung còn thấp, chưa thể đáp ứng tốt và kịp thời những yêu cầu của công
cuộc đổi mới và quá trình hội nhập. Chất lượng lao động được thể hiện ở một số mặt sau:
+ Về trình độ học vấn: Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực
sự đem lại những chuyển biến về trình độ học vấn trong cộng đồng người dân, đây
là một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào 8 lOMoAR cPSD| 45980359
tạo nghề cũng như giải quyết việc làm cho LLLĐ ở nước ta hiện nay. Xét về tổng
thể thì trình độ học vấn của LLLĐ đã được nâng cao hơn, tỷ lệ lao động tốt nghiệp
trung học cơ sở và trung học phổ thông đã tăng đáng kể. Tỷ lệ lao động tốt nghiệp
trung học phổ thông đã tăng từ 17,23% năm 2000 lên 21,2% năm 2005. Tuy nhiên,
tỷ lệ lao động biết chữ nhưng mới đạt trình độ tiểu học và dưới tiểu học còn cao, tỷ
lệ mù chữ cũng còn khá cao. Tình trạng tái mù chữ xuất hiện ở nhiều nơi, nhất là ở
các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, khiến cho tỷ lệ người chưa biết chữ đã tăng lên từ
3,58% năm 2001 lên 5,0% năm 2004. Tuy nhiên tình trạng này đã được cải thiện
bằng việc tích cực thực hiện chủ trương phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Đến năm
2005, tỷ lệ mù chữ đã giảm xuống còn 4,0%. Tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp tiểu học
giảm từ 16,48% năm 2000 xuống còn 11, 95% năm 2005. Nhìn vào số lượng và tỷ
lệ thì tình hình dường như đã được cải thiện, song về chát lượng thì đây vẫn là vấn
đề có nhiều bất cập.
Trong thực tế còn có sự cách biệt khá lớn về trình độ học vấn của LLLĐ giữa
thành thị và nông thôn cũng như giữa các vùng, miền lãnh thổ. Năm 2003, ở khu vực
thành thị, cứ 100 người tham gia LLLĐ thì có 67 người tốt nghiệp phổ thông cơ sở
trở lên, cao gấp 1,5 lần so với chỉ số này ở khu vực nông thôn. Trong khi đó tỷ lệ mù
chữ hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học, trong khi ở Đồng bằng sông Cửu Long có các chỉ
số tương ứng là: 11, 16 và 33; ở Tây Bắc là: 12,23 và 35; ở Tây Nguyên là: 16,26 và
26. Các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ là những vùng
đông dân cư, tiềm năng sản xuất lớn, nhưng tỷ trọng lao động chưa biết chữ cao, tỷ
lệ lao động có trình độ học vấn cấp THCS và THPT còn thấp. Trình độ học vấn của
LLLĐ ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa vẫn thấp hơn nhiều so với các vùng khác.
Đây chính là một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả năng tăng năng suất lao
động và thu hút vốn đầu tư của vùng.
+ Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Những năm gần đây, chât lượng của nguồn
lao động nước ta về phương diện chuyên môn kỹ thuật đã được cải thiện đáng kể, tỷ
lệ lao động được đào tạo tăng lên: từ 19,62% năm 2002 tăng lên 21% năm 2003,
22,5% năm 2004, và 24,79% năm 2005. Tuy nhiên đây vẫn là con số ít ỏi so với yêu
cầu của thị trường lao động đang ngày càng phát triển, đặc biệt là ở các vùng kinh
tế trọng điểm, các khu công nghiệp và các khu đô thị tập trung. Nhiều ngành, nhiều
địa phương còn rất thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong khi
lao động phổ thông, lao động không có chuyên môn kỹ thuật còn chiếm một tỷ lệ
lớn. Năm 2005, tỷ lệ lao động phổ thông (chưa qua đào tạo) là 75,21%. Đây là một
trong những mặt yếu kém và bất lợi nhất của LLLĐ nước ta, nó thể hiện sức cạnh
tranh của LLLĐ nước ta là yếu so với LLLĐ của nhiều nước trong khu vực.
Thực tế còn cho thấy có sự tách biệt lớn về trình độ chuyên môn kỹ thuật của
LLLĐ giữa thành thị và nông thôn cũng như các vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Năm
2005, vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là vùng Đông Nam Bộ 37,98%,
Đồng bằng sông Hồng là 34,75%, thấp nhất là Tây Bắc 13,84%, sau đó là vùng Đồng
bằng sông Cửu Long 16,75%. 9 lOMoAR cPSD| 45980359
1.3. Về tình trạng việc làm
Lực lượng lao động đông đảo được bổ sung hàng năm đang đặt ra nhiều vấn đề
cấp bách. Các giải pháp về giải quyết lao động, việc làm đã được thực hiện tích cực
và đạt nhiều hiệu quả. Số lao động có việc làm thường xuyên tăng lên liên tục trong
thời kỳ từ năm 1996 đến nay. Năm 1996, số lao động có việc làm thường xuyên là
34.907,6 nghìn người, đến năm 2004 tăng lên là 40.792,6 nghìn người. (xem bảng
1). Tuy nhiên chất lượng của việc làm mới được tạo ra còn thấp, chủ yếu tập trung ở
khu vực phi kết cấu, phần lớn là lao động giản đơn.
