



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58504431
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MÔI TRƯỜNG, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ ĐÔ THỊ
MÔN ĐÔ THỊ VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Chủ đề: Thành phố đã làm gì để thúc đẩy vấn đề sử dụng năng lượng tái
tạo? Chính sách nhà nước đã hỗ trợ gì cho những nỗ lực của thành phố?
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền Lớp HP: 01 Nhóm sinh viên: Nguyễn Vũ Quỳnh Anh 11216505 Vũ Phương Anh 11210822 Đỗ Thị Dịu 11216523 Nguyễn Thị Linh Giang 11211794 Mai Thế Chinh 11216518 Hà Nội, 2024 lOMoAR cPSD| 58504431 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................................................................... 2
I, Cơ sở lý thuyết ................................................................................................... 2
1.1. Khái niệm năng lượng tái tạo ......................................................................... 2
1.2. Phân loại năng lượng tái tạo .......................................................................... 2
II, Thực trạng sử dụng năng lượng tái tạo ở thủ đô Hà Nội ................................. 6
2.1. Thực trạng ...................................................................................................... 6
2.2. Khó khăn, thách thức ..................................................................................... 7
III, Các chính sách được áp dụng ......................................................................... 9
3.1. Chính sách của Thành phố Hà Nội ................................................................ 9
3.2. Chính sách của nhà nước ............................................................................. 11
IV, Bài học kinh nghiệm, đề xuất kiến nghị ........................................................ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................22 lOMoAR cPSD| 58504431 LỜI NÓI ĐẦU
Năng lượng tái tạo đang trở thành tâm điểm của cuộc cách mạng năng
lượng toàn cầu, không chỉ là một giải pháp đáng kể để giảm thiểu tác động tiêu
cực đến môi trường mà còn là một cơ hội lớn cho sự phát triển bền vững và đảm
bảo an ninh năng lượng cho các quốc gia trên toàn thế giới. Trong bối cảnh này,
Việt Nam, đặc biệt là Thành phố Hà Nội, không chỉ nhận thức được tầm quan
trọng của việc sử dụng năng lượng tái tạo mà còn đang tiến hành nhiều nỗ lực và
chính sách để thúc đẩy việc này trên lãnh thổ quốc gia.
Năng lượng tái tạo không chỉ đơn thuần là các nguồn năng lượng được tái
tạo từ tài nguyên tự nhiên mà còn là biểu tượng của sự sáng tạo và sự tiến bộ
trong ngành công nghiệp năng lượng. Việc hiểu rõ các loại năng lượng tái tạo, từ
điện gió đến năng lượng mặt trời và các nguồn năng lượng khác, là quan trọng
để phát triển chiến lược hiệu quả.
Phần tiếp theo chỉ ra thực trạng sử dụng năng lượng tái tạo ở thủ đô Hà Nội.
Thành phố đặt ra nhiều mục tiêu và kế hoạch để tăng cường sử dụng năng lượng
tái tạo. Tuy nhiên, cùng với những tiềm năng và cơ hội, cũng tồn tại những khó
khăn và thách thức, từ vấn đề kỹ thuật đến tài chính và quản lý.
Cuối cùng, qua những kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc phát triển
năng lượng tái tạo, bài luận đề xuất những bài học cụ thể cho Việt Nam.
I, Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái niệm năng lượng tái tạo
Năng lượng tái tạo hay còn gọi là năng lượng tái sinh. Hiểu một cách nôm
na, năng lượng tái tạo là những nguồn năng lượng vô hạn, liên tục, có khả năng
tái sinh như: năng lượng mặt trời, gió, mưa, thủy triều, sóng và địa nhiệt.
Hiện nay trên toàn cầu, năng lượng tái tạo đang sử dụng chỉ chiếm 16%, quá
ít ỏi so với tiềm năng thực tế của nó. Năng lượng tái tạo sử dụng chủ yếu để ứng dụng vào ngành điện.
1.2. Phân loại năng lượng tái tạo
Có nhiều dạng năng lượng tái tạo. Phần lớn các dạng năng lượng phục hồi,
bằng cách này hay cách khác về căn bản đều phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời.
Năng lượng từ gió và năng lượng thủy điện đều là kết quả trực tiếp của sự chênh
lệch nhiệt độ nóng lên của bề mặt Trái đất, dẫn đến không khí chuyển động (gió)
và lượng mưa hình thành vì bầu không khí được nâng lên (liên quan đến thủy
điện). Năng lượng mặt trời là sự chuyển đổi trực tiếp từ ánh sáng sang điện năng lOMoAR cPSD| 58504431
bằng hiệu ứng quang điện (thông qua các tấm pin năng lượng mặt trời). Năng
lượng sinh khối được lưu trữ ánh sáng mặt trời được chứa trong thực vật. Các
dạng năng lượng tái sinh khác không phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời là năng
lượng địa nhiệt, là kết quả của sự phân rã phóng xạ từ các khoáng vật ở lớp vỏ
Trái đất kết hợp với với nhiệt trong tâm Trái đất, và năng lượng thủy triều là sự
chuyển đổi năng lượng hấp dẫn.
a. Năng lượng mặt trời
Con người đã biết cách ứng dụng năng lượng mặt trời trong hàng ngàn năm
qua để trồng trọt, sưởi ấm và làm khô thức ăn. Theo Phòng thí nghiệm năng
lượng tái tạo quốc gia Hoa Kỳ (NREL) cứ một giờ chiếu sáng của Mặt trời xuống
Trái đất, tất cả nguồn năng lượng này đủ để cả thế giới sử dụng trong một năm.
Ngày nay, chúng ta sử dụng ánh nắng mặt trời theo nhiều cách như sưởi ấm ngôi
nhà, làm nóng nước, tạo ra điện cung cấp cho các thiết bị điện – điện tử…
Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng sinh ra từ các tia bức xạ điện từ
mà mặt trời chiếu xuống trái đất. Nguồn năng lượng này dự kiến sử dụng và tồn
tại trong 5 triệu năm nữa.
Năng lượng Mặt Trời cũng được hấp thụ bởi thủy quyển Trái Đất và khí
quyển Trái Đất để sinh ra các hiện tượng khí tượng học chứa các dạng dự trữ
năng lượng có thể khai thác được.
Tế bào quang điện (solar cell) chủ yếu được làm từ silicon hoặc các vật liệu
khác có khả năng biến đổi ánh sáng mặt trời trực tiếp thành điện năng. Hệ thống
năng lượng mặt trời ngày nay được ứng dụng trực tiếp với các quy mô lớn nhỏ
khác nhau ngay trên mái của các ngôi nhà dân, doanh nghiệp hoặc các cộng đồng
hợp tác xã. Các hệ thống như thế này giúp tạo ra nguồn điện năng dồi dào nhưng
không hề ảnh hưởng về mặt sinh thái.
Hệ thống phát điện bằng các tấm pin năng lượng mặt trời không sản sinh ra
các chất gây ô nhiễm không khí và đặc biệt là không tạo ra CO2 (gây hiệu ứng nhà
kính), miễn là chúng được lắp đặt đúng cách thì hầu hết các tấm pin năng lượng
mặt trời ít tác động đến môi trường.
