



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
NGÂN HÀNG CÂU HỎI THI MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(2 tín chỉ - 30 câu)
(Thời gian thi: 90 phút)
I. Nhóm 1 (Đánh giá khả năng tái hiện kiến thức, 4 điểm)
Câu 1: Nêu khái quát các cơ sở lý luận và trình bày tác động của chủ nghĩa
Mác-Lênin đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh *Cơ sở lý luận
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước niềm tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ,
phong tục tập quán và những truyền thống tốt đẹp khác của dân tộc
Độc lập dân tộc gắn liền với lý tưởng vì dân chủ, tự do, công bằng, hạnh phúc
của nhân dân; gắn liền với tinh thần quốc tế chân chính của giai cấp công nhân
*Tinh hoa văn hóa nhân loại
- Tinh hoa văn hóa phương Đông:
Từ Hồ Chí Minh nhỏ đã được học hỏi nền Quốc học và Hán học và xuyên suốt
quá trình Người hoạt động cách mạng cũng đã kế thừa và phát triển tinh hoa
văn hóa, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba tư tưởng lớn Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo
Hồ Chí Minh còn kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái khác
nhau trong các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại như Hàn Mặc Tử, Hàn Phi
Tử, Quản Tử,… trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc
- Tinh hoa văn hóa phương Tây
Từ khi còn học ở trường tiểu học Pháp Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với các tác
phẩm văn hóa phương Tây, quan tâm sâu sắc tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại
cách mạng Pháp năm 1789: “LIBERTÉ, ÉGALITÉ, FRANTERNITÉ” (Tự do, bình đẳng, bác ái)
Người kế thừa và phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong bản
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Pháp
Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã sống, hoạt
động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân
loại tại những trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn ở các cường quốc trên thế
giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc,… bằng chính ngôn ngữ của các nước đó - Chủ nghĩa Mác-Lênin
1.2. Tác động của chủ nghĩa Mác - Lênin đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp
luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng, là một nguồn gốc lý luận, là
thành tố chủ yếu nhất có vai trò quyết định trong việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã có những bước phát triển về
chất, từ một người yêu nước trở thành người chiến sĩ cộng sản với tầm vóc trí tuệ lớn
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã góp phần giúp Hồ Chí Minh tìm thấy con đường
Cách mạng vô sản cho dân tộc
Dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lênin, Người đã tiếp thu và chuyển hóa yếu tố
tích cực, những giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại từ đó sáng
tạo, đổi mới tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển lớn:
kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với
giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân
tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó
trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác – Lênin”
Câu 2: Nêu các thời kỳ hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm
1890 đến năm 1969 và trình bày thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về con đường
cách mạng Việt Nam (1921 -1930).
2.1 Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm con đường cứu
nước mới (1890-1911)
2.2. Thời kỳ hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc VN theo con đường CMVS (1911-1920)
2.3. Thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi, phong phú, tiến tới thành lập Đảng (1921-1930)
Năm 1921, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa
Năm 1922, tham gia Ban nghiên cứu thuộc địa của ĐCS Pháp
Xuất bản báo Le Paria để tuyên truyền chủ nghĩa MLN vào các nước thuộc địa
Năm 1923, sang Matxcơva dự
· Hội nghị Quốc tế nông dân
· Đại hội Quốc tế cộng sản V
· Đại hội của các đoàn thể quần chúng: Quốc tế thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ
Năm 1924, Bác về Quảng Châu (Trung Quốc)
T6/1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên
(21/6/1925) và mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ và đưa họ về nước hoạt động
T2/1930, Bác chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, sáng lập ĐCSVN
Bác trực tiếp thảo các văn kiện:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình và Điều lệ vắn tắt
Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách Mệnh (1927)
=> đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng HCM về con đường cách mạng của VN
2.4. Thời kỳ vượt qua thử thách, giữ vững quan điểm, đường lối, phương pháp
cách mạng, nêu cao tư tưởng độc lập tự do và quyền dân tộc cơ bản (1930-1941)
2.5. Thời kỳ tiếp tục phát triển, hoàn thiện, soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta (1941-1969)
Câu 3: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc. Bài làm
Khái niệm Dân tộc: Dân tộc là một cộng đồng người có chung nền văn hóa,
nhóm sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc, lịch sử (thường có chung địa bàn cư trú:
vùng, lãnh thổ) có khi gồm nhiều nhóm sắc tộc. Dân tộc trong trường hợp quốc
gia dân tộc còn được gọi là Quốc Dân.
Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo vĩ đại của Việt Nam, đã có những quan điểm
rõ ràng và sâu sắc về vấn đề độc lập dân tộc được thể hiện qua các điểm sau :
Thứ nhất, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất
cả các dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định rằng độc lập và tự do là những
quyền cơ bản, không thể tách rời của mỗi dân tộc. Người nhấn mạnh
rằng mọi dân tộc đều có quyền tự quyết, tự quản lý số phận của mình.
Việc xâm phạm vào quyền này không chỉ là hành động vi phạm luật
pháp quốc tế mà còn đi ngược lại với các giá trị nhân đạo. Đối với Hồ
Chí Minh, độc lập tự do không chỉ là mục tiêu mà còn là nguyên tắc bất
di bất dịch trong sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Hồ Chí Minh luôn cho rằng độc lập dân tộc không thể tách rời khỏi
tự do và hạnh phúc của nhân dân. Độc lập chỉ có ý nghĩa khi nhân dân
được sống trong tự do, có cơ hội phát triển và hưởng thụ thành quả của
đất nước. Người coi hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu cuối cùng của
cuộc đấu tranh giành độc lập, khẳng định rằng độc lập dân tộc phải phục
vụ lợi ích của nhân dân.
Thứ ba, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để.
Hồ Chí Minh không chỉ kêu gọi giành lại quyền tự chủ cho dân tộc mà
còn yêu cầu một nền độc lập thật sự, không bị ràng buộc hay lệ thuộc
vào bất kỳ thế lực nào. Người nhấn mạnh rằng độc lập phải đi đôi với sự
tự cường, tự lực, và phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là phải xây
dựng một đất nước vững mạnh, có khả năng tự bảo vệ trước mọi thách thức.
Thứ tư, độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đối
với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc không chỉ là việc giành quyền tự quyết
cho một phần lãnh thổ mà còn phải đảm bảo sự thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước. Người đã luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự
đoàn kết giữa các dân tộc, các vùng miền trong cả nước, khẳng định rằng
chỉ khi toàn thể dân tộc đoàn kết, độc lập mới được bảo vệ và phát triển.
Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc không chỉ là một khát vọng
chính trị mà còn là một triết lý sống gắn liền với nhân dân và các giá trị nhân văn.
Người đã để lại cho thế hệ sau một bài học quý giá về sự liên kết giữa độc lập dân tộc
với tự do, hạnh phúc và thống nhất của tổ quốc.
Câu 4: Nêu khái quát các quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc và trình bày một quan điểm trong đó. Bài làm
Các quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là:
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn
dân tộc, lấy liên minh công - nông làm nền tảng
Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng
Trình bày quan điểm: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực
lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh công - nông làm nền tảng”
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra một chân lí: cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân. Tiếp thu lí luận đó và với thực tiễn cách mạng
Việt Nam, trong suốt đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan
niệm lấy dân là gốc, được lòng dân thì được tất cả, mất lòng dân là mất tất cả.
Bởi lẽ đó, trong “Sách lược vắn tắt của Đảng” (1930), Người xác định
lực lượng cách mạng gồm toàn dân. Đảng phải thu phục đại bộ phận giai
cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày
nghèo làm thổ địa cách mạng, liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông…để lôi kéo họ về phía vô sản giai cấp, còn đối với phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng
thì phải lợi dụng hoặc làm cho họ trung lập. Đây chính là điểm sáng tạo
nổi bật của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam.
Bước vào 2 cuộc kháng chiến trường kì, Hồ Chí Minh vẫn nhất quán
quan điểm có dân là có tất cả, dựa vào dân để giành thắng lợi trước
những kẻ thù hùng mạnh để ra “Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến” (1946)
Trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh cũng
xác định: lấy liên minh công - nông làm nền tảng, là chủ cách mạng.
Bởi, đây là 2 giai cấp đông đảo, bị bóc lột nặng nề nhất, họ có lợi ích
tương đồng, trở thành lực lượng cách mạng nhất, là nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bằng việc xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh đã
đoàn kết được toàn thể dân tộc, đánh thắng 2 kẻ thù hùng mạnh nhất của
thế giới: thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Câu 5: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Mục tiêu chung: Độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân
Mục tiêu cụ thể: Thể hiện trên nhiều lĩnh vực như kinh tế chính trị, xã hội,
giáo dục, y tế, quân sự ...
Mục tiêu về chính trị: Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chế độ chính trị phải
do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân.