BẢNG 1. SỐ NGƯỜI ĐỦ 15 TUỎI TRỞ LÊN CÓ VIỆC LÀM THƯỜNG XUYÊN Đơn vị: Nghìn người Năm Tổng số Nữ Thành thị Nông thôn 1996 34907,6 17350,5 6463,6 28444,0 1997 34716,4 17453,9 6858,9 27857,4 1998 36018,3 18079,9 7222,4 28795,9 1999 35731,1 17716,9 7923,8 27807,2 2000 36205,5 17931,5 8185,9 28019,6 2001
37677,4 18638,9 8718,9 28958,5 2002 39289,6 - 9195,5 30094,1
2003 39585,0 - 9533,6 30051,4 2004 40792,6 19604,0 10140,7 30651,9
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm 1996 đến 2004.
* Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành kinh tế:
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã có tiến bộ, song còn khó
khăn và chậm chạp. Đến nay đại bộ phận lực lượng lao động vẫn tập trung trong
ngành nông - lâm - ngư nghiệp. Tỷ trọng lao động trong nông - lâm - ngư nghiệp
chiếm tới 57,90% năm 2004, và 56,80% (đến 1.7.2005), số liệu tương ứng các năm
trong ngành công nghiệp và xây dựng là 17,4% và 17,9%, trong ngành dịch vụ là
24,7% và 25,3% trong tổng số lao động có việc làm của cả nước. (xem bảng 2). Tỷ
trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp cao phản ảnh mức độ thu hút lao
động vào các ngành công nghiệp và dịch vụ chưa thực sự đủ mạnh để có thể làm
thay đổi một cách căn bản cơ cấu lao động xã hội.
BẢNG 2. CƠ CẤU LAO ĐỘNG CÓ VIỆC LÀM CẢ NƯỚC THEO NHÓM NGÀNH KINH TẾ Đơn vị tính:% 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nông-lâm-ngư nghiệp 62,61 62,76 61,14 58,35 57,90 56,80 Công nghiệp-xây dựng 13,10 14,42 15,05 16,96 17,40 17,9 Dịch vụ 24,28 22,82 23,81 24,69 24,70 25,3
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 98, năm 2005, tr.21, và Báo Lao động, ngày 18-11-2005
Đặc điểm nổi bật nhất trong cơ cấu lao động có việc làm là sự chênh lệch lớn
giữa các vùng. Năm 2005, vùng được coi là có cơ cấu lao động tiến bộ nhất là vùng
Đông Nam Bộ (tương ứng với các vùng I, II, III là: 27,8%, 30,9%; 41,3%); vùng có 10 lOMoAR cPSD| 45980359
cơ cấu lao động kém phát triển nhất là vùng Tây Bắc với gần 84,87% lao động làm
việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, chỉ có 5,23% lao động làm việc trong
ngành công nghiệp và xây dựng, và 9,9% làm việc trong ngành dịch vụ.
Mặt khác, sự đóng góp của các khu vực kinh tế vào tốc độ tăng GDP trong
những năm gần đây có chuyển biến theo chiều hướng tích cực song vẫn có sự chênh
lệch lớn, trong đó khu vực I có số lượng lao động nhiều nhất nhưng tỷ lệ đóng góp
lại thấp nhất. Năm 2004, lao động trong khu vực I chiếm 57,9% nhưng chỉ đóng góp
vào tóc độ tăng GDP 0,7%, trong khi hai khu vực kia đóng góp 6,9%; hoặc nếu xét
theo cơ cấu GDP thì năm 2004 khu vực I chỉ đạt 21,76%, trong khi khu vực II đạt
40,09% và khu vực III đạt 38,15%.
* Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế cũng có những chuyển biến song
chưa phải là lớn. Trong các khu vực thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tạo nhiều
việc làm nhất. Năm 2005, lao động trong khu vực này chiếm 88,8% tổng số việc làm
trong nền kinh tế; sau đó là khu vực kinh tế nhà nước chiếm 9,7% và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 1,6%. (xem bảng 3)
BẢNG 3. CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ NĂM 2000-2005 Đơn vị tính:% 2000 2002 2003 2004 2005 Kinh tế nhà nước 9,3 9,5 9,9 10,0 9,7 Kinh tế ngoài nhà nước 90,1 89,4 88,8 88,5 88,8 Khu vực ĐTNN 0,6 1,1 1,3 1,5 1,6
Nguồn: Niên giám thống kê 2004,2005.
1.4. Vấn đề thất nghiệp
Nhìn chung, tình trạng việc làm đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ thất nghiệp
giảm liên tục trên cả nước và ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Năm 2005, tỷ lệ
thất nghiệp tại thành thị là 5,3% (giảm 0,3% so với năm 2004), đặc biệt ở độ tuổi
15-24 tỷ lệ này là 13,4% (giảm 0,5% so với 2004). Trong 8 vùng lãnh thổ thì vùng
Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất. Bên cạnh đó,
tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn là 80%, tăng 1,6% so với năm 2004).