VD: Năng lượng mặt trời chỉ cung cấp hơn 1% sản lượng điện của Hoa Kỳ,
nhưng chiếm gần một phần ba công suất phát “điện mới”, chỉ đứng sau khí đốt
tự nhiên (số liệu 2017).
b. Năng lượng từ gió
Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển
Trái Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng mặt trời.
Năng lượng gió được khai thác nhờ những tuốc bin gió. lOMoAR cPSD| 58504431
Sự chuyển động của khí quyển được thúc đẩy bởi sự chênh lệch về nhiệt độ
ở bề mặt Trái đất, do lượng nhiệt từ bức xạ của mặt trời chiếu lên bề mặt Trái đất
thay đổi liên tục. Năng lượng gió có thể được sử dụng để ứng cho hệ thống bơm
nước hoặc tạo ra điện, nhưng công nghệ này đòi hỏi phải có không gian rất rộng
để có thể tạo ra một lượng năng lượng đáng kể.
Ngày nay, các tuabin gió được xây dựng rất cao (bằng với các tòa nhà chọc
trời), với đường kính cánh gió rất lớn. Những công cụ này giúp sản xuất ra một
lượng điện tương đối lớn dựa vào sức gió thổi.
Năng lượng từ gió được biết đến là nguồn năng lượng rẻ nhất ở một vài
quốc gia trên thế giới. Có thể kể đến các tiểu bang như California, Texas,
Oklahoma, Kansas và Iowa của Hoa Kỳ sở hữu những khu vực có tốc độ gió cao
giúp sản xuất ra lượng điện gió dồi dào. c. Thủy điện
Thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo đang dẫn đầu ở hầu hết các quốc gia,
với các nhà máy thủy điện quy mô rất lớn. Thủy điện phụ thuộc vào nước –
thường là dòng nước chảy với tốc độ nhanh ở các con sông hoặc nước chảy
nhanh từ trên cao xuống như thác, chúng ta sẽ tận dụng sức nước để thiết lập
các tuabin máy phát điện.
Tuy nhiên, trên thế giới rất nhiều nhà máy thủy điện lớn hay đập thủy điện
siêu lớn không được xem là nguồn năng lượng tái tạo. Bởi vì những con đập này
làm chuyển hướng và giảm dòng chảy tự nhiên, làm ảnh hưởng đến quần thể
động vật và con người sinh sống quanh dòng sông đó. Các nhà máy thủy điện
nhỏ (công suất lắp đặt dưới 40 MW) sẽ được quản lý cẩn thận hơn và không có
xu hướng tác động đến môi trường vì chúng chỉ chuyển hướng 1 phần của dòng nước chảy.
d. Năng lượng sinh khối
Năng lượng sinh khối là năng lượng có nguồn gốc từ các dạng vật chất sống,
chủ yếu là thực vật. Sinh khối có thể chuyển thành năng lượng theo ba cách:
chuyển đổi nhiệt, chuyển đổi hóa học, và chuyển đổi sinh hóa.
VD: Khi sinh khối bị đốt cháy, năng lượng được giải phóng dưới dạng nhiệt
và có thể tạo ra điện bằng tuabin hơi nước.
Sinh khối thường bị nhầm lẫn là nhiên liệu sạch, tái tạo và là nguồn thay thế
xanh hơn cho nhiên liệu hóa thạch khác trong việc sản xuất điện. Tuy nhiên, khoa
học gần đây cho thấy nhiều dạng sinh khối – đặc biệt là từ rừng lại tạo ra lượng
khí thải CO2 cao hơn nhiên liệu hóa thạch. Cũng có những hậu quả tiêu cực đối
với sự đa dạng sinh học. Tuy nhiên, một số dạng năng lượng sinh khối có lượng
thải CO2 thấp được lựa chọn trong một số trường hợp. lOMoAR cPSD| 58504431
Ví dụ: mùn cưa và phoi từ các xưởng cưa sẽ nhanh chóng phân hủy và giải
phóng carbon với lượng thấp.
e. Nhiên liệu hydrogen và pin nhiên liệu hydro
Đây cũng không phải là nguồn năng lượng tái tạo hoàn toàn nhưng rất dồi
dào và rất ít ô nhiễm môi trường khi sử dụng. Hydrogen có thể được đốt làm
nhiên liệu, điển hình là xe chạy bằng hơi nước. Ứng dụng nhiên liệu đốt (sạch)
này có thể giảm đáng kể ô nhiễm trong các thành phố. Hydrogen còn có thể được
sử dụng trong pin nhiên liệu hydro, tương tự như pin lưu trữ để cung cấp năng
lượng cho động cơ điện. Trong cả hai trường hợp sản xuất quan trọng của
hydrogen này đòi hỏi động cơ nhiệt có sức mạnh lớn, nên “được cái này, thì mất
cái khác” những nhà máy sản xuất động cơ chạy bằng hơi nước sẽ xả khí thải
nhiều hơn. Ngày nay, có một số phương pháp đầy hứa hẹn để sản xuất khí hydro
chẳng hạn như năng lượng mặt trời, chúng ta có thể hy vọng vào một bức tranh
tích cực hơn trong tương lai gần.
f. Năng lượng địa nhiệt
Năng lượng địa nhiệt là năng lượng được tách ra từ nhiệt trong tâm của Trái
Đất. Nguồn năng lượng này xuất phát từ sự hình thành ban đầu của hành tinh,
từ quá trình phân rã phóng xạ của các khoáng vật, và từ năng lượng mặt trời
được hấp thụ tại bề mặt Trái Đất. Ở một số khu vực nhất định, độ dốc địa nhiệt
(tăng dần nhiệt độ theo độ sâu) sẽ đủ cao để có thể khai thác và tạo ra điện. Công
nghệ để khai thác năng lượng này còn bị giới hạn ở một vài địa điểm trên Trái đất
cũng như còn tồn tại nhiều vấn đề kỹ thuật làm hạn chế tiện ích của nó. Một dạng
năng lượng địa nhiệt khác là năng lượng Trái đất, đây là kết quả của việc lưu trữ
nhiệt trên bề mặt Trái đất. Dạng năng lượng này chỉ có thể dùng để duy trì nhiệt
độ thoải mái trong các tòa nhà, chứ không thể sử dụng để sản xuất điện được.
g. Các dạng năng lượng tái tạo khác
Các nguồn năng lượng tái tạo nhỏ khác ●Năng lượng lò xo.
●Hiệu ứng điện động.
●Ăng-ten thu giao động điện từ.
1.3. Vai trò của năng lượng tái tạo
●Các nguồn tài nguyên khoáng sản theo ước tính sẽ cạn kiệt trong khoảng
80 -100 năm nữa. Năng lượng tái tạo chính là nguồn năng lượng thay thế.
●Năng lượng tái tạo không gây ô nhiễm môi trường, giúp làm giảm lượng
khí CO2 thải ra môi trường gây hiệu ứng nhà kính.