=> Phải xây dựng được chế độ dân chủ
Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật
thiết với mục tiêu về chính trị. Đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công -
nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến
Mục tiêu về văn hóa: Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã
hội. Đó là xóa mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây
dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hành nếp sống mới, bài trừ mê tín dị đoan, thực hành vệ sinh phòng bệnh
=> Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng và
tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại
Mục tiêu về các quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh …
=> Đào tạo con người là nhiệm vụ hàng đầu của CM XHCN
Động lực: Theo HCM, động lực của chủ nghĩa xã hội được biểu hiện ở các
phương diện vật chất và tinh thần, nội sinh và ngoại sinh
Động lực con người: Là quan trọng và quyết định nhất
Động lực kinh tế: Thúc đẩy phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất
Động lực văn hóa, khoa học, giáo dục: Là động lực tinh thần không thể thiếu của CNXH
Động lực bên ngoài: Là sức mạnh của thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế,
sử dụng tốt những thành tựu khoa học, kỹ thuật trên thế giới
Giữa nội lực và ngoại lực, HCM xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất,
ngoại lực là rất quan trọng
Câu 6: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính tất yếu sự ra đời, phát triển
của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội VN CM Thanh niên trước khi thành lập Đảng dù nhiều
nước trên thế giới đã có Đảng, vì Người nhận thấy được thực tế tình hình đất nước lúc
bấy giờ: VN là nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu, 90% dân số mù chữ và chưa
được giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lênin.
- 1924, Người rời Liên Xô về Quảng Châu, Trung Quốc. Tại đây, người tiếp xúc
với những thanh niên VN yêu nước trong tổ chức Tâm Tâm Xã.
- 6/1925, Người cải tổ Tâm Tâm xã thành Hội VN CM Thanh niên, ra báo “
Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận, mở các lớp đào tạo cán bộ Cách mạng. Những bài
giảng của Người được tập hợp lại in thành cuốn “ Đường Kách Mệnh” (1927).
=> Sách này và tuần báo Thanh niên được truyền vào VN, trang bị lý luận cách mạng
vô sản cho nhân dân ta. 1 số hội viên được cử đi học ở nước ngoài, phần lớn trở về VN
truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và lý luận cách mạng giải giải phóng dân tộc (phong trào vô sản hóa).
- Như vậy, việc thành lập tổ chức tiền thân của Đảng- Hội VN CM Thanh niên là
bước chuẩn bị trực tiếp về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Tính tất yếu phải có Đảng lãnh đạo:
- Sự ra đời của Đảng trước hết vì sống còn của dân tộc: Pháp xâm lược VN
(1858), VN từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Từ
1858- cuối thế kỉ 19, các phong trào đấu tranh liên tục nổ ra theo cả con đường cứu
nước phong kiến và dân chủ tư sản:
+) Phong trào Cần Vương (1885-1895) với các cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Bãi Sậy, Ba Đình. Kết :
quả thất bại => đánh dấu chấm dứt cho con đường cứu nước theo con đường phong kiến.
+) Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu: có chủ trương duy tân đưa thanh niên
sang Nhật học tập, chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ giành lại đất nước. Kết : thất bại quả
=> Pháp cấu kết với Nhật trục xuất học sinh VN, bởi cả 2 đều là tư bản, dựa vào Nhật
đánh Pháp cũng như “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
+) Phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh: chủ trương dựa vào Pháp đánh phong
kiến, tuyên truyền vận động “ khai dân khí, trấn dân khí, hậu dân sinh”, lên án chế độ quân chủ ở VN.
: thất bại => bị Pháp đàn áp. Kết quả
+) Khởi nghĩa Yên Bái của VN Quốc dân đảng: chủ trương bạo động, đi theo con
đường cứu nước dân chủ tư sản. Kết quả: thất bại => tổ chức còn non yếu về mọi mặt,
cơ sở trong quần chúng nhân dân không nhiều và kẻ thù còn mạnh, dễ dàng đàn áp. Sự
kiện này đã đánh dấu chấm dứt cho con đường cứu nước dân chủ tư sản ở VN.
Nguyên nhân các phong trào yêu nước trên thất bại là do giai cấp phong kiến vs tư
tưởng phong kiến đã hết vai trò và quá lỗi thời. giai cấp tư sản VN còn non yếu, các tổ
chức và người lãnh đạo chưa có đường lối và phương pháp lãnh đạo đúng đắn.
