



















Preview text:
   
ĐỀ TÀI: Nâng cao nhận thức về vai trò của truyền thông đại chúng trong 
định hướng dư luận xã hội   
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI 
CHÚNG TRONG ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI 
1.1. Tính cấp thiết nâng cao nhận thức về vai trò của truyền thông đại 
chúng trong định hướng dư luận xã hội 
Đất nước mở cửa, hội nhập, cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã 
hội, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều hệ lụy mang lại từ công cuộc đổi 
mới. Các vấn đề về tranh chấp đất đai, ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội và 
nhất là vấn đề tham nhũng đã gây ra nhiều bức xúc trong các tầng lớp nhân dân… 
Các thế lực thù địch, phản động, bất mãn, cơ hội chính trị cả ở trong và 
ngoài nước luôn dựa vào đó xuyên tạc, bóp méo sự thật, sử dụng mạng xã hội loan 
tin công kích, chống phá Đảng và Nhà nước với mục đích gây chia rẽ khối đại 
đoàn kết dân tộc, gây bạo loạn lật đổ chế độ. 
Trong thời gian qua, những hiện tượng rất không đẹp được đăng tải trên 
các mặt báo, các trang mạng xã hội có chiều hướng gia tăng; hành vi phản cảm, 
thời thượng, lố bịch của giới Showbiz được quảng bá hàng ngày; khá nhiều danh 
hiệu hão được tiếp tay bởi các cơ quan có trách nhiệm diễn ra rất công nhiên; đưa 
quá nhiều thông tin tiêu cực về tệ nạn mua điểm, chạy chức, chạy quyền, chạy  tiêu chuẩn, chạy tuổi  …
Nguy hiểm hơn, trước những vấn đề đời sống dân sinh mà người dân đặc 
biệt quan tâm, thông qua những ý kiến phát biểu của một số đại biểu Quốc hội 
bên lề các phiên họp của Quốc hội, của Chính phủ đã bị một số tờ báo mạng lợi 
dụng chức năng phản biện xã hội của báo chí để "đặt lại vấn đề", thậm chí cố tình 
"lật ngược chân lý"… đưa tin giật gân với mục tiêu câu khách, không thực hiện 
đúng chỉ đạo định hướng thông tin. 
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải nhận thấy một điểm yếu nữa mà báo chí, 
truyền thông thường xuyên vấp phải, đó là còn tỏ ra lúng túng trong phối hợp xử      1       
lý thông tin một số vấn đề, sự kiện được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; có lúc 
thông tin báo chí đi sau mạng xã hội hoặc sử dụng thông tin từ mạng xã hội một 
cách tùy tiện, thiếu cân nhắc, thiếu kiểm chứng; hay trước những thông tin xuyên 
tạc, kích động, bịa đặt về cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt 
Nam thực chất là "thanh trừng nội bộ", là "cuộc đấu đá phe phái, triệt hạ lẫn nhau". 
Sự bị động, lúng túng của thông tin, truyền thông còn có phần trách nhiệm 
lớn của các cơ quan chức năng, của các đơn vị, địa phương trong việc chia sẻ, 
cung cấp thông tin kịp thời để định hướng, trấn an dư luận. 
Những vụ việc sai phạm của cán bộ, công chức trong dự án Thủ Thiêm, 
trong kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2018, hay xử lý các sai phạm nhà 
số 8 phố Lê Trực, các dự án BT, BOT và mới đây là dự án đường sắt Cát Linh - 
Hà Đông... là những vụ việc không những làm nóng dư luận xã hội, mà còn nóng 
cả nghị trường Quốc hội, nhưng việc xử lý, giải quyết dây dưa từ năm này qua 
năm khác mà không có kết quả, khi báo chí và người dân chất vấn thì những người 
có trách nhiệm giải thích quanh co, tìm cách lảng tránh để sự việc rơi vào im lặng. 
Những hành động như vậy đã trở thành "bữa tiệc" cho các "anh hùng bàn 
phím", các báo mạng, báo lề trái nhân danh giám sát, phản biện xã hội đưa ra 
những phân tích, đánh giá có sự bao che, nương nhẹ, đặt ra những vấn đề đi ngược 
lại chính sách của Đảng, Nhà nước và lợi ích của nhân dân, dẫn dắt độc giả đi từ 
hoang mang đến hồ nghi, dần dà suy giảm niềm tin vào những thông tin chính  thống. 
Do vậy, công tác định hướng dư luận xã hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng 
trong bối cảnh hiện nay và là một nhiệm vụ không thể thay thế trong công tác tư 
tưởng của Đảng, góp phần giữ vững sự trật tự, ổn định trong xã hội để phát triển 
đất nước. Dư luận xã hội là thước đo về hiệu quả của công tác thông tin, tuyên 
truyền. Thành công của công tác thông tin, tuyên truyền thể hiện ở chỗ tạo ra được 
dư luận xã hội chín chắn, có các thái độ, phán xét đánh giá đúng đắn về các sự 
kiện, hiện tượng, vấn đề xã hội.... Nếu công tác thông tin, tuyên truyền nói một      2       
đằng, dư luận xã hội nói một nẻo thì đó là sự thất bại của công tác thông tin, tuyên  truyền. 
1.2. Bản chất của dư luận xã hội 
1.2.1. Nhận thức về thuật ngữ dư luận xã hội 
Dư luận xã hội (public opinion) được các nhà khoa học Mỹ xem “là một 
trong những lĩnh vực đa dạng nhất trong khoa học chính trị”1 . Gần một thế kỷ 
qua, các nhà nghiên cứu tâm lý học, kinh tế học, xã hội học, chính trị học... và 
thậm chí cả các nhà sinh học đều cố gắng trả lời những câu hỏi trên. Dư luận xã 
hội được tìm thấy trong tất cả các lĩnh vực của tư duy xã hội, “nó đã làm cho các 
nhà xã hội học, các nhà khoa học chính trị, sử học thực sự lúng túng, và họ sẽ vội 
vàng giả định sự hiện diện của bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề tổng thể”.2 
Ở cấp độ lý thuyết, vấn đề ở đây hoàn toàn là nội dung của việc kết hợp 2 
thuật ngữ cùng tồn tại: opinion (ý kiến) và public (công chúng). Làm thế nào để 
một từ gọi là public (công chúng) có thể được hiểu là sự hình thành cho từ opinion 
(ý kiến), theo chúng tôi, với tình trạng đa ý kiến về hình thức diễn ngôn của thuật 
ngữ "public opinion", khi chuyển ngữ sang tiếng Việt, một số tài liệu thường sử 
dụng theo nghĩa: ý kiến công chúng = ý kiến cộng đồng = công luận = dư luận xã 
hội = ý kiến quần chúng = ý nhân dân… 
Trong số đầu tiên của Tạp chí The Public Opinion Quartely năm 1937, 
Floyd H. Allport (1890-1979) định nghĩa dư luận như sau: “Thuật ngữ “dư luận 
xã hội” có nghĩa hàm ý tới tình huống có nhiều cá nhân mà trong đó các cá nhân 
bộc lộ bản thân họ, hay có thể được yêu cầu bày tỏ ý kiến của họ - như tán thành, 
ủng hộ (hoặc không tán thành, phản đối) một số điều kiện, một số người xác định 
nào đó, hay một đề xuất quan trọng phổ biến, tương xứng với số lượng, cường độ 
và sự kiên trì, khiến cho hành động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới đối tượng 
liên quan có thể xảy ra”.3   
1. Berinsky A.J. and others (2012), New Directions in Public Opinion (Định hướng mới trong dư luận xã hội), 
Routledge Taylor & Francis Group, pp. 1. 