●Tiết kiệm ngân sách khắc phục thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên,
mang lại nhiều lợi ích sinh thái. lOMoAR cPSD| 58504431
●Phát triển kinh tế bền vững, đem lại nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
●Đây là nguồn năng lượng mà chúng ta có thể dành cho con cháu vì chúng
không bao giờ cạn kiệt.
●Giúp các quốc gia tự chủ về nguồn năng lượng, không tạo ra khủng hoảng
năng lượng, giảm mức sản xuất phóng xạ và sự lan rộng của vũ khí nguyên tử,
tránh xung đột gây ra chiến tranh.
II, Thực trạng sử dụng năng lượng tái tạo ở thủ đô Hà Nội 2.1. Thực trạng
Theo báo cáo của Sở Công Thương Hà Nội, trong phát triển năng lượng mới,
năng lượng tái tạo, về điện rác, thời gian qua các Sở, ngành Thành phố đã phối
hợp hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn hỗ trợ Công ty Cổ phần năng lượng môi trường
Thiên Ý Hà Nội hoàn thành dự án nhà máy điện rác Sóc Sơn. Đến nay, nhà máy
điện rác Sóc Sơn đã đóng điện hòa lưới 1 tổ máy phát điện công suất 30MW.
Ngoài ra, Công ty Cổ phần công nghệ môi trường xanh Seraphin đã khởi công xây
dựng dự án nhà máy điện rác Seraphin ngày 30/3/2022 và phấn đấu hoàn thành
trong thời gian sớm nhất.
Về điện mặt trời, các Sở, ngành Thành phố đã có nhiều văn bản hướng dẫn
UBND các quận, huyện, thị xã phát triển các dự án điện mặt trời, nhất là đối với
các yêu cầu kỹ thuật cần tuân thủ. Duy trì vận hành ổn định 2.102 hệ thống điện
mặt trời mái nhà với tổng công suất 33,82 MWp, sản lượng điện phát lên lưới
năm 2022 đạt 18,81 triệu kWh góp phần đảm bảo nguồn cung cấp điện và giảm
công suất phụ tải đinh vào giờ cao điểm cho lưới điện Thành phố.
Hiện, trên toàn quận Hai Bà Trưng đang khuyến khích phát triển mô hình
điện mặt trời mái nhà, nhất là lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà đối với sử
dụng nguồn vốn ngân sách để đầu tư xây mới, nâng cấp các trụ sở cơ quan, ban,
ngành, UBND phường, Công an phường, trạm y tế, trường học...Theo đại diện
lãnh đạo quận Hai Bà Trưng, dự án lắp đặt điện mặt trời mái nhà nhằm mục đích
tự dùng, giảm công suất phụ tải đỉnh và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng
cho các nhà xưởng của các doanh nghiệp; khuyến khích sử dụng sản phẩm đèn
chiếu sáng có dùng điện năng lượng mặt trời trong chiếu sáng công cộng. Để
triển khai tốt việc này, Phó Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng Phan Văn Phúc đề
nghị các phòng, ban, đơn vị, UBND phường thuộc quận đẩy mạnh tuyên truyền
nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích, sự cần thiết phát triển các dự án
và điện mặt trời trên địa bàn; phối hợp và thực hiện lồng ghép nâng cao nhận lOMoAR cPSD| 58504431
thức cộng đồng về lợi ích, sự cần thiết phát triển các dự án điện rác và điện mặt
trời trên địa bàn với nội dung tuyên truyền về quản lý nhu cầu điện, tiết kiệm
điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả do cơ quan chức năng, các đơn
vị điện lực chủ trì thực hiện…
Trước đó, TP. Hà Nội cũng đã ban hành kế hoạch về việc phát triển năng
lượng tái tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2023, với mục tiêu là phát triển
năng lượng mới, năng lượng tái tạo góp phần đáp ứng nhu cầu cung cấp điện
bảo đảm an ninh năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường.
Đồng thời, tiếp tục khuyến khích phát triển điện mặt trời mái nhà, điện mặt trời
trên mặt nước, thí điểm mô hình sử dụng điện mặt trời phù hợp. Nghiên cứu, đề
xuất chính sách hỗ trợ và cơ chế nhằm tạo đột phá cho phát triển điện mặt trời
phù hợp điều kiện đặc thù của Thủ đô Hà Nội. Tiếp tục khuyến khích và đẩy nhanh
các dự án phát triển nguồn điện từ xử lý chất thải.
Cụ thể, năm 2023, toàn Thành phố phấn đấu phát triển năng lượng tái tạo
tăng thêm khoảng 37MW từ điện rác (đưa dự án nhà máy điện rác Seraphin vào
vận hành); khuyến khích phát triển mô hình điện mặt trời mái nhà, đặc biệt là
việc lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà đối với các dự án sử dụng nguồn vốn
ngân sách để đầu tư xây dựng mới, nâng cấp cải tạo các trụ sở cơ quan ban,
ngành, UBND các cấp, công an các phường, các trạm y tế, trường học….
Dự án điện mặt trời lắp đặt trên mái nhà nhằm mục đích tự dùng, giảm công
suất phụ tải đỉnh và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng cho các nhà xưởng
của doanh nghiệp tại các khu, cụm công nghiệp; khuyến khích sử dụng các sản
phẩm đèn chiếu sáng có sử dụng điện năng lượng mặt trời trong chiếu sáng công cộng.
Quyền Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội cho hay, thời gian tới, Sở sẽ tiếp
tục kế thừa và phát huy kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển điện lực giai
đoạn 2021-2025 trong các lĩnh vực như đầu tư xây dựng hạ tầng hệ thống điện,
an toàn điện, quản lý điện nông thôn, phát triển năng lượng mới và năng lượng
tái tạo, quan lý nhu cầu điện, tiết kiệm điện.
2.2. Khó khăn, thách thức
Phát triển năng lượng tái tạo còn nhiều thách thức không chỉ ở riêng địa bàn
Thành phố Hà Nội mà đây là vấn đề bao trùm cho cả Việt Nam
Xu thế phát triển hiện nay của các nền kinh tế trên thế giới là thúc đẩy quá
trình chuyển đổi xanh, sạch, giảm phát thải nhằm hướng đến mục tiêu trung hòa
carbon, và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Hiện nay, đã có nhiều cơ lOMoAR cPSD| 58504431
chế chính sách khuyến khích chuyển dịch năng lượng bền vững phù hợp với định
hướng chiến lược của Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị và các cam kết của Chính
phủ về giảm phát thải ròng bằng 0 tại COP26.
Ông Bùi Quốc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho
biết, việc đầu tư các dự án năng lượng tái tạo có nhu cầu về vốn lớn, rủi ro cao
do công suất và sản lượng phụ thuộc thời tiết, khí hậu, khả năng thu hồi vốn lâu
do suất đầu tư và giá điện cao hơn nguồn năng lượng truyền thống.
