


Preview text:
Năng lực trách nhiệm hình sự là gì? Quy định về năng lực TNHS
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và có khả năng kìm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện
hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy, năng lực trách nhiệm
hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định một người có lỗi khi họ thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ những người có năng lực trách nhiệm
hình sự mới có thể có lỗi và mới có thể là chủ thể của tội phạm khi đã đạt độ
tuổi luật định (tuổi chịu trách nhiệm hình sự).
Luật hình sự Việt Nam không quy định năng lực trách nhiệm hình sự một
cách trực tiếp mà quy định gián tiếp qua quy định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự và quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Sở dĩ có
thể quy định theo cách này vì giữa độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự có
quan hệ với nhau, trong đó độ tuổi là điều kiện để có thể có năng lực trách
nhiệm hình sự. Với việc quy định này, Luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa
nhận những người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nói chung là có
năng lực trách nhiệm hình sự. Trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan có trách
nhiệm không đòi hỏi phải đánh giá từng trường hợp là có năng lực trách
nhiệm hình sự hay không mà chỉ phải xác định độ tuổi và cá biệt nếu có sự
nghỉ ngờ, mới cần phải kiểm tra có phải là trường hợp trong tình trạng không
có năng lực trách nhiệm hình sự hay không.
Khái niệm năng lực trách nhiệm hình sự
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực có thể phải chịu trách nhiệm hình
sự của một người nếu thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực trách nhiệm hình
sự là một dạng năng lực pháp lí. Nhà nước xác nhận năng lực này dựa trên các cơ sở:
Thứ nhất, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người có năng lực
nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và
Thứ hai, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có độ tuổi phù hợp
với chính sách hình sự của nhà nước trong giai đoạn cụ thể.
Cơ sở thứ nhất đảm bảo chủ thể của tội phạm là người có năng lực để có thể
có lỗi khi thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội. Cơ sở thứ hai là
cần thiết để thể hiện chính sách hình sự của nhà nước đối với người chưa đủ
18 tuổi có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội.
Con người với cấu tạo sinh học đặc biệt luôn có khả năng hình thành và phát
triển năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi nói ttên. Nhưng khả
năng đó chỉ trở thành hiện thực khi con người được sống trong môi trường xã
hội và phải qua quá trình được giáo dục và tự giáo dục nhất định. Khi đó, con
người sẽ có năng lực nhận thức được đòi hỏi của xã hội và trên cơ sở nhận
thức đó có năng lực điều khiển hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội (Năng
lực điều khiển hành vi ở đây được hiểu đầy đủ là năng lực kiềm chế và năng
lực lựa chọn.). Năng lực này cũng như độ tuổi để có năng lực này không phụ
thuộc vào quy định của pháp luật. Do vậy, năng lực này có thể được coi là
năng lực “tự nhiên” của con người.
Trong trường hợp bình thường, con người đều có năng lực nhận thức và
năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội khi đạt độ tuổi nhất định.
Do vậy, vẩn đề kiểm tra năng lực này không cần được đặt ra cho mọi trường
hợp mà mặc nhiên được thừa nhận, khi chủ thể đã đạt độ tuổi nhất định đó,
trừ trường hợp cá biệt khi có nghi ngờ chủ thể không có năng lực này do mắc
bệnh dẫn đến hoạt động của bộ não bị rối loạn. Vấn đề được đặt ra ở đây là
phải xác định độ tuổi mà ở độ tuổi đó, chắc chắn một người bình thường sẽ
có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội.
Độ tuổi để có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi
của xã hội ttên đây và tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) là khác nhau
nhưng có liên quan với nhau. Tuổi chịu TNHS được quy định không thể thấp
hơn tuổi có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi
của xã hội. Do vậy, luật hình sự chỉ cần xác định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự và được hiểu khi đủ tuổi đó thì chủ thể mặc nhiên được coi là có năng lực
nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội, trừ trường
hợp cá biệt do mắc bệnh mà không có năng lực đó.
Dựa trên mối quan hệ như vậy, luật hình sự Việt Nam xác định người có
năng lực trách nhiệm hình sự là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều
12 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) và không thuộc
trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực nhận thức hoặc năng lực
điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội (Điều 21 bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017 gọi là tình ữạng không có năng lực trách nhiệm hình sự).
Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định như thế nào là có năng lực
trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và quy
định thế nào là trường hợp trong tình trạng không có năng lực nhận thức
hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Với việc quy định
này, luật hình sự Việt Nam mặc nhiên thừa nhận người đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự là có năng lực trách nhiệm hình sự (trong đó bao gồm cả năng
lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội), trừ
trường họp cá biệt do bị bệnh mà không có năng lực nhận thức hoặc năng
lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Do vậy, trong thực tiễn áp dụng,
các cơ quan có trách nhiệm không đòi hỏi phải đánh giá từng trường hợp một
là có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã
hội hay không mà chỉ phải xác định đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay
chưa và cá biệt, nếu có sự nghi ngờ mới cần phải kiểm tra xem có phải là
trường hợp trong tình ttạng không có năng lực TNHS hay không (tình trạng
không có năng lực nhận thức hoặc nãng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội).
Document Outline
- Năng lực trách nhiệm hình sự là gì? Quy định về nă