Trong các vùng lãnh thổ, tỷ lệ thất nghiệp của LLLĐ trong độ tuổi ở khu vực
thành thị đã giảm xuống ở 5 vùng là: Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung
Bộ, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, và tăng lên ở các vùng Tây Bắc,
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật, thì thất nghiệp không chỉ có ở LLLĐ chưa
qua đào tạo (chiếm 8%) mà còn có ở các nhóm lao động đã qua đào tạo (tỷ lệ thất
nghiệp của LLLĐ đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,4%; đã tốt nghiệp cao
đẳng, đại học là 3,8%). Trong tổng số lao động thất nghiệp ở thành thị, số người
chưa tìm được việc làm sau khi thôi học hoặc tốt nghiệp các cơ sở đào tạo chiếm tới
73,7%. Đây cũng là một trong những vấn đề quan trọng cần phải quan tâm giải quyết
bởi phần lớn số lao động này là những người còn trẻ tuổi, có sức khỏe, có trình độ
học vấn, có tay nghề... 11 lOMoAR cPSD| 45980359
Bên cạnh vấn đề thất nghiệp ở thành thị, vấn đề thời gian lao động ở nông thôn
chưa được sử dụng vẫn là một vấn đề bức xúc. Nếu xét một cách tương đối thì tỷ lệ
thời gian lao động chưa được sử dụng ở khu vực này là 20,6%, nếu tính theo số tuyệt
đối thì nghĩa là sẽ có là gần 7 triệu người thiếu việc làm.
1.5. Vấn đề di cư lao động
Thực tế ở nước ta hiện nay do di cư lao động đang là một vấn đề lớn. Di cư từ
nông thôn ra thành thị, từ ngành nghề này sang ngành nghề khác, từ nơi làm việc có
thu nhập thấp sang nơi làm việc có thu nhập cao, từ nơi có ít cơ hội việc làm đến có
nhiều cơ hội việc làm (như ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị tập
trung...). Đây là một quy luật tự nhiên trong quá trình phát triển đến vùng phát triển
hơn, từ nông thôn ra thành thị có xu hướng gia tăng, khó kiểm soát. Ước tính năm
2004, thành phố Hồ Chí Minh có khoảng hơn 80.000 lao động, Hà Nội có hơn 20.000
lao động làm việc thường xuyên đến từ các tỉnh khác. Số liệu thống kê của bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội cho thấy số lao động di cư ra khỏi vùng lãnh thổ để
kiếm việc làm ở nơi khác cao nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ (29,4%), sau đó là
Đồng bằng sông Cửu Long (24,1%), thấp nhất là Tây Nguyên (0,7%) và Tây Bắc
(0,1%). Trong khi đó khu vực có tỷ lệ người lao động đến tìm việc nhiều nhất là khu
vực Đông Nam Bộ (68,5%). Đây là vùng có nhiều cơ hội việc làm và mức sống cũng
như mức thu nhập cao hơn các vùng khác.
1.6. Về xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội có ý nghĩa quan trọng, góp
phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề và tác phong
công nghiệp cho người lao động. Một trong những lợi thế về cạnh trạnh xuất khẩu
lao động của nước ta là nguồn lao động dồi dào, lực lượng lao động trẻ chiếm tỷ lệ
khá cao trong tổng lao động của toàn xã hội. Trong những năm gần đây, xuất khẩu
lao động đã có những bước tiến đáng kể. Số lượng lao động xuất khẩu có thời hạn
đã tăng từ 46.112 người năm 2002 lên 75.000 người năm 2003 và giảm xuống còn
67.447 người vào năm 2004. Đến nay, Việt Nam đã có trên 400.000 lao động chủ
yếu của Việt Nam là Đài Loan, Malaixia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Lào... Hàng năm, số
lao động xuất khẩu chuyển về nước khoảng 1,6 tỷ USD. Tuy nhiên, bên cạnh đó lao
động xuất khẩu của ta cũng còn có những hạn chế, đặc biệt là trình độ tay nghề của
người lao động còn thấp, tỷ lệ lao động xuất khẩu được đào tạo nghề còn khá khiêm
tốn. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ lao động được
đào tạo nghề trong tổng số lao động tham gia xuất khẩu lao động năm 2002 là 25%,
năm 2003 là 35,5%. Năm 2004, mặc dù có 90% lao động xuất khẩu được đào tạo,
nhưng chỉ có gần 50% trong số đó được đào tạo nghề trước khi đi, còn trên 40%
được đào tạo nghề trực tiếp tại nơi làm việc. Đây là một trong những bất cập của
công tác đào tạo nghề và nâng cao chất lượng lao động, nhất là lao động xuất khẩu của nước ta.