2 . Binkley R.C. (1928), “The concept of public opinion in the social sciences (Khái niệm dư luận trong khoa học 
xã hội),” Social Forces, Vol.6, No. 3, pp. 389. 
3. Floyd H. Allport (1937), Toward a Science of Public Opinion (Hướng đến một khoa học về dư luận xã hội), 
The Public Opinion Quarterly, 1: 7ff, 23.      3       
Dư luận ám chỉ những ý kiến được chia sẻ trong những nhóm người rộng 
lớn (thường được gọi là “công chúng”) mà giữa họ đều có cái riêng trong cái 
chung, chẳng hạn như đó là tất cả những người đàn ông trong một xã hội công 
dân. Tuy nhiên, một số khía cạnh của những định nghĩa đầy đủ hơn vẫn gây ra 
tranh luận xuyên suốt hơn 200 năm nay.4 
Năm 1906, báo The Independent ngày 14/6/1906 tuyên bố: “Dư luận là một 
điều khác biệt từ cảm xúc đơn thuần của công chúng, mặc dù có hình thức của 
cảm xúc căng thẳng hay tính đa cảm dễ chịu”. “Dư luận là phức hợp về sự hiểu 
biết, sự sáng suốt để nhận xét và óc phán đoán/chỉ trích. Nó là sản phẩm của hoạt 
động trí óc. Nó được tạo ra bởi sự điều tra, thảo luận và nhận xét mang tính phê 
bình về một tình huống. Nó là kết quả thực của việc “thu thập thực tế” một tập thể 
và sự suy nghĩ của tập thể về chúng trong tâm trạng ổn định”5. 
Trong một nghiên cứu từ năm 1995, Mai Quỳnh Nam đã đưa ra định nghĩa 
như sau: Dư luận là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá của các 
nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tượng đại diện cho lợi ích 
xã hội cấp bách trên cơ sở các quan hệ đang tồn tại6. 
Nguyễn Quý Thanh trong tác phẩm Xã hội học về dư luận, xuất bản năm 
2006, đã định nghĩa: Dư luận là ý kiến có tính chất đánh giá về các vấn đề xã hội 
mà nhóm công chúng cảm thấy có ý nghĩa với họ hoặc là vấn đề đó động chạm 
đến lợi ích chung, các giá trị chung7. 
Trong tác phẩm viết chuyên về truyền thông và dư luận, tác giả Nguyễn 
Văn Dững cũng đề xuất một định nghĩa khá chi tiết: Dư luận - đó là hệ thống, 
những luồng ý kiến, phán xét, đánh giá về những tình huống cụ thể, được hiểu và 
đánh giá của nhận thức quần chúng ngày hôm nay, và của những khái niệm xuất   
4. Oskamp S. (1977), Attitudes and Opinions (Thái độ và Ý kiến), Prentice-Hall, Inc, Englewood Cliffs, New  Jersey 07632. 
5. Wilson F.G (2013), sđd, pp.97. 
6. Mai Quỳnh Nam (1995), “Dư luận - Mấy vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí xã hội học, số  1/1995, Hà Nội, tr. 4. 
7. Nguyễn Quý Thanh (2006), Xã hội học về dư luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội ,tr. 46.      4       
hiện gắn với những tình huống trên vì mục đích gì và bằng cách nào cần phải thay 
đổi, điều chỉnh hay duy trì trật tự thực tại đang diễn ra8. 
Từ định nghĩa trên, có thể h ể
i u đầy đủ về dư luận như sau: 
(1) Dư luận là hình thái tư duy tập thể thường ngày dưới dạng phức hợp 
các ý kiến, tương tác với nhau qua quá trình thảo luận thể hiện nhận thức, tình 
cảm, ý chí của các nhóm xã hội. Ý kiến được các cá nhân trao đổi trở thành ý kiến 
chung, cá nhân trở thành người mang dư luận. Tư duy tập thể khác tư duy cá nhân, 
khác ý kiến chung, khác ý kiến riêng. 
(2) Dư luận có thể chỉ là đánh giá, phán xét hoặc kiến nghị, hoặc đưa ra yêu 
sách, giải pháp. Khi dư luận chỉ mới đánh giá, phán xét, chưa đưa ra được kiến 
nghị hoặc yêu sách, giải pháp thì sự kiện của dư luận chưa hoàn thành. 
(3) Dư luận có thể có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau, tạo 
thành các luồng ý kiến thuận chiều, trái chiều. 
(4) Dư luận có thể là ý kiến của đa số hoặc thiểu số. Ý kiến đó được một 
nhóm công chúng tranh luận và đồng thuận về cơ sở lợi ích hoặc/và giá trị mà họ  quan tâm. 
(5) Chỉ có những vấn đề, sự kiện, hiện tượng xã hội liên quan đến lợi ích 
quan tâm của nhiều người mới có khả năng tạo ra dư luận (lợi ích là cơ sở để x ấ u t  hiện các tranh luận). 
(6) Giá trị và chuẩn mực là căn cứ mà dư luận hướng đến. 
1.2.2. Tin đồn và dư luận xã hội 
Theo Peterson và Gist, “Tin đồn” (Rumor) được đề cập một cách thông 
thường nhất đó là thông tin chưa được xác minh hoặc lời giải thích về các sự kiện, 
lan truyền từ người này sang người khác và liên quan đến một đối tượng, sự kiện 
hoặc vấn đề công chúng quan tâm”9. 