"Thách thức lớn nhất đối với phát triển năng lượng tái tạo nằm ở vốn đầu
tư và khả năng thu xếp vốn của chủ đầu tư, trong đó rào cản tài chính là yếu tố
cản trở việc thực hiện một dự án kinh tế do thiếu tiếp cận với nguồn tài chính phù hợp"
Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cũng liệt kê một loạt các
khó khăn khác như chưa có những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ
thống điện mặt trời, điện gió; Năng lực và trình độ công nghệ trong nước còn
hạn chế, thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ sửa chữa, bảo dưỡng,
thay thế thiết bị. Tỷ lệ nội địa hóa công nghệ ngành năng lượng thấp, thiếu cơ
chế hỗ trợ và thúc đẩy phát triển.
Thêm nữa, các chính sách, quy định khuyến khích phát triển thời gian qua
chỉ được áp dụng trong thời gian nhất định để hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào
điện gió, điện mặt trời. Mặc dù việc bổ sung quy hoạch nguồn điện được tính
toán đồng bộ quy hoạch lưới, nhưng tiến độ triển khai nhiều công trình lưới điện
trong quy hoạch được phê duyệt còn chậm, dẫn đến quá tải cục bộ tại một số khu vực…
Ngoài ra, ông Bùi Quốc Hùng cho biết Việt Nam có lợi thế về hạ tầng để hình
thành các trung tâm nhiệt điện sử dụng LNG quy mô lớn. Hiện các địa phương
đã đề xuất phát triển khoảng 140.000 MW với khoảng 30 vị trí đề xuất trên cả
nước, tập trung tại miền Trung và miền Nam. Việc đầu tư cho điện khí LNG sẽ
giúp ngành điện phát triển xanh hơn và hạn chế sự phụ thuộc vào các nhà máy
nhiệt điện than vốn chiếm tỷ lệ khá cao. Do đó, Việt Nam cũng đang xây dựng cơ
chế, chính sách khuyến khích phát triển các dự án LNG.
Tuy nhiên, ông Hùng cho rằng đây là một lĩnh vực mới và có nhiều thách
thức khi Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong phát triển các chuỗi dự án khí điện,
cũng như xây dựng, vận hành các dự án kho cảng LNG và tham gia vào thị trường
LNG trên thế giới. Nhiệt điện LNG là một nguồn điện mới tại Việt Nam và chưa
có dự án được vận hành. Do vậy, khó khăn lớn nhất là lựa chọn nhà đầu tư có đủ
kinh nghiệm, năng lực. Ngoài ra, Việt Nam phải nhập khẩu hoàn toàn loại nhiên lOMoAR cPSD| 58504431
liệu này nên trong trường hợp địa chính trị thế giới thay đổi, giá LNG có thể sẽ
biến động thất thường.
“Loại khí này chiếm 70-80% giá thành điện năng sản xuất nên việc xây dựng
cơ chế giá phù hợp để thích nghi với những thay đổi giá nhiên liệu nhưng không
tác động quá lớn tới giá bán lẻ điện là thách thức rất lớn”, ông Bùi Quốc Hùng cho biết.
III, Các chính sách được áp dụng
3.1. Chính sách của Thành phố Hà Nội
Thực hiện Kế hoạch số 206-KH/TU ngày 19/9/2020 của Thành ủy Hà Nội về
việc triển khai thực hiện Nghị Quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính
trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kế hoạch số 225/KH-UBND ngày
18/11/2020 của UBND thành phố Hà Nội về việc phát triển năng lượng tái tạo
trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2021-2025.
Về xây dựng cơ chế chính sách ●
Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với cấp thẩm quyền cho phép thành
phố Hà Nội nghiên cứu, áp dụng cơ chế đặc thù nhằm tháo gỡ các khó khăn
vướng mắc trong phát triển năng lượng tái tạo hiện nay, tiếp tục thúc đẩy phát
triển các hệ thống điện năng lượng mặt trời mái nhà trên địa bàn thành phố Hà Nội. ●
Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng quy định việc lắp đặt hệ thống điện
năng lượng mặt trời mái nhà đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách để
đầu tư xây dựng mới, nâng cấp cải tạo các trụ sở cơ quan ban, ngành, UBND các
cấp, Công an các phường, các trạm y tế, trường học... để thúc đẩy phát triển năng
lượng tái tạo trên địa bàn Thành phố.
Về khoa học và công nghệ ●
Lựa chọn công nghệ xử lý rác có thu hồi năng lượng hiện đại, hiệu
suất cao để phát điện tại các dự án đầu tư xây dựng khu xử lý rác thải sinh hoạt
trên địa bàn Thành phố. ●
Lựa chọn công nghệ tiên tiến, hiện đại đối với các hệ thống ĐMTMN
(tấm pin mặt trời có hiệu suất cao, thân thiện môi trường; bộ biến tần Inverter
đảm bảo chất lượng điện năng nối lưới), kết hợp với hệ thống tích trữ năng lượng. ●
Thực hiện đề tài nghiên cứu đánh giá tác động và đề xuất giải pháp
quản lý hệ thống điện mặt trời mái nhà trên địa bàn thành phố Hà Nội. lOMoAR cPSD| 58504431 ●
Nghiên cứu đề xuất sử dụng nguồn năng lượng xanh, sạch trong giáo
dục, nông nghiệp; sử dụng năng lượng gió phù hợp với khí hậu Thành phố Hà Nội.
Về hợp tác quốc tế ●
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực hỗ trợ từ các tổ chức
quốc tế để đầu tư, phát triển các dự án điện mặt trời, điện rác trên địa bàn Thành phố. ●
Tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực phát triển năng lượng tái tạo, thông qua các
hình thức đầu tư trực tiếp, hội thảo khoa học, nghiên cứu xây dựng phòng thử nghiệm hợp chuẩn. ●
Khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước
ngoài hỗ trợ nguồn lực, đảm bảo thực hiện xã hội hóa tối đa với các dự án điện
mặt trời, điện rác trên địa bàn Thành phố.
Về điện mặt trời, các Sở, ngành Thành phố đã có nhiều văn bản hướng dẫn
UBND các quận, huyện, thị xã phát triển các dự án điện mặt trời, nhất là đối với
các yêu cầu kỹ thuật cần tuân thủ. Duy trì vận hành ổn định 2.102 hệ thống điện
mặt trời mái nhà với tổng công suất 33,82 MWp, sản lượng điện phát lên lưới
năm 2022 đạt 18,81 triệu kWh góp phần đảm bảo nguồn cung cấp điện và giảm
công suất phụ tải đinh vào giờ cao điểm cho lưới điện Thành phố.