2. Thực trạng lao động ở nước ta hiện nay
2.1 Lực lượng lao động: Theo điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2004 lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên cả nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng 12 lOMoAR cPSD| 45980359
lao động ở nhóm tuổi 15 – 34 tuổi chiếm 46,8%, từ 35 – 54 tuổi chiếm 35,4%, trên
55 tuổi chiếm 7,8%. Như vậy lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm
xấp xỉ 50% lực lượng lao động và điều đó cũng cho thấy được tiềm năng về lao động
ở nước ta là dồi dào.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng lao động thừa mà thiếu đang diễn ra, đây là một
khó khăn lớn cần giải quyết: Theo dự báo của các chuyên gia lao động, năm 2007,
thị trường trong nước tiếp tục khan hiếm lao động cấp cao; lao động bậc trung và
phổ thông tại các khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) cũng thiếu, cụ thể như sau:
Tại TP.HCM, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, trong năm 2007, 15 KCN,
KCX của Thành phố cần tuyển 51.750 lao động, trong đó 38.295 lao động phổ thông.
Còn tại Bình Dương, theo bà Nguyễn Hoài Nam, Trưởng phòng Quản lý lao động
các KCN Bình Dương, trong năm 2007, nhu cầu tuyển dụng lao động tại các KCN
là 20.000 người. Trong đó, lao động phổ thông chiếm 85%, số còn lại tập trung vào
lao động có tay nghề trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học.
Phản ánh từ các trung tâm giới thiệu việc làm (GTVL) ở TP.HCM cho thấy, quý
I/2007, nhu cầu tuyển dụng lao động, nhất là lao động phổ thông tăng vọt, nhưng số
ứng viên đến đăng ký tìm việc làm lại giảm. Sự khan hiếm lao động này gây khó
khăn cho các doanh nghiệp, nhưng đó lại là tín hiệu tốt, khi các doanh nghiệp phải
cạnh tranh gay gắt để thu hút và giữ chân người lao động, thì họ buộc phải tăng
cường cải thiện đời sống và sinh hoạt cho người lao động. Từ đó, người lao động có
thể yên tâm làm việc lâu dài, với mức thu nhập có thể trang trải được cuộc sống tốt hơn.
Dịch chuyển lao động ở các KCX, KCN tại TP.HCM đã và đang ngày càng rõ
nét, tạo ra những nguy cơ về thiếu hụt lao động khi cân đối lại các ngành nghề. Theo
phân tích của Ban Quản lý các KCX-KCN TP.HCM (HEPZA), những năm tới, nhu
cầu lao động sẽ thay đổi theo từng ngành nghề, theo hướng giảm dần các ngành thâm
dụng lao động trình độ thấp, ưu tiên các ngành sản xuất công nghệ cao sử dụng nhiều
công nhân lành nghề, lao động kỹ thuật bậc cao.
Ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm GTVL TP.HCM cho biết, qua
khảo sát 2.300 doanh nghiệp đóng trên địa bàn, các nhóm ngành: kỹ thuật - công
nghệ phục vụ sản xuất, điện tử - viễn thông, cơ khí chính xác, công nghệ - thông tin,
chế biến thực phẩm cần 30% lao động lành nghề; các nhóm ngành quản trị kinh
doanh, tiếp thị, quảng cáo, kế toán, ngân hàng, dịch vụ du lịch cần 30%; 40% còn
lại tập trung vào công nhân có tay nghề, lao động phổ thông các ngành may, giày da, chế biến thực phẩm.
Nhiều ý kiến cho rằng, nếu doanh nghiệp quan tâm đến mức lương và đời sống
của người lao động hơn sẽ góp phần hạn chế người lao động bỏ việc. Theo nhận định
của ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó vụ trưởng Vụ Quan hệ quốc tế (Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội), đối với nhân lực cao cấp, các doanh nghiệp phải thực sự
nhập cuộc, bởi cuộc chiến giành nhân tài giữa các doanh nghiệp càng trở nên khốc
liệt. Vì vậy, để tránh áp lực thiếu hụt, mất cân đối về lao động, các doanh nghiệp
phải có lộ trình cho kế hoạch đào tạo, phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh 13 lOMoAR cPSD| 45980359
theo từng thời điểm; xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa để đem lại sự phát triển bền vững.
2.2 Phân bổ lực lượng lao động: Trong tổng số lực lượng lao động hiện có thì
tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị chiếm 24,6%, lao động ở khu vực nông thôn
75,5%. Phân bổ lao động hiện nay cho thấy sự chuyển dịch về cơ cấu lao động chưa
tương thích với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 5 năm qua. Trong 5 năm qua tỷ
trọng ngành nông nghiệp xấp xỉ 21,6% GDP nhưng lực lượng lao động lớn, điều đó
cho thấy hiệu quả sử dụng lao động ở khu vực nông thôn, nông nghiệp thấp và càng
tạo sức ép về giải quyết việc làm ở khu vực này.
Mặt khác, sự phân bố lao động chủ yếu tập trung ở 3 vùng: Đồng bằng sông
Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ - 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chưa thu hút lao động.