Tổng hợp các nghiên cứu tính đến nay, có thể thấy tin đồn được hiểu như  sau:   
8. Nguyễn Văn Dững, (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động, Hà Nội, tr. 25. 
9. Peterson W.A., Gist N.P. (1951), “Rumor and public opinion (Tin đồn và dư luận xã hội)”, American Journal 
of Sociology, Septembre 1951, vol.57, No.2, pp. 159.      5       
- Tin đồn dễ xảy ra khi xã hội quan tâm và lo ngại về một quá khứ hay một 
sự kiện được mong đợi. Xã hội với cơ chế kiểm soát thiếu thông tin chính thức và 
lời giải thích thỏa đáng cũng dễ làm cho tin đồn gia tăng. 
- Tin đồn hình thành ban đầu không được xác minh hoặc ghi nhận bằng một 
kênh truyền thông chính thức; cơ chế lan truyền ban đầu của nó thường là qua 
truyền miệng hoặc qua các trang mạng xã hội phi chính thức, và nó cũng được 
thảo luận phi chính thức khi sự quan tâm của các cá nhân có xu hướng gia tăng. 
Công chúng của tin đồn được mở rộng ra cả những người ban đầu vốn không quan 
tâm khi những người này được chuyển từ nhóm thảo luận này sang nhóm thảo 
luận khác, và thường được củng cố bằng cách trích dẫn những nguồn được cho là  chính thống. 
- Khi một tình huống có vấn đề, thu hút sự quan tâm của công chúng nhưng 
lại thiếu vắng thông tin lý giải đã được kiểm chứng, chính thức và thuyết phục thì 
cách lý giải chưa được kiểm chứng, không chính thức và có phần “bán tín, bán 
nghi”10 sẽ là cơ sở để xuất hiện tin đồn. 
- Tin đồn về cơ bản là kết quả của việc bóp méo trong nhận thức và trong 
giao tiếp bằng lời nói đơn phương. Vì vậy, không có những thay đổi xảy ra trong 
quá trình thảo luận phi chính thức. Các cá nhân lan truyền tin đồn đến một loạt 
người khác, nhóm khác, tất nhiên người ta không thể đưa ra các phiên bản tin đồn 
khác nhau, nhưng nó lại được thêm thắt, thêu dệt các chi tiết khi được truyền từ 
người này sang người khác. Đó không phải do trí nhớ của người truyền đạt mà là 
thể hiện những kỳ vọng, nỗi sợ hãi, lo âu, thù địch và khát vọng của cá nhân họ 
và xã hội. Sự phát triển và lan truyền tin đồn liên quan đến việc giải thích, thảo 
luận, suy đoán và tưởng tượng, có khi là bịa đặt. 
- Sự bóp méo của tin đồn được giải thích rằng: một người, trong vai trò 
người lan truyền có thể quan tâm đến tin đồn nhiều hơn khi ở trong vai trò người 
nhận. Uy tín của người lan truyền sẽ cao hơn nếu như câu chuyện được kể có vẻ 
chân thực. Người lan truyền có đủ động lực để quên những chi tiết khiến câu   
10. Lê Văn Hảo (2012), Khi tin đồn tìm ta trú ngụ,  http://www.tamly.com.vn/home/?act=News-Detail-s-11-
1645- Khi_tin_don_tim_ta_tru_ngu.html.      6       
chuyện trở nên mơ hồ, đồng thời nhấn mạnh những chi tiết khiến nó hợp lý và 
đưa vào những chi tiết chứng thực mới. 
- Trong quá trình truyền miệng, một số chi tiết của tin đồn có thể giảm 
xuống, nhưng một số chi tiết khác lại bị phóng đại lên. Nhiều trường hợp, chủ thể 
lan truyền tin đồn còn sử dụng phương tiện truyền thông một cách hợp pháp để 
lừa bịp những người cả tin. Khi tin đồn được “chính thống hóa” trên báo chí, với 
sức mạnh vô biên của các phương tiện truyền thông đại chúng, nó trở thành “quả 
bom” có sức công phá khủng khiếp. 
- Trong các tin đồn nói chung có nhiều tin đồn không xác thực, một số tin 
đồn xác thực, một số khác chứa đựng cả 2 yếu tố: nhiều thông tin chi tiết trong tin 
đồn là sai lệch nhưng vấn đề mà nó đề cập lại là có thật11. Ngay cả khi tin đồn là 
sai hoàn toàn thì nó vẫn chứa đựng một dạng “sự thật”, bởi nó cho chúng ta biết 
rằng có một chuyện gì đó đang diễn ra và đòi hỏi cần phải xử lý. 
- Tin đồn liên quan đến hầu hết các lĩnh vực như chính trị, tài chính, tội 
phạm, trật tự xã hội, thị trường, nghệ thuật... Tin đồn thường gợi lên nhiều liên 
tưởng cảm xúc, hấp dẫn, kỳ quặc, kỳ lạ... Bởi vậy, tin đồn có nhiều cảm xúc hơn 
dư luận. Tâm lý đám đông và hành động theo tâm lý đám đông dễ xảy ra tức thì 
và mãnh liệt. Khi công chúng phản ứng bằng tình cảm với một vấn đề, sự suy 
đoán và tưởng tượng sẽ được khơi dậy. Tin đồn phản ánh tâm trạng bất an nào đó  của người dân. 
- Tin đồn tiêu cực thường dễ được lan truyền hơn tin đồn tích cực. Nhóm, 
cá nhân càng nổi tiếng, là “người của công chúng” thì càng dễ là mục tiêu mà tin 
đồn nhắm đến. Phần lớn các tin đồn đều mang tính chất “phá” nhiều hơn là “xây’". 
Tin đồn có thể khiến một doanh nghiệp sạt nghiệp, cũng có thể hạ gục uy tín một  cá nhân. 
- Đám đông nặc danh là chủ thể của tin đồn; mỗi người đến lượt mình đều 
có thể trở thành một nguồn chế biến tin và phát tin12, với kiểu “nghe nhiều người   
11. Lê Văn Hảo (2012), Khi tin đồn tìm ta trú ngụ... 
12. Trần Hữu Quang (2003), “Thử phân tích một tin đồn”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 23/10/2003, tr. 40      7       
nói rằng”. Cũng bởi nặc danh nên rất khó tìm được người chịu trách nhiệm về nội 
dung mà họ truyền đạt. 