Hiện, trên toàn quận Hai Bà Trưng đang khuyến khích phát triển mô hình
điện mặt trời mái nhà, nhất là lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà đối với sử
dụng nguồn vốn ngân sách để đầu tư xây mới, nâng cấp các trụ sở cơ quan, ban,
ngành, UBND phường, Công an phường, trạm y tế, trường học…
TP. Hà Nội cũng đã ban hành kế hoạch về việc phát triển năng lượng tái tạo
trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2023, với mục tiêu là phát triển năng lượng
mới, năng lượng tái tạo góp phần đáp ứng nhu cầu cung cấp điện bảo đảm an
ninh năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường. ●
Thí điểm mô hình sử dụng điện mặt trời phù hợp với đặc thù của Thủ đô Hà Nội. ●
Hỗ trợ chính sách và cơ chế để thúc đẩy phát triển điện mặt trời. ●
Phát triển thêm 37MW từ điện rác, với dự án nhà máy điện rác Seraphin. ●
Khuyến khích lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà cho các dự án
sử dụng nguồn vốn ngân sách. lOMoAR cPSD| 58504431 ●
Hỗ trợ việc lắp đặt điện mặt trời trên mái nhà cho các doanh nghiệp và công cộng. ●
Khuyến khích sử dụng đèn chiếu sáng có sử dụng điện năng lượng
mặt trời trong chiếu sáng công cộng. ●
Đầu tư vào hạ tầng hệ thống điện, an toàn điện, quản lý điện nông
thôn và tiết kiệm điện.
Công tác tuyên truyền, đào tạo nâng cao năng lực và nhận thức ●
Tuyên truyền trên báo đài Trung ương, Thành phố và các hình thức
lồng ghép tại các sự kiện, các địa phương,... nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng
về lợi ích, sự cần thiết về phát triển các dự án điện rác và điện mặt trời trên địa bàn Thành phố. ●
Xây dựng cẩm nang điện tử tuyên truyền và đăng trên các báo, tạp
chí, kênh điện tử,... nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích, sự cần thiết
về phát triển các dự án điện rác và điện mặt trời trên địa bàn thành phố Hà Nội. ●
Phối hợp và thực hiện lồng ghép nâng cao nhận thức của cộng
đồng về lợi ích, sự cần thiết phát triển các dự án điện rác và điện mặt trời trên
địa bàn Thành phố với nội dung tuyên truyền về quản lý nhu cầu điện, tiết kiệm
điện, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả do cơ quan chức năng và các đơn
vị điện lực chủ trì thực hiện.
3.2. Chính sách của nhà nước ●
Hình thành thị trường về năng lượng tái tạo:
- Ưu tiên đầu tư và sử dụng năng lượng tái tạo trong phát triển ngànhnăng
lượng, làm cơ sở cho xây dựng, thúc đẩy phát triển thị trường năng lượng tái tạo.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân với các hình thức sở hữu khác
nhautham gia vào việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, Nhà nước bảo
hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo. ●
Chính sách giá điện và bảo đảm đầu tư:
- Bộ Công Thương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giá
điệnáp dụng cho các dự án sản xuất điện sử dụng năng lượng tái tạo nối lưới. Giá
bán điện được phù hợp với các điều kiện của các khu vực khác nhau và các đặc
điểm của công nghệ phát điện từ các nguồn năng lượng tái tạo khác nhau, theo
nguyên tắc giúp thúc đẩy sự phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, bảo đảm
nhà đầu tư thu hồi được chi phí và có lợi nhuận hợp lý; giá bán điện được điều lOMoAR cPSD| 58504431
chỉnh kịp thời, phù hợp với sự phát triển của các công nghệ sử dụng nguồn năng lượng tái tạo..
- Các đơn vị điện lực có trách nhiệm mua toàn bộ điện năng được sản xuấttừ
việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo nối lưới thuộc địa bàn do đơn vị mình
quản lý. Việc mua bán điện được thực hiện thông qua hợp đồng mua bán điện
mẫu do Bộ Công Thương quy định.
Chi phí mua điện của các dự án phát điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo
hạch toán vào giá thành điện của đơn vị điện lực và được tính toán và đưa đầy
đủ trong cơ cấu giá bán lẻ điện và thu hồi qua doanh thu bán điện.
- Các dự án điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện đượcưu
tiên đấu nối với hệ thống điện quốc gia. Chi phí đấu nối và các chi phí khác có
liên quan phát sinh hợp lý của các đơn vị lưới điện (đơn vị truyền tải điện và phân
phối điện) do mua điện được sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo được tính
trong chi phí truyền tải, phân phối điện của đơn vị lưới điện.
- Đối với hệ thống điện độc lập sử dụng nguồn điện độc lập sản xuất điệntừ
nguồn năng lượng tái tạo, chủ đầu tư xây dựng đề án giá điện và xác định tổng
mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trình Bộ Công Thương thẩm định, báo cáo
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tổng mức hỗ trợ được trích từ Quỹ phát triển năng lượng bền vững.
● Các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực điện lực có trách nhiệm
đóng góp vào việc phát triển ngành năng lượng tái tạo của đất nước.
Đơn vị phát điện và đơn vị phân phối điện cần đáp ứng các tiêu chuẩn tỷ lệ
năng lượng tái tạo (Renewable Portfolio Standard - RPS):
- Các đơn vị phát điện có công suất lắp đặt các loại nguồn điện lớn hơn1.000
MW (không kể các nguồn điện đầu tư theo hình thức BOT), tỷ lệ điện sản xuất từ
việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo (không kể các nguồn thủy điện có công
suất lớn hơn 30 MW): Đến năm 2020 không thấp hơn 3%; năm 2030 không thấp
hơn 10% và không thấp hơn 20% vào năm 2050.
- Các đơn vị phân phối điện có tỷ lệ điện năng sản xuất, điện năng muađược
sản xuất từ các nguồn điện sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và khách hàng
sử dụng điện cuối cùng tự sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo (không kể các
nguồn thủy điện có công suất lớn hơn 30 MW): Đến năm 2020 không thấp hơn
5%; năm 2030 không thấp hơn 10% và không thấp hơn 20% vào năm 2050.
- Bộ Công Thương quy định mức tỷ lệ tối thiểu các nguồn năng lượng táitạo
của các đơn vị sản xuất điện, phân phối điện hàng năm. ●
Cơ chế thanh toán bù trừ (Net Metering): lOMoAR cPSD| 58504431
- Các khách hàng sử dụng điện cuối cùng đang mua điện từ hệ thống
điệnquốc gia, thực hiện phát triển nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo với
mục đích chính là tự đảm bảo cho nhu cầu điện của mình, được áp dụng cơ chế thanh toán bù trừ.
- Các đơn vị phân phối điện có trách nhiệm ký hợp đồng mua bán điện,theo
nguyên tắc thanh toán bù trừ với với khách hàng sử dụng điện cuối cùng có lắp
đặt nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo.
- Bộ Công Thương quy định quy trình, thủ tục đấu nối đơn giản để
khuyếnkhích khách hàng sử dụng điện cuối cùng tham gia đầu tư; quy định
phương pháp định giá, các thỏa thuận thương mại cần thiết khác để đảm bảo
hài hòa lợi ích của khách hàng sử dụng điện cuối cùng và đơn vị phân phối, kinh doanh điện.
- Sản lượng điện sản xuất từ nguồn điện sử dụng nguồn năng lượng tái
tạocủa các khách hàng sử dụng điện cuối cùng được tính vào tiêu chuẩn tỷ lệ
năng lượng tái tạo (RPS) của đơn vị phân phối, kinh doanh điện.
● Chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo:
- Các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo được hưởngcác
ưu đãi về tín dụng đầu tư theo các quy định pháp luật hiện hành về tín dụng đầu
tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. - Các ưu đãi về thuế:
+ Về thuế nhập khẩu: Các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái
tạo được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định
cho dự án; hàng hóa nhập khẩu là nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm trong
nước chưa sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất của dự án theo quy
định của pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
+ Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo được
thực hiện như đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp
luật hiện hành về thuế.
- Ưu đãi về đất đai: Các dự án phát triển và sử dụng nguồn năng lượng táitạo
được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của pháp luật
hiện hành áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư.
- Ưu tiên cho các nghiên cứu liên quan đến phát triển và sử dụng tàinguyên
năng lượng tái tạo trong lĩnh vực phát triển khoa học và công nghệ và phát triển
công nghiệp công nghệ cao; bố trí kinh phí từ các quỹ để hỗ trợ các nghiên cứu
khoa học và công nghệ tại các dự án thí điểm, dự án công nghiệp hóa cho phát lOMoAR cPSD| 58504431
triển và sử dụng năng lượng tái tạo, thúc đẩy cải tiến công nghệ liên quan đến sự
phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, giảm chi phí sản xuất của các sản phẩm
năng lượng tái tạo và nâng cao chất lượng sản phẩm. ●
Chính sách bảo vệ môi trường:
Tổ chức, cá nhân sử dụng nhiên liệu hóa thạch cho mục đích năng lượng
phải đóng phí môi trường tương ứng với khối lượng nhiên liệu được sử dụng.
Một phần phí môi trường được sử dụng cho khuyến khích phát triển và sử dụng
nguồn năng lượng tái tạo thông qua Quỹ phát triển năng lượng bền vững.
IV, Bài học kinh nghiệm, đề xuất kiến nghị
Trung Quốc đã bắt đầu triển khai phát triển năng lượng tái tạo từ những
năm 1949. Trong 50 năm đầu, từ việc phát triển thủy điện với hàm lượng kỹ thuật
chưa cao, Trung Quốc dần mở rộng phạm vi và đẩy mạnh hợp tác quốc tế hay bắt
đầu ban hành chính sách tổng thể phát triển năng lượng tái tạo. Xuất phát từ nhu
cầu cấp thiết do ô nhiễm môi trường và xu hướng phát triển bền vững trên thế
giới, Trung Quốc quyết định cải cách ngành năng lượng tái tạo của nước họ.
Quá trình phát triển năng lượng tái tạo của Trung Quốc
Giai đoạn 2005-2015: Xây dựng nền móng
Năm 2005, “Luật Năng lượng tái tạo của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” ra
đời. Sau khi được sửa đổi vào năm 2009, bộ luật này được coi là một bước ngoặt
của việc phát triển năng lượng tái tạo tại Trung Quốc. Kể từ đó đến năm 2015,
phía Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra những mục tiêu về tăng tỷ lệ năng lượng
tái tạo từ 11% trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đến 15% trong Kế hoạch lần thứ
12 cùng với các hướng dẫn phát triển cho ngành công nghiệp năng lượng tái tạo
trong đó có các biện pháp chính đáng chú ý sau:
Thứ nhất, về việc sản xuất năng lượng tái tạo, Nhà nước Trung Quốc xây
dựng một quy trình khảo sát tài nguyên và quy hoạch phát triển chặt chẽ giữa
các cấp bao gồm: Cục Năng lượng của Hội đồng Nhà nước, các cơ quan năng
lượng của Hội đồng Nhà nước, các cơ quan năng lượng của địa phương và cơ
quan địa phương đồng cấp. Điều này được quy định rõ trong “Luật Năng lượng
tái tạo Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
Thứ hai, về khuyến khích phát triển công nghệ liên quan, Nhà nước dẫn dắt
và khuyến khích phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo thông
qua việc công bố các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về nối lưới năng lượng tái tạo
cho các loại năng lượng như điện mặt trời, điện gió, thủy điện vào năm 2005 và
2006 bao gồm việc thiết kế, lắp đặt, vận hành và bảo trì để thống nhất kỹ thuật lOMoAR cPSD| 58504431
trên cả nước. Bên cạnh đó, Nhà nước liệt kê các nghiên cứu khoa học công nghệ
phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo là lĩnh vực ưu tiên trong nghiên cứu
khoa học đồng thời bố trí quỹ hỗ trợ việc nghiên cứu. Cụ thể, trong cơ chế chia
sẻ chi phí được quy định tại “Luật Năng lượng tái tạo Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa”, Quỹ đặc biệt phát triển năng lượng tái tạo được thành lập và có mục đích
chi trả cho các hoạt động như khoa học và nghiên cứu công nghệ về năng lượng tái tạo.
Thứ ba, về việc tiêu thụ điện được tạo bởi năng lượng tái tạo, Nhà nước đưa
ra chính sách mua và nối lưới bắt buộc yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh điện
lưới (khoảng 200 doanh nghiệp năm 2005 đến năm 2015 là 180 doanh nghiệp)
được giao trách nhiệm ký thỏa thuận nối lưới và mua lại toàn bộ năng lượng tái
tạo trong phạm vi vùng phủ lưới điện của mình từ các doanh nghiệp sản xuất.
Điều này đã giải quyết được bài toán tiêu thụ năng lượng tái tạo một cách triệt
để và đem đến hiệu quả kinh tế cao.
Thứ tư, về giá cả năng lượng tái tạo, theo cơ chế chia sẻ chi phí quy định,
phụ phí bán điện sẽ sử dụng để trả cho giá điện. Bên cạnh đó, Nhà nước thành
lập Quỹ Phát triển năng lượng tái tạo, cung cấp các khoản vay ưu đãi thấp hơn
6% từ Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và ban hành các ưu đãi thuế như miễn,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho việc phát triển năng lượng tái tạo để đảm
bảo giá điện năng lượng tái tạo không cao hơn giá điện nối lưới.
Với những chính sách phát triển nổi bật và sự đầu tư mạnh tay vào phát
triển năng lượng tái tạo, Trung Quốc đã gặt hái được những thành công to lớn.
Lượng sử dụng năng lượng tái tạo đạt 512,48 triệu tce (tonne of coal equivalent
– 1tce tương đương năng lượng giải phóng do đốt 1 tấn than) vào năm 2015-
vượt 7,2% mục tiêu được đặt ra trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (15%). Tuy
nhiên trong giai đoạn này việc phát triển năng lượng tái tạo tại Trung Quốc vẫn
tồn tại một vài hạn chế như cơ chế vận hành nguồn điện hiện tại chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển năng lượng tái tạo quy mô lớn, giá năng lượng tái tạo
phụ thuộc tương đối nhiều vào Nhà nước, mức tiêu thụ năng lượng của Trung
Quốc vẫn là 60% từ than – mức tiêu thụ rất cao chiếm đến khoảng 50% tổng mức
tiêu thụ của thế giới năm 2015.