Sự phân bổ lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm năng
của các vùng đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó. Chẳng
hạn: 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên lớn, có thể
phát triển và sản xuất những loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao (cây công nghiệp,
cây ăn quả…) nhưng lao động ở 2 lĩnh vực này chỉ chiếm 8,8% (xét về mặt lượng,
về mặt chất lại còn là vấn đề bức xúc hơn). Vì vậy, sự phát triển kinh tế ở khu vực
này còn gặp nhiều khó khăn trong đó có khó khăn lớn thiếu nguồn nhân lực có trình
độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của vùng.
2.3 Chất lượng lao động: Nhìn vào số liệu về phân bổ lực lượng lao động giữa
các khu vực cũng đã phần nào nói lên chất lượng lao động ở nước ta. Phần lớn lao
động ở khu vực nông thôn chưa qua đào tạo, hoặc đào tạo không cơ bản, trình độ
văn hóa thấp. Vì trên thực tế hiện nay yêu cầu lao động ở đây cũng chủ yếu là lao
động phổ thông là chính, những ngành nghề đòi hỏi trình độ cao ở khu vực này chưa phát triển.
Hiện nay lực lượng đã qua đào tạo (tính lao động được đào tạo từ 3 tháng trở
lên) trong cả nước chiếm 25%, lao động từ bậc tiểu học trở xuống chiếm 42,5%, lao
động mù chữ 5%. Trình độ đào tạo của Việt Nam còn nhiều bất cập so với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng. Vì
vậy, nhu cầu lao động có chất lượng cao (tức lao động có trình độ chuyên môn cao,
có tác phong lao động công nghiệp, có ý thức, kỷ luật cao) ngày càng tăng. Mặt khác,
từ yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong bối cảnh kinh tế thế giới thì
vấn đề chất lượng lao động ở nước ta trở thành một vấn đề bức xúc của nền kinh tế
và là nguyên nhân cơ bản của tình trạng lao động thiếu việc làm hiện nay. Chúng ta
vẫn thường nói: lao động ở nước ta còn dư thừa, điều ấy là đúng nhưng chưa đủ, ta
chỉ dư thừa lao động phổ thông (lao động không có tay nghề) nhưng lại rất thiếu
những lao động có trình độ chuyên nghiệp, tay nghề giỏi, thiếu những lao động
nghiên cứu khoa học để ứng dụng thành tựu đó là phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước. 14 lOMoAR cPSD| 45980359
2.4 Tác động của WTO đối với việc làm tại Việt Nam
Tác động của gia nhập WTO đối với việc tạo thêm việc làm thể hiện ở 3 khu
vực: Thứ nhất là khu vực đầu tư nước ngoài dưới tác động của các điều khoản về
đầu tư; thứ hai là các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, đặc biệt là
những ngành sử dụng nhiều lao động, dưới tác động của các điều khoản về thương
mại; thứ ba là tại các khu vực tuy không – giao thương quốc tế trực tiếp nhưng do
việc gia tăng giao thương quốc tế có ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về
hàng hóa – dịch vụ mà có tác dụng tăng nhu cầu lao động, tức là tạo thêm việc làm.
Đối với khu vực đầu tư nước ngoài, do hiện nay nước ta đã có Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam tạo điều kiện thông thoáng, môi trường đầu tư ngày càng được
cải thiện và nước ta đã ký được nhiều Hiệp định thương mại song phương, đặc biệt
là với Hoa Kỳ, nên đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn tăng tương đối đều đặn
trong những năm qua. Bởi vậy, dự báo sự thay đổi về đầu tư nước ngoài trước và sau
khi Việt Nam gia nhập WTO có thể không lớn nên việc làm mới được tạo ra trong
khu vực này có thể tăng từ 2 – 8% nâng tổng số việc làm được tạo nên hàng năm lên
khoảng 3 – 4%. Ngoài số việc làm được tạo ra trực tiếp từ vốn FDI, phải kể đến cả
số việc làm tăng lên gián tiếp từ đầu tư nước ngoài, ví dụ như những cơ sở cung cấp,
những nhà thầu phụ, những nhà cung cấp dịch vụ….
Sự gia tăng việc làm mới có thể rõ hơn trong những ngành nghề làm hàng xuất
khẩu; trong đó có những ngành có tổng kim ngạch xuất khẩu lớn và sử dụng nhiều
lao động như ngành dệt may, giày dép, nuôi trồng và chế biến thủy sản, thủ công mỹ
nghệ, trồng các loại cây nông nghiệp và công nghiệp như lúa, cà phê, hạt điều cao su, cây ăn quả…
Ngoài hai khu vực nói trên, việc làm mới cũng sẽ được tạo ra ở những khu vực
khác. Việc gia tăng giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế sẽ làm thu nhập của
người dân tăng, giao lưu quốc tế tăng, thông tin trao đổi trong và ngoài nước tăng.
Những yếu tố này sẽ kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cả về lượng lẫn
về chất. Đây chính là yếu tố kích cầu hàng hóa và dịch vụ tại thị trường trong nước.
Ngoài tác động tích cực, đối với tạo việc làm mới, việc gia nhập WTO cũng
buộc các doanh nghiệp của Việt Nam phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh,
cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng suất, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn
lực, kể cả nguồn lực lao động.