Phân biệt tin đồn và dư luận xã hội 
- Dư luận xã hội và tin đồn giống nhau trước hết ở chỗ cả hai đều là hiện tượng 
tâm lý xã hội, là những kết cấu tinh thần, quá trình tư duy đặc trưng cho nhóm 
người nhất định. Về cơ chế, dư luận xã hội và tin đồn đều lan truyền nhanh và dễ 
biến dạng. Nhu cầu, lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội đều chi phối mạnh đến tin 
đồn và dư luận xã hội. 
- Mối quan hệ giữa dư luận xã hội và tin đồn vừa là quan hệ cộng hưởng, vừa 
mang tính loại trừ sâu sắc. Tin đồn có thể đưa tới dư luận xã hội hoặc không (tùy 
thuộc đối tượng khách quan - sự kiện, vấn đề xã hội được đề cập có thật hay 
không, có được thực thi hay không?). Ví dụ, có thông tin giá xăng sẽ được điều 
chỉnh. Nếu điều này không thành hiện thực, nó chỉ là tin đồn, mức giá vẫn giữ 
nguyên, tất nhiên không có dư luận giá xăng đắt hay rẻ nữa (vì mức giá vẫn giữ 
nguyên), tin đồn đến đây bị triệt tiêu hoặc biến thể trở thành bài học. Song, nếu 
giá xăng được điều chỉnh (tin có thật), tất yếu sau đó sẽ có những dư luận về giá  xăng đắt rẻ... 
- Tin đồn có thể xuất hiện trước dư luận xã hội. Ví dụ, trước thông tin giá xăng 
tăng, người ta đổ xô đi mua xăng..., đó là hiệu ứng của tin đồn. Khi giá xăng đã 
được thông báo chính thức và niêm yết cụ thể, sẽ không ai còn tiếp tục đổ xô đi 
làm như vậy nữa. Lúc này sẽ có những ý kiến như: giá xăng đắt hơn đợt trước, 
xăng bên Mỹ hoặc Trung Quốc có giá thấp hơn ở Việt Nam..., đó là dư luận. 
Có thể phân biệt tin đồn và dư luận xã hội qua bảng so sánh sau:    Tin đồn  Dư luận 
Về nguồn - Từ sự kiện có thật hoặc không - Từ sự kiện có thật 
gốc xuất có thật   
hiện 
- Xuất phát từ người khác (tôi - Xuất phát từ chính bản thân 
nghe người này nói, người kia người phát ngôn (tôi được  nói...)      8       
- Xuất hiện khi người ta thiếu biết... hoặc, theo ý kiến của tôi  (hoặc thừa) thông tin  thì...) 
- Không được đảm bảo về nguồn  gốc  Địa chỉ 
- Không có địa chỉ rõ ràng 
- Xác định được chủ thể, khách 
thể, hình thức biểu hiện và đối  tượng của nó 
Về cơ chế - Con đường bí mật không chính - Con đường không chính thức  hình thành thức  và chính thức  - Ý kiến cá nhân 
- Có thể dưới dạng "khuyết 
danh" do lo sợ bị trừng phạt 
- Thông qua giao tiếp tranh  luận, va đập ý kiến  Kênh 
- Truyền miệng giữa các cá nhân - Các phương tiện thông tin đại 
truyền tải - Các trang mạng phi chính thức, chúng 
đôi lúc bằng các phương tiện  truyền thông đại chúng 
Cường độ - Cường độ = tính hấp dẫn + tính - Cường độ = va đập ý kiến +  không xác định 
phát triển ý kiến cá nhân hoặc 
- Chủ yếu dựa vào cảm xúc chủ nhóm 
quan nên tính tự phát cao, lan  truyền nhanh 
Mục đích - Mục đích cá nhân - thường bị - Vì lợi ích chung 
xuyên tạc bởi tính chủ quan của  người truyền tin  Tính 
- Rút gọn chi tiết, hoặc cường - Thông tin chính xác -> lan  rộng/hẹp 
điệu hóa -> lan truyền nhanh  truyền nhanh 
- Lúc ban đầu, thường rất phân 
tán, nhưng sau đó, thông qua sự      9       
- Loang càng xa thì càng có nhiều trao đổi, tranh luận, tính thống 
biến thái, do không ngừng được nhất thường tăng lên  thêm/bớt, thêu dệt 
Tính vấn - Không có vấn đề hoặc vấn đề - Cho biết chuyện gì đang xảy  đề  -giải giả 
ra, gây ra phản ứng gì, cách giải 
quyết vấn - Không thể đưa ra được cách giải quyết ra sao từ góc độ của chủ  đề 
quyết thực sự nào cả về mặt thông thể 
tin, nhận thức lẫn hành động 
Tính chân - Có tính “thất thiệt” (mặc dù có - Phản ánh trung thực suy nghĩ,  thực 
những tin đồn có phần nào đó là tình cảm, thái độ của chủ thể  sự thật) 
- Nhập nhằng “nước đôi”, “lờ  mờ”  Thành  - Cảm xúc chủ quan 
- Lý trí (có cả cảm xúc và ý chí)  phần chủ  yếu 
Quan hệ - Trình độ sơ khai thường dẫn đến - Trình độ cao thường dẫn đến  với dân trí tin đồn  dư luận   
1.2.3. Bản chất của dư luận xã hội 
Dư luận xã hội có những đặc trưng, bản chất như sau: 
Dư luận xã hội không chỉ thể hiện một mặt riêng lẽ nào đó của ý thức xã 
hội như triết học, đạo đức học, ý thức chính trị, tôn giáo ... mà còn là sự thể hiện 
một cách tổng hợp của ý thức xã hội trong một thời gian nhất định, bao gồm cả 
mặt ý thức hệ và tâm lý xã hội. Khi đã hình thành dư luận xã hội, bản thân của dư 
luận đã là sự nhào nặn tác động qua lại của các hình thái ý thức xã hội. Chính vì 
vậy, trước một vấn đề, những nhóm xã hội có quan điểm trình độ chính trị, thời 
gian, văn hóa, đạo đức... khác nhau thì sẽ có cách thức thể hiện ý kiến dư luận  khác nhau      10       
 Dư luận xã hội mang tính hiện thực, bởi vì mặc dù là một hiện tượng tinh 
thần nhưng dư luận xã hội gắn rất chặt với hiện thực, nó có tác động to lớn đối 
với thực tiễn, nó phản ánh tâm tư nguyện vọng, lợi ích, nhu cầu của công chúng. 