Giai đoạn 2016-2020: Phát triển, đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo
Sau thời kỳ xây dựng nền móng phát triển, Kế hoạch 5 năm thứ 13 ra đời với
một vài điểm nổi bật trong chính sách phát triển năng lượng tái tạo có thể kể đến:
Thứ nhất là tích cực phát triển bền vững năng lượng điện gió, mặt trời, thủy
điện,…thông qua các dự án như dự án “Mười nghìn nhà máy điện mặt trời” với lOMoAR cPSD| 58504431
mục tiêu xây dựng 10.000 nhà máy điện mặt trời trên toàn quốc với tổng công
suất 100 GW, dự án “Ba tỷ mặt trời” với mục tiêu lắp đặt 3 tỷ tấm pin mặt trời
trên toàn quốc, hay dự án “Mười nghìn tua-bin gió” với mục tiêu lắp đặt 10.000
tua-bin gió trên toàn quốc với tổng công suất 20 GW. Các dự án này nhằm thúc
đẩy việc sử dụng năng lượng điện tái tạo cùng hướng tới mục tiêu giảm tỷ lệ tiêu
thụ năng lượng than và năng lượng hóa thạch trong năm 2020.
Thứ hai là tăng cường hợp tác quốc tế trong ngành năng lượng tái tạo. Điều
này thể hiện qua việc Trung Quốc tham gia các hiệp định hợp tác năng lượng như
hiệp định hợp tác năng lượng tái tạo giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ (2016), hiệp định
hợp tác năng lượng tái tạo giữa Trung Quốc và Đức (2017), hiệp định hợp tác
năng lượng tái tạo giữa Trung Quốc và Nhật Bản (2018) với mục tiêu thúc đẩy
hợp tác giữa nước này và các quốc gia trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng tham gia tích cực vào các thỏa thuận quốc tế về biến
đổi khí hậu như Hiệp định Paris, tăng cường thúc đẩy các quốc gia trong dự án
liên quan đến Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) sử dụng năng lượng tái tạo
như đầu tư vào dự án điện mặt trời 10 GW ở Pakistan hay dự án điện gió ngoài
khơi 2 GW ở Indonesia. Điều này chứng tỏ sự quyết tâm của Trung Quốc trong
việc thực hiện mục tiêu phát triển năng lượng tái tạo giảm thiểu tác động của
biến đổi khí hậu và đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng bền vững cho tương lai.
Thứ ba là tiếp tục phát huy và củng cố các chính sách trợ giá khuyến khích
phát triển năng lượng tái tạo. Cụ thể, Trung Quốc tiếp tục đưa ra chính sách giá
điện ưu đãi, trong đó vào giai đoạn 2016-2020, giá điện ưu đãi cho điện mặt trời
trên đất liền được giảm dần từ 1,18 nhân dân tệ/kWh xuống còn 0,43 nhân dân
tệ/kWh, giá điện ưu đãi cho điện gió trên đất liền được giảm từ 0,58 nhân dân
tệ/kWh xuống còn 0,38 nhân dân tệ/kWh. Chính sách tín dụng thuế cũng là một
chính sách hiệu quả trong giai đoạn này. Mức tín dụng thuế cho điện mặt trời
giảm từ 0,4 nhân dân tệ/kWh xuống còn 0,2 nhân dân tệ/kWh, mức tín dụng
thuế cho điện gió giảm dần từ 0,2 nhân dân tệ/kWh xuống còn 0,1 nhân dân tệ/kWh…
Thứ tư là tiếp tục thúc đẩy nhiều sáng chế và phát minh trong lĩnh vực năng
lượng tái tạo bằng việc tiếp tục đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và phát triển.
Trong giai đoạn 2016-2020, Trung Quốc đã nộp tổng cộng 2,3 triệu đơn đăng ký
sáng chế và phát minh về năng lượng tái tạo, trong đó, có 1,1 triệu đơn đã được
cấp bằng sáng chế. Một số phát minh nổi bật có thể kể đến công nghệ pin mặt
trời PERC (năm 2018) với hiệu suất đạt khoảng 24,5%, công nghệ điện gió
offshore (năm 2019) với tuabin gió có công suất lớn hơn 12MW… lOMoAR cPSD| 58504431
Với những mục tiêu và các chính sách nổi bật, cùng với sự đầu tư mạnh tay
từ phía Chính phủ (năm 2017, Trung Quốc chiếm gần một nửa tổng đầu tư toàn
cầu vào năng lượng tái tạo), tổng công suất lắp đặt năng lượng tái tạo của Trung
Quốc đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2016-2020, từ 530 GW lên 1.100 GW. Theo
NEA, năng lượng tái tạo của Trung Quốc hiện chiếm 43,5% tổng công suất đặt,
trong đó, công suất của các nhà máy thuỷ điện, điện gió, điện mặt trời và điện
sinh khối lần lượt là 385 GW, 299 GW, 282 GW và 35,34 GW, đứng đầu thế giới.
Trung Quốc đã tăng thêm 71,67 GW công suất điện gió vào năm 2020, mức cao
nhất từ trước đến nay và gần gấp 3 lần mức của năm 2019. Đặc biệt, Trung Quốc
đã thực hiện được hầu hết các mục tiêu đã đề ra với hiệu quả lên đến 80%.
Tóm lại, sau kế hoạch 5 năm lần thứ 13, Trung Quốc đã trở thành một trong
những quốc gia gia hàng đầu thế giới về sản phẩm điện mặt trời và gió. Dù các
mục tiêu trong bản kế hoạch 5 năm lần thứ 13 không hoàn toàn mới nhưng chú
trọng hơn việc siết chặt cắt giảm tỷ trọng của than trong cơ cấu năng lượng của
đất nước và tăng mục tiêu cho lĩnh vực năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, Trung Quốc
vẫn đối mặt với các vấn đề liên quan đến quản lý biến động trong sản phẩm sản
xuất lượng gió và nắng và môi trường quản lý.
Giai đoạn 2021-2025: Kế thừa và đẩy mạnh công nghệ cao – Đảm bảo an
ninh năng lượng
Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 về năng lượng tái tạo của Trung Quốc là một
bước tiến quan trọng trong việc thực hiện cam kết của Trung Quốc về giảm phát
thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn này, Trung Quốc đưa ra
mục tiêu: ít nhất một nửa nhu cầu điện tăng lên sẽ được cung cấp bởi năng lượng
tái tạo. Kế hoạch mới hướng tới công suất lắp đặt năng lượng tái tạo đạt 1,8 TW
vào năm 2025, tăng gần 50% so với năm 2021, năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng
35% tổng sản lượng điện của Trung Quốc vào năm 2025, tăng từ 26,4% vào năm 2021.