Việc gia nhập WTO cũng đặt ra những yêu cầu và điều kiện cho việc điều chỉnh
cơ cấu lao động xã hội sao cho có hiệu quả nhất đối với nền kinh tế; việc gia nhập
WTO sẽ giúp Việt Nam tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, từ đó
hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội có hiệu quả hơn, đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình hiện đại hóa.
Nói tóm lại lực lượng lao động ở nước ta đông nhưng không mạnh, sự phân
bổ và sử dụng lao động còn nhiều điều bất hợp lý với một nền kinh tế chuyển đổi
và thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH.
3. Những vấn đề đặt ra về lao động, việc làm và hướng giải quyết
* Sự mất cân đối giữa cung và cầu về lao động trên các mặt sau đây: 15 lOMoAR cPSD| 45980359 -
Về chất lượng đội ngũ lao động: Do yêu cầu của tiến trình công nghiệp
hóa,hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi lao động chất lượng cao ngày
càng lớn. Nhưng trên thực tế đội ngũ lao động của chúng ta đang hụt hẫng trước yêu
cầu đó. Chúng ta vừa thiếu cả thầy và thiếu cả thợ, khác một số ý kiến cho rằng Việt
Nam “thừa thầy thiếu thợ”. Chúng ta “thiếu thầy” tức là thiếu đội ngũ cán bộ quản
lý và các chuyên gia giỏi để vận hành nền kinh tế có hiệu quả; “thiếu thợ” là thiếu
đội ngũ công nhân lành nghề, có tính chuyên nghiệp cao. Vì vậy, vấn đề nâng cao
chất lượng đội ngũ lao động trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong chiến lược giải quyết
việc làm ở nước ta. Nó vừa là điều kiện là tiền đề để giảm thất nghiệp và cải thiện
đời sống cho người lao động. -
Về cơ cấu lao động: Cơ cấu lao động và cơ cấu việc làm đang có sự mất
cânđối lớn xét theo ngành, vùng kinh tế. Điều đó nó được thể hiện sự phân bổ lao
động bất hợp lý giữa các ngành, vùng kinh tế, đẩy đến tình trạng một số ngành và
vùng kinh tế có lao động dôi dư, tỷ lệ lao động thất nghiệp cao. Hiện tượng lao động
ở các khu vực nông thôn ra tìm việc làm ở thành thị đã minh chứng cho điều đó.
Ngược lại một số ngành (ngành có kỹ thuật cao) thiếu lao động buộc chúng ta thuê
lao động nước ngoài. Để sử dụng lao động có hiệu quả thì việc chuyển dịch cơ cấu
lao động là yêu cầu quan trọng trong chính sách lao động – việc làm hiện nay. -
Về cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực: Cơ cấu đào tạo ảnh hưởng trực tiếp
cơcấu lao động theo trình độ, nghề nghiệp chuyên môn. Thực tế trong thời gian qua
chúng ta thường chú ý đến đào tạo những ngành nghề có chi phí đào tạo thấp (ít thí
nghiệm, ít thực hành…) như các ngành kinh tế, luật (chiếm 43% số sinh viên đào
tạo), còn các ngành khoa học kỹ thuật chỉ chiếm 25,5%. Điều này chưa tương thích
với yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Tình trạng đó làm cho tỷ lệ thất nghiệp của lao
động ở bậc đại học xấp xỉ tới 4%, nhiều cử nhân kinh tế, luật phải làm việc không
theo đúng ngành nghề được đào tạo…. *
Thị trường lao động ở nước ta chưa phát triển (đặc biệt là khu vực
nôngthôn); cung cầu về lao động chưa được giải quyết qua thị trường. Điều đó cũng
là ách tắc cho việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động và việc làm bởi nguồn nhân
lực và khả năng tiếp cận nguồn nhân lực không có môi trường để thực hiện. Vì vậy,
phát triển thị trường lao động để lực lượng lao động được xã hội hóa đặc biệt là lao
động có trình độ cao, để đảm bảo sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả và giải quyết
được những mâu thuẫn giữa lao động và việc làm. *
Giải quyết việc làm: Giải quyết việc làm ở nước ta trong những năm
quatheo hướng tập trung giải quyết việc làm cho lực lượng lao động chưa qua đào
tạo, vì vậy tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động (giày da, dệt may,
chế biến thủy sản….). Đây không phải là những ngành có lợi thế trong cạnh tranh,
cũng không phải là những ngành nền tảng hoặc ngành tiềm năng của nền kinh tế Việt
Nam. Bởi ngành dệt may, giày da ở nước ta hiện nay 80% nguyên liệu để sản xuất
là nhập ngoại. Vì vậy, nếu chiến lược phát triển lao động, việc làm vẫn theo đuổi
hướng đó sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam trì trệ, tụt hậu hơn. Do đó, hướng giải
quyết việc làm trong giai đoạn tiếp theo cần thu hút lực lượng lao động vào các
ngành có lợi thế cạnh tranh (những ngành đưa lại hiệu quả kinh tế cao) những ngành
nền tảng và những ngành tiềm năng của nền kinh tế. Phát triển một số ngành khác 16 lOMoAR cPSD| 45980359
sử dụng nhiều lao động phổ thông nên gắn với những ngành sử dụng nguyên liệu
sản xuất ra từ trong nước (các ngành công nghiệp chế biến thủy sản, hàng nông sản
phẩm….). Điều đó, một mặt nó sẽ giải quyết lao động tại chỗ, mặt khác thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển bền vững và đưa lại lợi ích cho quốc gia nhiều hơn. *
Lao động dôi ra từ việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước
trongthời gian qua cũng là một trong những nhân tố tác động lớn đến lao động – việc
làm của nền kinh tế. Hiện nay có khoảng hơn 10 vạn lao động dôi dư khi thực hiện
việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung lực lượng lao động
này khả năng phát triển rất hạn chế, tuy nhiên họ vẫn nằm trong lực lượng lao động
của quốc gia. Hướng giải quyết lực lượng lao động đó là việc khuyến khích phát
triển nhiều thành phần kinh tế để họ có thể tự nguyện tham gia lao động phù hợp với
khả năng của họ (tức là hướng giải quyết chủ yếu để họ tự tìm và tạo việc làm).