Dư luận xã hội không phải là cái tạo ra để làm phong phú đới sống tinh thần mà 
là để điều chỉnh tác động đến thực tiễn. Trong bản thân dư luận bao giờ cũng chứa 
đựng yếu tố trình độ nhận thức tư tưởng và thái độ, tâm thế, xung hướng hành 
động của công chúng. Vì vậy, dư luận xã hội là cầu nối giữa nhận thức và hành  động thực tiễn, 
Trong xã hội có giai cấp, dư luận xã hội luôn luôn mang tính giai cấp sâu 
sắc, xuất phát từ lợi ích giai cấp. 
 Dư luận xã hội mang tính kinh nghiệm, đựơc hình thành dựa trên cơ sở của 
kinh nghiệm đời sống và trên những quan hệ trực tiếp chứ không phải bằng con 
đường nhận thức, tư duy phân tích lôgíc. Vì vậy, dư luận xã hội vừa có tính thuyết 
phục cao nhưng mặt trái của nó là cũng có khi dư luận không chính xác, không 
phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Vì vậy, khi tiếp cận dư luận xã hội ta phải 
nhận thức rõ điều này. 
Dư luận xã hội như là một cơ chế tâm lý xã hội, nghĩa là có sức mạnh áp 
đặt ép buột chi phối đối với hành động của cá nhân. Nếu là dư luận tích cực, cá 
nhân hoặc nhóm sẽ cảm thấy được nâng lên, thăng hoa, nhưng nếu là dư luận tiêu 
cực có thể làm cho con người bắt buộc tuân theo, suy sụp đôi khi dẫn người ta đến  chổ tự tử. 
Dư luận xã hội tồn tại, phát triển biến đổi phụ thuộc rất lớn và gắn chặt với 
các phương tiện truyền thông đại chúng. Dư luận xã hội có tính lây lan rất mạnh, 
dựa trên các kênh tuyên truyền, trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Sản 
phẩm của truyền thông đại chúng chính là dư luận xã hội. 
1.2.4. Vai trò và chức năng của dư luận xã hội 
Dư luận xã hội là một trong những biểu hiện sớm nhất của hình thái ý thức 
xã hội. Trong lịch sử loài người, dư luận xã hội đóng vai trò điều hòa các mối 
quan hệ xã hội ngay cả khi trong xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp. Đánh giá      11       
hiệu quả của dư luận xã hội cần xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò tích 
cực của các yếu tố tâm lý, tư tưởng và vai trò của quần chúng nhân dân trong đời 
sống xã hội. Nói về vai trò của dư luận xã hội trong hoạt động quản lý, ta thấy 
rằng dư luận xã hội khen ngợi, khuyến khích động viên những cá nhân siêng năng, 
có ý thức kỷ luật ..., nó “tẩy chay” những cá nhân lười biếng, vô kỷ luật. Dư luận 
xã hội còn đựơc xem như công cụ để củng cố quyền lực chính trị của giai cấp cầm 
quyền . Người ta còn tạo ra dư luận để điều chỉnh hướng phát triển của xã hội. 
Đảng ta cũng sử dụng dư luận xã hội như một công cụ để xây dựng, chỉnh đốn 
Đảng cũng như hoạch định chính sách. Dư luận xã hội cũng là diễn đàn để người 
dân phát huy quyền làm chủ, xây dựng quyền làm chủ xã hội. Trong xã hội xã hội 
chủ nghĩa, dư luận xã hội còn là phương tiện để tăng cường quan hệ giữa đảng 
với quần chúng nhân dân, cộng đồng trong xã hội. Dư luận xã hội còn góp phần 
hoàn thiện công tác quản lý dựa trên cung cấp cơ sở khoa học, việc hoạch định 
đưa ra quyết định chính sách phải dựa trên những thông tin của hệ thống xã hội 
mà dư luận là một kênh thông tin quan trọng. Do đó, dư luận xã hội có vai trò 
quan trọng trong việc ổn định phát triển xã hội. 
Vai trò của dư luận xã hội thể hiện ở các chức năng sau: đánh giá, điều hòa, 
kiểm soát, giáo dục, tư vấn. 
Chức năng đánh giá: dư luận xã hội đánh giá hành vi xã hội, các chuẩn mực 
xã hội, các quá trình xã hội, cụ thể là dư luận xã hội đánh giá các hành vi đó là 
đúng hay sai, tốt hay xấu. Những chuẩn mực mà dư luận xã hội dựa vào để đánh 
giá có thể là những điều luật hoặc chuẩn mực chung của đông đảo công chúng 
trong xã hội. Sự đánh giá này thường khác nhau trong các nhóm xã hội khác nhau 
cũng như trong khoảng thời gian khác nhau. 
Chức năng điều hòa: thể hiện ở chổ dư luận xã hội góp phần sắp xếp, điều 
chỉnh lại các quan hệ xã hội cho đúng mục đích và chuẩn mực trên cơ sở phán 
xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng. Dư luận xã hội nêu ra các chuẩn mực, chỉ 
ra những việc nên làm, nên né tránh hoặc điều chỉnh hành vi, cách cư xử của mọi      12       
người. Trong cuộc sống, những dư luận xã hội của giai cấp tiên tiến thường có vai 
trò đặc biệt quan trọng, thúc đẩy xã hội phát triển. 
Gắn với chức năng điều hòa là chức năng giáo dục. Dư luận xã hội khi đã 
hình thành nó thường tác động vào ý thức con người, nghĩa là chi phối ý thức cá 
nhân, nên cần phải điều chỉnh cho phù hợp với ý thức chung của cộng đồng. Dư 
luận tác thưởng, đồng tình có tác dụng khuyến khích các tích cục, cái hay, cái đẹp, 
cái tốt, dư luận lên án chê bai có tác dụng hạn chế, ngăn ngừa các tiêu cực, cái  xấu. 
Dư luận xã hội còn có chức năng kiểm soát thông qua sự phán xét, đánh 
giá, giám sát hoạt động của các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước có phù hợp 
với các lợi ích xã hội hay không. Dư luận xã hội của cá nhân và các nhóm xã hội 
phải tuân thủ những chuẩn mực mà nó dựa vào để đánh giá và phán xét. 
Chức năng tư vấn: thông qua nội dung của mình, dư luận đưa ra những kiến 
nghị, giải pháp cho những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm, giúp cho cơ quan 
nhà nước giải quyết những vấn đề quan trọng của xã hội 
Ngoài ra, dư luận xã hội có chức năng là thước đo bầu không khí chính trị  xã hội 
Nói chung, xã hội càng phát triển, trình độ văn hóa của quần chúng ngày 
càng cao, dân chủ càng mở rộng thì sức mạnh của dư luận xã hội càng lớn, nó các 
tác động đến xã hội như những luật lệ không thành văn bản. Nghiên cứu dư luận 
xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác quản lý xã hội, đối với việc đề 
ra và triển khai các chủ trương nhiệm vụ cụ thể trong từng thời điểm nhất định. 