Điểm mới trong kế hoạch 5 năm lần thứ 14 là đã bỏ đi các mục tiêu về tăng
công suất phát điện bắt buộc ở các khu vực nông thôn và miền núi. Trước đây,
các địa phương ở Trung Quốc có quy định bắt buộc các doanh nghiệp điện lực
phải tăng công suất phát điện hàng năm. Tuy nhiên, quy định này đã bị bỏ đi do
lo ngại về tình hình thực tế tác động môi trường và kinh tế. Ngoài ra, kế hoạch 5
năm lần thứ 14 cũng đã điều chỉnh một số mục tiêu khác, bao gồm: Điều chỉnh
mục tiêu về công suất lắp đặt điện mặt trời. từ 700 GW xuống 600 GW do lo ngại
về khả năng tiêu thụ và điều chỉnh mục tiêu về công suất lắp đặt điện gió từ 450
GW xuống 350 GW do lo ngại về tác động môi trường. lOMoAR cPSD| 58504431
Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, kế hoạch 5 năm lần thứ 14 đã đưa
ra một số các chính sách và biện pháp nổi bật:
Thứ nhất là phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng. Chính phủ Trung Quốc
đã đầu tư khoảng 200 tỷ nhân dân tệ (31,2 tỷ USD) vào nghiên cứu công nghệ
lưu trữ năng lượng trong giai đoạn 2021-2025. Tính đến năm 2022, Trung Quốc
đã phát triển thành công hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin lithiumion có
dung lượng 100 GWh tích hợp với hệ thống lưới điện thông minh, trở thành nhà
sản xuất pin lithium-ion lớn nhất thế giới, với năng lực sản xuất hàng năm quy
theo dung lượng lên tới 1.400 GWh, vượt qua Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Thứ hai là tích hợp thông tin và năng lượng. Với mục tiêu công suất lắp đặt
tích hợp thông tin và năng lượng đạt 5 GW vào năm 2025, Trung Quốc đang thúc
đẩy tích hợp thông tin và năng lượng để tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng và
quản lý lưới điện thông minh hơn qua “Hệ thống quản lý lưới điện thông minh
dựa trên đám mây” do Tập đoàn Điện lực Trung Quốc (CGN) thực hiện. Dự án
này sử dụng hệ thống điện toán đám mây để thu thập và phân tích dữ liệu từ các
thiết bị đo lường trong lưới điện, giúp CGN có thể giám sát và điều khiển lưới
điện một cách hiệu quả hơn.
Nhờ quá trình không ngừng cải thiện quản lý qua các chính sách cụ thể, giám
sát và đầu tư được kiểm soát nghiêm ngặt, Trung Quốc đã trở thành nước đi đầu
trong ngành điện năng lượng tái tạo. Kế hoạch này sẽ mang lại cho hệ thống điện
sự linh hoạt và khả năng phục hồi cần thiết hơn để sử dụng nhiều năng lượng tái
tạo hơn. Nó cũng chấm dứt các giới hạn trên về mức tiêu thụ than trên mỗi
kilowatt giờ – chuẩn bị cho việc cải tiến các máy phát điện chạy bằng than để
chúng có thể cung cấp các dịch vụ điều tiết cao điểm cho năng lượng tái tạo.
Kết quả của các chính sách chuyển đổi năng lượng của Trung Quốc
Nhờ vào những chính sách chuyển đổi năng lượng quyết liệt của Chính phủ
Trung Quốc, nước này đã và đang đạt được những bước tiến lớn về năng lượng
tái tạo. Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về đầu tư vào lĩnh vực này với 546 triệu
USD trong năm 2022. Năng lượng tái tạo của Trung Quốc đáp ứng được 47,3%
nhu cầu trong nước vào cuối năm 2022. Tỷ lệ này tăng 2,5 điểm phần trăm so với
năm trước đó. Cụ thể, sản lượng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo của Trung
Quốc là 8.694 TWh, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Các nguồn năng lượng nhiên liệu không hóa thạch như năng lượng hạt nhân,
năng lượng hydro… chiếm 50,9% tổng công suất lắp đặt của cả Trung Quốc, đánh
dấu việc hoàn thành sớm mục tiêu chính phủ đề xuất vào năm 2021, theo đó
công suất tái tạo được lên kế hoạch vượt quá công suất nhiên liệu hóa thạch vào năm 2025. lOMoAR cPSD| 58504431
Trung Quốc cũng đã đạt được những bước tiến lớn về khai thác năng lượng
gió: tổng công suất trên đất liền và ngoài khơi của nước này hiện là 310 GW, gấp
đôi năm 2017. Một số nhà máy điện mặt trời và điện gió lớn nhất thế giới tại
Trung Quốc có thể kể đến như nhà máy điện mặt trời Longyangxia ở tỉnh Thanh
Hải có công suất 850 MW, và nhà máy điện gió Jiuquan ở tỉnh Giang Tô có công
suất 1.500 MW. Với các dự án mới ở Nội Mông, Tân Cương, Cam Túc và dọc theo
các khu vực ven biển, Trung Quốc đang chuẩn bị bổ sung thêm 371 GW nữa trước
năm 2025, tăng gần gấp đôi năng lượng gió trên toàn thế giới.
Đánh giá quá trình phát triển năng lượng tái tạo của Trung Quốc
Thông qua quá trình phát triển năng lượng tái tạo của Trung Quốc, ta có thể
thấy, Trung Quốc đã lên kế hoạch rất chi tiết cho từng giai đoạn, tạo được nền
móng vững chắc và rất nỗ lực thực hiện việc chuyển đổi năng lượng của nước
mình. Các mục tiêu về công suất, tỉ trọng cũng như kế hoạch phân công phát triển
của từng bộ ngành, các cấp được quy định cụ thể. Quy mô đầu tư vốn của Trung
Quốc cho việc chuyển đổi năng lượng cũng rất lớn trong đó nguồn vốn đầu tư
chủ yếu là từ ngân sách nhà nước và vốn vay của các tổ chức tài chính quốc
doanh. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn cung cấp những cơ chế hỗ trợ vốn ưu đãi
cho các doanh nghiệp, hợp tác xã năng lượng tái tạo qua các chính sách tín dụng
ưu đãi. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi năng lượng của Trung Quốc vẫn tồn tại một vài yếu điểm:
Thứ nhất, chủ yếu vốn đầu tư vẫn phụ thuộc nhiều vào Nhà nước. Tuy là một
nước nhiều vốn đầu tư nhưng điều này vẫn đặt cho Chính phủ Trung Quốc gánh
nặng về ngân sách trong khi nước này vẫn có nhiều mục tiêu phát triển khác và
đối mặt với những thách thức từ nhiều phía.
Thứ hai, mạng lưới điện truyền tải năng lượng giữa các khu vực còn thiếu
linh hoạt do phân bố chưa hiệu quả. Nhà máy Kela nằm ở phía Tây, nơi mật độ
dân cư thưa thớt, đang tạo ra hơn 3/4 năng lượng điện. Nhưng phần lớn nhu cầu
tiêu thụ điện lại nằm ở phía Đông. Phải mất thêm rất nhiều chi phí để vận chuyển
năng lượng hàng ngàn dặm trên khắp đất nước, chưa kể hao phí điện năng trong
quá trình truyền điện. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc phát triển năng
lượng tái tạo mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ ngành năng lượng điện nói chung.
Thứ ba, nguồn lực dành cho ngành năng lượng tái tạo ở Trung Quốc còn có
phần hạn chế. Cụ thể, trong việc phát triển năng lượng mặt trời, ngành này phải
cạnh tranh trong việc sử dụng đất với các ngành khác, đặc biệt là nông nghiệp.
Do đó, rất khó để nước này nhanh chóng đẩy mạnh các công trình năng lượng tái tạo.