Từ bức tranh lao động – việc làm ở nước ta hướng giải quyết cơ bản cần tập
trung vào những vấn đề sau: -
Đào tạo nguồn nhân lực: Đây là bước đi căn bản đầu tiên, đặt nền tảng
choviệc giải quyết việc làm ổn định, bền vững. Đặc biệt chú ý đến chất lượng đào
tạo, cơ cấu đào tạo và gắn nó với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đào
tạo phải hướng tới mục tiêu chuyển thế hệ lao động nông nghiệp sang lao động công
nghiệp (lao động có kỹ thuật, kỷ luật). Để thực hiện được mục tiêu đó là một quá
trình lâu dài và có lộ trình thực hiện cho từng giai đoạn nhất định, không thể nóng
vội, đốt cháy giai đoạn. -
Đầu tư có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội để
đadạng hóa mô hình tạo việc làm, chú ý tạo việc làm tại chỗ trên cơ sở chuyển dịch
cơ cấu kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định trật tự an toàn xã hội.
Mặt khác, phải phát triển các ngành khoa học kỹ thuật cao để thu hút lao động có
chất lượng để tăng thu nhập và khuyến khích người lao động có ý thức nâng cao
trình độ. Đây là một trong những yếu tố tạo sự ổn định và phát triển bền vững đối
với lao động và việc làm. -
Phát triển thị trường lao động: phát triển thị trường lao động để lao
độngđược xã hội hóa, người lao động được quyền tham gia trao đổi sức lao động
trên thị trường theo quan hệ kinh tế thị trường. Điều đó vừa đảm bảo lợi ích cho
người lao động, vừa tạo động lực thúc đẩy chất lượng đội ngũ lao động. Trong những
năm tới hướng giải quyết khá tích cực đối với lao động, việc làm ở nước ta mở rộng
và nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động.
Lao động – việc làm là vấn đề có tính xã hội cao, đòi hỏi sự kết hợp nỗ lực giữa
nhà nước, cộng đồng xã hội, gia đình và cá nhân người lao động khi giải quyết tháo gỡ các khó khăn.
5. Những khó khăn của doanh nghiệp về tuyển dụng lao động -
Các doanh nghiệp Việt Nam chọn nhân sự quản lý với những đòi hỏi
caokhông kém công ty nước ngoài nhưng mức lương và đãi ngộ thì chưa bằng. Đó
là lý do đầu tiên làm cho các công ty Việt Nam, đặc biệt là những công ty vừa và
nhỏ, khó thắng cuộc đua tuyển dụng quản lý. Nhìn chung, mặt bằng lương quản lý 17 lOMoAR cPSD| 45980359
ở các công ty này thấp hơn các công ty nước ngoài khoảng 30 - 50%. Đây thật sự là
một khoảng cách đủ để chuyển hướng quan tâm của các ứng viên khi chọn nơi làm
việc, và trong cuộc cạnh tranh về nhân sự cao cấp hiện nay, phần thắng đang nghiêng
về các công ty có vốn đầu tư nước ngoài với chính sách lương bổng và phúc lợi cao
hơn các doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ điển hình như: Theo ông Trương Chí Dũng
- Cty IT Solution, cho biết các doanh nghiệp phần mềm quy mô nhỏ đang là " bãi
đáp tạm" của sinh viên ngành công nghệ thông tin mới ra trường.
Từ đó họ trưởng thành và sẽ rời bỏ cái nôi ban đầu này để đi đến với các "đại gia".