Bởi vì trong hoạt động quản lý xã hội đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết sâu sắc thực 
tiễn xã hội, hiểu biết nhu cầu và lợi ích của quần chúng trong sản xuất cũng như 
trong đời sống. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong công cuộc xây 
dựng CNXH nói chung là sự nghiệp đổi mới, nói riêng đó là kết quả trí tuệ và 
công sức của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự gắn bó máu thịt với nhân 
dân. Vì vậy tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội một cách nghiêm túc là phương 
tiện cần thiết để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và mở rộng dân chủ xã hội.      13       
Dư luận xã hội sẽ cho chúng ta những thông tin một chiều về các mặt hoạt 
động của các cơ quan Đảng và nhà nước, các thông tin này là những tín hiệu phản 
hồi từ phía xã hội, từ phía quần chúng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh 
tế xã hội. Những thông tin này là một trong những căn cứ quan trọng để Đảng và 
nhà nước kiểm tra công tác của mình, để có những chủ trương quyết định cần 
thiết, sát hợp với thực tế. Trong xã hội ta hiện nay, việc tìm hiểu và nghiên cứu 
dư luận xã hội đã trở thành điều kiện quan trọng để đảm bảo công tác quản lý xã 
hội thật sự dựa trên cơ sở khoa học. 
1.3. Vai trò của truyền thông đại chúng trong định hướng dư luận xã hội 
1.3.1. Khái niệm định hướng dư luận xã hội 
Định hướng là một trong bốn vai trò của báo chí, bên cạnh khơi nguồn, 
phản ánh, truyền dẫn và điều hòa, đối với dư luận xã hội. 
Định hướng là hoạt động có ý thức của con người trong nhận thức, thái độ, 
hành vi; và muốn nhận thức thái độ, hành vi của mình được hiệu quả, nguồn lực 
trí tuệ và cảm xúc của mỗi người và cả cộng đồng cần được định hướng tập trung. 
Trên phạm vi xã hội, muốn tập trung nguồn sức mạnh cả tinh thần và vật chất vào 
việc giải quyết vấn đề nào đó cần phải định hướng huy động, tổ chức nguồn lực 
thì mới đạt được hiệu quả thực tế. 
Ở bình diện cá nhân, định hướng là việc bản thân mỗi người tự xác định 
phương hướng nhận thức và hành động trên cơ sở nhận thức được bản thân và 
những điều kiện xung quanh, huy động nội lực cá nhân và chịu sự tác động từ các 
nhân tố bên ngoài - môi trường sống và các mối quan hệ xã hội. Ai có yếu tố nội 
lực tốt, lại biết phương hướng đúng, dồn trọng tâm nguồn lực vào những việc cần 
giải quyết sẽ dễ đạt thành công hơn. 
Ở bình diện xã hội, việc xác định phương hướng nhận thức và hành động 
cần có hai yếu tố. Thứ nhất là bản thân năng lực nhận thức của cộng đồng. Thứ 
hai là sự kích thích, tác động từ những tác nhân đến cộng đồng xã hội làm cho 
phương hướng nhận thức và hành động của cá nhân, nhóm xã hội được quy tụ về 
một hướng, tạo nên sức mạnh chung.      14       
Bản chất của hoạt động lãnh đạo quản lý báo chí thực chất là khơi dậy 
nguồn lực sáng tạo của cộng đồng, huy động và tổ chức nguồn lực sức mạnh tinh 
thần vật chất của toàn xã hội vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Vấn đề 
định hướng nhận thức, thái độ và hành vi của cộng đồng xã hội về bản chất là định 
hướng dư luận xã hội, tức là định hướng quần chúng nhân dân góp phần tập trung 
giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội lớn đang đặt ra. 
Từ phía lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, định hướng không phải là bắt ép 
cộng đồng nhận thức, suy nghĩ và hành động theo một khuôn mẫu chủ quan duy 
ý chí; mà là quá trình ‘bắt mạch’ được thực tại khách quan, tâm lý nguyện vọng 
và nhu cầu của nhân dân, trên cơ sở ấy quy tụ lòng người, thống nhất cộng đồng 
lại trên cả hai bình diện nhận thức và hành động để thực hiện mục tiêu định hướng 
phát triển, đem lại lợi ích chính đáng cho cộng động và mỗi người. 
Từ phía cộng đồng và nhân dân nói chung, định hướng là nhu cầu khách 
quan của công chúng, dư luận xã hội và nhân dân. Nhân dân luôn có nhu cầu 
thống nhất nhận thức làm cơ sở cho thống nhất ý chí và sức mạnh nhằm khai thác 
nguồn lực vật chất và tinh thần, tập trung lý trí và cảm xúc vào việc giải quyết 
những vấn đề lớn, những nhiệm vụ trọng đại trước mắt, phục vụ sự nghiệp xây 
dựng và phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, thỏa mãn nhu 
cầu ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần. 
1.3.2. Vai trò của truyền thông đại chúng 
Truyền thông đại chúng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã 
hội. Nhiều nghiên cứu cho thấy, trên 50% lượng thông tin xã hội mà con người 
trong xã hội hiện đại thu nhận được là thông qua hệ thống truyền thông đại chúng. 
Đặc biệt truyền thông đại chúng còn là phương tiện truyền tải, phản ánh dư luận, 
và ở một khía cạnh nào đó nó tạo ra dư luận. Sự hình thành dư luận xã hội thông 
qua các phương tiện truyền thông đại chúng có mối liên hệ hai chiều, nghĩa là các 
phương tiện này không chỉ tạo nên dư luận xã hội mà đến lượt nó, dư luận xã hội 
cũng tác động trở lại tới hoạt động của hệ thống truyền thông đại chúng. Vì trong      15       
lĩnh vực thông tin, sự phân chia giữa người truyền tin và người nhận là rất tương 
đối và thường diễn ra đồng thời. 
Vai trò thực tế của dư luận trong đời sống xã hội được tăng cường với sự 
tham gia của các tầng lớp nhân dân vào hoạt động tổ chức và quản lý các quá trình 
xã hội, trong đó hệ thống truyền thông đại chúng có ảnh hưởng to lớn. 
Tác động của truyền thông đại chúng đối với dư luận rất toàn diện, hệ thống 
này không chỉ tỏ rõ vai trò trong các đợt vận động chính trị thường được những 
tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội quan tâm mà còn đi sâu vào những hiện tượng 
thường ngày, nhất là các hiện tượng cấp bách, có tính đột xuất13. 
Hoạt động của hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm báo, 
tạp chí, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm in, mạng máy tính... có tác động, ảnh 
hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành dư luận, thể hiện trên các phương diện sau: 
1.3.2.1. Cung cấp thông tin cho công chúng phán xét, đánh giá 
Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải kịp thời 
và đầy đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc đáp ứng 
nhu cầu và sở thích thông tin của công chúng được coi là những tiền đề cơ bản 
cho sự phát triển của hệ thống truyền thông đại chúng. Trên phương diện này, hệ 
thống truyền thông đại chúng ngày càng phát triển, có những bước tiến nổi bật 
trong những năm đổi mới. Các chương trình phát thanh, truyền hình, xuất bản 
phẩm đa dạng, phong phú, cập nhật hơn với các thông tin về đời sống chính trị, 
kinh tế, văn hóa, xã hội; sự phản ánh của các thông tin cũng chân thực và khách  quan. 
1.3.2.2. Diễn đàn ngôn luận công khai 
Các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai. Nhu 
cầu được bàn bạc, thảo luận các vấn đề chính trị - xã hội vừa thể hiện trách nhiệm 
công dân, vừa là sự thể hiện cái tôi của con người có ở bất cứ thời đại nào. Trình 
độ dân trí của người dân ngày càng được nâng cao. Người dân cũng được tham 
gia rộng rãi hơn vào đời sống chính trị xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng   
13. Mai Quỳnh Nam (1996), “Truyền thông đại chúng và dư luận”, Tạp chí Xã hội học, số 1 (53), 1996, tr. 3-6.      16       
có trách nhiệm truyền tải thông tin về các ý kiến phán xét, đánh giá thái độ của 
công chúng đối với các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong đời sống xã hội. Bằng 
cách này, công chúng sẽ có được cơ hội tham gia ngày càng tích cực và có trách 
nhiệm hơn vào quá trình chuẩn bị, thực hiện giám sát và đánh giá chính sách, luật 
pháp của nhà nước cũng như các hoạt động cụ thể, thường xuyên của các tổ chức  chính quyền. 
1.3.2.3. Định hướng dư luận xã hội 
Các phương tiện truyền thông đại chúng thu hút công chúng vào dòng 
truyền thông để thực hiện hoạt động giao tiếp đại chúng. Công chúng báo chí là 
một tập hợp xã hội rộng lớn, thậm chí ở họ có thể không có mối liên hệ nào, nhưng 
đặc tính giao tiếp của số đông cho thấy tính chất tập thể của kiểu giao tiếp đại 
chúng. Tính chất ấy trong kiểu giao tiếp này tạo nên các tương tác xã hội giữa 
nguồn phát và người nhận. Do đó, Max Weber đã chỉ ra rằng: truyền thông như 
là phương tiện của tương tác xã hội làm sáng tỏ các ý nghĩa mang tính chủ quan 
của một bên là hành động xã hội và bên kia là định hướng xã hội14. 
Trong thời đại bùng nổ thông tin từ mạng internet toàn cầu, người ta có thể 
tìm thấy bất cứ thông tin nào từ một cái click chuột, thì việc cấm đoán, giới hạn, 
siết chặt quản lý truyền thông… chỉ làm cho truyền thông nhà nước mất sức cạnh 
tranh với truyền thông tự do. 
Do đó, để tạo luồng dư luận tích cực nhằm ủng hộ phong trào vận động xã 
hội thì điều kiện tiên quyết cần phải được đảm bảo đó là chuyển hóa những mối 
quan tâm mang tính chất nhóm, bộ phận trở thành mối quan tâm của đông đảo 
người dân. Hay nói cách khác, chúng ta phải có công tác tuyên truyền, vận động 
đến với đông đảo người dân.       
14. Mai Quỳnh Nam (2000), “Về đặc điểm và tính chất của giao tiếp đại chúng”, Tạp chí Xã hội học, số 2 (70),  2000, tr. 8-11.      17       
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG 
TRONG ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN XÃ HỘI 
2.1. Hiện tượng xã hội bức xúc và phản ánh của truyền thông 
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đều nghe, gặp ở đâu đó những sự 
kiện, hiện tượng xã hội bức xúc được đăng tải dày đặc trên các phương tiện truyền 
thông. Có thể lấy ví dụ ở Việt Nam năm 2013 (xem hộp 1), chúng ta đã chứng 
kiến những cơn bão dư luận từ các hiện tượng oan sai, hôi của, cách ứng xử của 
bác sĩ với bệnh nhân, ứng xử của nhân viên công quyền... được đưa lên mặt báo 
và các trang mạng xã hội. 
Hiện tượng xã hội bức xúc năm 2013 
- Vụ việc hôi của: ngày 4/12/2013, tại vòng xoay Tam Hiệp (Tp. Biên 
Hòa - Đồng Nai), một chiếc xe tải chở 1.500 thùng bia bị tai nạn, hàng trăm 
người dân qua đường và sống gần đó lao vào nhặt bia mang về; có người còn 
lôi cả xe ba gác xông vào “cướp”, “hôi của” mặc cho người lái xe van nài đau 
khổ. Tuy nhiên, đây không phải lần đầu tiên có hiện tượng này. Trước đó đã 
từng có vụ người dân tranh nhau nhặt 60 két bia của chiếc xe ô tô gặp nạn tại 
phường Tân Thới Nhất (quận 12 - Tp. Hồ Chí Minh), Hay vụ tranh cướp 50 
triệu rơi tung tóe ở giao lộ Bà huyện Thanh Quan - Võ Văn Tần (Tp. Hồ Chí 
Minh) ngày 16/10/2013, khi một người đàn ông bị cướp giật; thay vì giúp người 
bị nạn, người ta chạy ra “nhặt giúp” và cho vào... túi mình. Những vụ việc “hôi 
tiền” kiểu này đã diễn ra không ít lần và đều được đưa lên các phương tiện thông  tin đại chúng. 
- Vụ án tại Thẩm mỹ viện Cát Tường: ngày 19/10/2013, chị L.T.T.H tới 
thẩm mỹ viện Cát Tường (đường Giải Phóng, Hà Nội) để làm phẫu thuật hút 
mỡ bụng, bơm ngực. Việc phẫu thuật khiến chị bị tử vong, tuy nhiên, vị bác sĩ 
gây ra cái chết đã ném xác chị xuống sông Hồng để phi tang. 