Thậm chí, việc này trở thành lộ trình thăng tiến rất bài bản. -
Các doanh nghiệp không đi tìm những người lao động chung chung, mà
đitìm những người lao động với trình độ ngành nghề và kỹ năng làm việc sáng tạo,
hiệu quả. Đây là khó khăn lớn nhất khiến cả cộng đồng doanh nghiệp lên tiếng hiện
nay là các doanh nghiệp không thể tuyển được người giỏi, không thể tuyển được lao
động có chất xám vì... không có để mà tuyển. Ví dụ như nhiều doanh nghiệp hiện
nay đã đưa ra mức lương sau thuế từ 1.500 USD/ tháng trở lên, thậm chí đạt đến
mức 5.000 - 10.000 USD/tháng cùng hàng loạt ưu đãi, phúc lợi để chiêu dụ nhân tài
với những vị trí như trưởng phòng kế hoạch, trưởng phòng thí nghiệm, trưởng phòng
kinh doanh, trưởng phòng kỹ thuật... song cũng chưa hẳn tìm được người. Thị trường
lao động đang khan hiếm tất cả các loại giám đốc, chuyên gia trên mọi lĩnh vực.
Thậm chí, những người giỏi nhất về marketing trên thị trường hiện nay chỉ "đếm
được trên đầu ngón tay". Với những vị trí cao cấp như vậy, nhiều Cty phải giành giật
nhau để có được người tốt nhất. 18 lOMoAR cPSD| 45980359 19 lOMoAR cPSD| 45980359 KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá đối với một quốc gia nói chung và
đối với từng doanh nghiệp nói riêng, nhất là trong gia đoạn hội nhập với khu vực và
quốc tế như hiện nay và áp lực về sức cạnh tranh đối với từng doanh nghiệp ngày
càng gay gắt và họ luôn tìm cách để săn tìm những con người có trình độ chuyên
môn giỏi về mình bằng nhiều hình thức khác nhau.
Ở nước hiện nay đang sở hữu nguồn nhân lực trẻ rất dồi dào, lượng lao động từ
15 tuổi trở lên cả nước là 43.255 nghìn người. Trong đó lực lượng lao động ở nhóm
tuổi 15 – 34 tuổi chiếm 46,8%, từ 35 – 54 tuổi chiếm 35,4%, trên 55 tuổi chiếm
7,8%. Như vậy lực lượng lao động trẻ (dưới 35 tuổi) ở nước ta chiếm xấp xỉ 50% và
chất lượng của nguồn lao động về phương diện chuyên môn kỹ thuật đã được cải
thiện đáng kể, tỷ lệ lao động được đào tạo tăng lên: từ 19,62% năm 2002 tăng lên
21% năm 2003, 22,5% năm 2004, và 24,79% năm 2005. Đây là lợi thế của nước ta
và đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh nguồn cung lao động trẻ dồi dào
đó chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn đó là chất lượng lao động, sự phân bố lao động
bất hợp lý giữa thành thị và nông thôn.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì nhu cầu của doanh nghiệp
không còn là lao động đơn giản mà là lao động có trình độ chuyên môn đã qua đào
tạo. Do đó với nguồn lao động ở nước ta hiện nay so với yêu cầu là chưa đáp ứng đủ
về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn đã qua đào tạo, đặc biệt là nguồn nhân
lực có chuyên môn giỏi. Như vậy giải pháp nào để cải thiện chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu hiện nay khi mà với sự phát triển của khoa học công nghệ và
nhất là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin?
* Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lục
Trước mắt, Nhà nước cần có chính sách đặc biệt để khuyến khích cho kiến thức,
chất xám của thế giới vào Việt Nam càng nhiều càng tốt. Trải "thảm đỏ" để đón chất
xám của thế giới vào Việt Nam qua các kênh như: tư vấn, giảng dạy, làm việc... Có
nhiều ưu đãi đặc biệt cho đội ngũ chất xám đến làm việc tại Việt Nam như ưu đãi về
thuế, về nơi ăn, chốn ở... Cho phép thành lập các học viện, trường đại học, các viện
nghiên cứu để đón kiến thức, kinh nghiệm của thế giới vào Việt Nam. Hơn nữa, hiện
nay chúng ta đang có hàng triệu Việt kiều, trong đó lượng chất xám rất cao. Do đó,
nhà nước phải có chính sách kêu gọi, " trải thảm đỏ" đón tri thức Việt kiều chân chính về nước.
Hiện nay ở nước ta rất ít trường, trung tâm thực sự có chất lượng trong lĩnh vực
đào tạo nguồn lao động cao cấp. Ngay cả công nhân kỹ thuật có tay nghề cao cũng
không được đào tạo có nền tảng mà chỉ được góp nhặt, chắp vá từ những lao động
phổ thông được chủ doanh nghiệp cho đi bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ. Trường
dạy nghề, trung tâm dạy nghề mọc lên khắp nơi nhưng chương trình đào tạo không
đáp ứng được mặt bằng kỹ thuật hiện tại, không theo kịp tiến độ phát triển công nghệ
cao của thế giới. Do đó Nhà nước phải hỗ trợ kinh phí đầu tư cho nguồn lao động
cao cấp này, tạo điều kiện để đưa ra nước ngoài đào tạo nếu cần thiết.
Trước tình trạng khan hiếm lao động chất xám, để tự cứu mình, các doanh
nghiệp cần thiết lập mối quan hệ với các trường đại học, cao đẳng... để tham gia ý 20