- Vụ nhân bản xét nghiệm: tại Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức (Hà Nội), từ 
tháng 7/2012 đến tháng 5/2013, Khoa Xét nghiệm của bệnh viện đã cấp phát, 
thực hiện 2.237 phiếu xét nghiệm cho bệnh nhân, trong đó phát hiện 1.149 phiếu      18       
xét nghiệm huyết trùng nhau và 1.037 phiếu xét nghiệm khống. Trung bình cứ 
một kết quả xét nghiệm được sử dụng cho 2 đến 5 người. Nhiều bệnh nhân khác 
xa nhau về bệnh án, lứa tuổi, nhưng đều có chung một kết quả xét nghiệm. Với 
số phiếu xét nghiệm trên, tổng số tiền mà bệnh viện đã trục lợi từ bảo hiểm y tế 
khoảng trên 60 triệu đồng. 
- Một số vụ việc khác liên quan đến ngành y tế: trong năm 2013 đã có 
một số trẻ em tử vong sau khi tiêm vacxin 5 trong 1 Quinvaxem; một số sản phụ 
bị tử vong do sự thờ ơ, tắc trách của đội ngũ y bác sĩ; những vụ chẩn đoán sai, 
chữa trị sai, phẫu thuật nhầm; vụ ăn bớt thuốc của bệnh nhân phong tại Trung 
tâm Da liễu Hà Đông; vụ “tráo thủy tinh thể” tại Bệnh viện Mắt Trung ương... 
 - Vụ “oan sai 10 năm tù”: người tù N.T.C (Nghĩa Trung - Việt Yên - Bắc 
Giang) được trả tự do sau 10 năm ngồi tù oan ức và toàn bộ diễn biến của vụ án 
được phơi bày trên báo chí. Từ -160- vụ N.T.C, hàng chục vụ án oan khác đã 
được báo chí đưa ra, cũng cùng một kiểu điều tra tắc trách và những thủ đoạn 
bức cung khác nhau, trong đó có những người đã không may mắn được như ông 
C. là còn sống trở về. 
- Vụ đánh người bán hàng rong: ngày 6/12/2013, anh T.X.T. trong khi 
bán hàng dưới lòng đường (phường 25 - quận Bình Thạnh - Tp. Hồ Chí Minh) 
đã bị nhóm nhân viên trật tự quản lý đô thị và bảo vệ dân phố (gồm 09 người) 
cưỡng chế thô bạo trước sự chứng kiến của hàng trăm người dân giữa thanh 
thiên bạch nhật. Hành động này khiến anh T.X.T. bất tỉnh tại chỗ, gần một tiếng 
đồng hồ nằm "còng queo" dưới đất, hai tay vẫn bị còng sau lưng. 
- Vụ bạo hành trẻ em: ngày 13/12/2013 xuất hiện đoạn clip quay cảnh 
bảo mẫu đày đọa, bạo hành trẻ dã man tại Trường Mầm non tư thục P.A. 
(phường Hiệp Bình Phước- quận Thủ Đức - Tp. Hồ Chí Minh) cho thấy hai bảo 
mẫu L.T.Đ.P. và N.L.T.L. đã liên tục hành hạ những đứa trẻ vô tội bằng những 
ngón đòn kinh dị: ấn tay vào trán, tát liên tục vào mặt, ấn cổ x ố u ng đánh vào 
lưng, nhúng đầu trẻ vào thùng nước... trong giờ ăn trưa của các bé. Trước đó, 
ngày 16/11/2013, cũng tại một điểm trông giữ trẻ ở phường Linh Trung - quận      19       
Thủ Đức - Tp. Hồ Chí Minh, bảo mẫu H.N.N. còn quẳng trẻ xuống đất rồi đánh,  đạp đến chết. 
- Về việc ban hành các văn bản quản lý nhà nước: mỗi năm, các cơ quan 
quản lý nhà nước cho ra đời hàng nghìn nghị định, quy định quản lý xã hội, và 
trong năm 2013, người dân và dư luận đã phải nhiều phen hoảng hốt với những 
quy định quản lý phi thực tế như từ trên trời rơi xuống, “bất khả thi”. Nhiều quy 
định xử phạt vi phạm hành chính như “bất hiếu”, “chồng chửi vợ”, “chồng ngăn 
vợ gặp bạn bè”, “ngực lép không được lái xe”, “linh cữu người từ trần không 
được để ô cửa có lắp kính”; hay quy định bổ sung đối tượng ưu tiên tuyển sinh 
đại học, cao đẳng hệ chính quy đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng và người hoạt 
động cách mạng từ thời Cách mạng tháng Tám năm 1945 khi dự thi đại  học,v.v... 
Khi các sự kiện xảy ra, những hình ảnh đắt giá hầu như đều được quay 
phim, chụp hình, ghi âm... đưa ra công luận thông qua các báo, đài, truyền hình, 
các trang mạng xã hội: hình ảnh ấn tượng trên truyền thông của vụ hôi bia là cảnh 
những người dân khu vực Biên Hoà (Đồng Nai), có đến cả trăm người già trẻ, trai 
gái, ôm những thùng bia hay dùng xe xích lô, xe ba gác vồ lấy "của" (những thùng 
bia bị rơi tung toé từ chiếc xe tải bị nạn) bên cạnh người lái xe gầy gò đứng hoang 
mang, khóc lóc van xin. Hình ảnh ấn tượng cho vụ nhân bản xét nghiệm là những 
giọt nước mắt của người tố cáo hành vi nhân bản hàng nghìn kết quả xét nghiệm 
để thu lợi từ bảo hiểm y tế, từ tiền viện phí của bệnh nhân. Bộ mặt lạnh lùng của 
vị bác sĩ và đám tang không có quan tài của nạn nhân đã ám ảnh nhiều người có 
lương tri trong vụ Thẩm mỹ viện Cát tường. Hình ảnh những khuôn mặt đau khổ 
của những người chồng bên xác vợ, người cha người mẹ bên xác con sơ sinh trong 
các vụ tắc trách khi xử trí với sản phụ hay tiêm nhầm vacxin. Hoặc hình ảnh những 
“ác mẫu” thản nhiên hành hạ những đứa trẻ ngây thơ trong clip về bạo hành trẻ 
em. Hình ảnh anh T.X.T. bị bóp cổ, hai tay bị còng quặt ra sau lưng, nằm còng 
queo trên mặt đất; hình -161- ảnh công dân N.T.C. với khuôn mặt ngơ ngác trong      20