VN lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Yêu cầu cấp thiết đặt ra: tìm
ra con đường, mục tiêu cứu nước mới.
- Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng: HCM đã khẳng định: trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
- Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng:
+) Đảng ra đời là bước ngoặt vĩ đại của giai cấp công nhân và cách mạng VN, chấm
dứt thời kì khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo và đường lối gphong dân tộc.
+) Kể từ khi ra đời, Đảng đã đề ra những chủ trương, đường lối, lãnh đạo nhân dân
đưa CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin vs phong trào
công nhân và phong trào yêu nước:
- HCM đã đưa vào thêm yếu tố thứ 3: phong trào yêu nước, đây là một sự sáng
tạo của Người với chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh VN lúc bấy giờ.
- Kể từ khi ra đời, những phong trào đấu tranh của công nhân đã kết hợp nhuần
nhuyễn với phong trào yêu nước.
- 1 số người VN yêu nước lúc đầu theo xu hướng DCTS, nhưng sau khi được giác
ngộ chủ nghĩa Mác- Lênin, đã dần theo xu hướng cộng sản.
- Hàng loạt các tổ chức yêu nước ra đời. VD: Hội VN CM Thanh niên- tiền thân của ĐCSVN.
- Các phong trào đấu tranh có 1 mục tiêu chung: Giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Vai trò lãnh đạo của ĐCVN:
- Xây dựng đường lối cách mạng, nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin vào VN, đưa nhiệm vụ gphong dân tộc lên hàng đầu và giải quyết trước tiên.
- Giác ngộ, tập hợp, tổ chức quần chúng nhân dân. Đảng đã đánh giá đúng khả
năng cách mạng của mỗi tầng lớp; tập hợp, tập rượt họ đấu tranh qua các phong trào cách mạng.
- Lãnh đạo nhân dân thực hiện các mục tiêu của cách mạng. Xác định đúng thời
cơ, chuẩn bị lực lượng, biết chớp thời cơ Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Câu 7: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân vô cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng
những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt
Nam; là cẩm nang để sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công.
Nhà nước của dân:
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, “nhà nước của dân” là nhà nước mà tất cả
quyền lực đều thuộc về nhân dân, tức “dân là chủ". Người khẳng định: “Trong
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều
là của nhân dân”. Như vậy, địa vị chủ thể tối cao của mọi quyền lực là nhân dân.
Dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước thông qua hai hình thức: Dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp.
Dân chủ trực tiếp: là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp
quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc và
quyền lợi của dân chúng. Bác Hồ luôn coi trọng và taọ mọi điều kiện cho
hình thức dân chủ trực tiếp bởi đây là hình thức dân chủ đầy đủ nhất.
Như trong Điều thứ 1 Hiến pháp năm 1946 mà Người soạn thảo đã
khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Dân chủ gián tiếp (hay dân chủ đại diện): là hình thức dân chủ được sử
dụng rộng rãi nhằm thực thi quyền lực của nhân dân. Đó là hình thức dân
chủ mà trong đó nhân dân thực thi quyền lực của mình thông qua các đại
diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ lập lên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân. Tự bản
thân nhà nước không có quyền lực. Quyền lực của nhà nước là
nhân dân ủy thác cho. Do vậy các cơ quan quyền lực nhà nước
cùng với đội ngũ cán bộ đều là “công bộc”, “đầy tớ" của nhân
dân, nghĩa là “gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải là đè
đầu nhân dân”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị thế và mối
quan hệ giữa nhân dân và cán bộ trên cơ sở nhân dân là người
nắm giữ mọi quyền lực.
Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi
miễn những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải
tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập nên. Đây là quan điểm
rõ ràng, kiên quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo cho mọi
quyền lực, trong đó quyền lực nhà nước luôn nằm trong tay dân
chúng. Dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, có
quyền phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của các
đại biểu và cơ quan nhà nước.
Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân. Theo
Hồ Chí Minh, sự khác biệt căn bản của luật pháp trong nhà nước
Việt Nam mới với luật pháp của chế độ tư sản, phong kiến là ở
chỗ nó phản ánh được ý nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân
chúng. Luật pháp là của nhân dân, là công cụ thực thi quyền lực,
là phương tiện để nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước Nhà nước do dân:
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước
do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; được dân chúng “cử ra”, “tổ
chức” dựa trên nền tảng pháp lý của một chế độ dân chủ theo các trình tự dân
chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết…
- Nhà nước phải tạo điều kiện để nhân dân thực thi những quyền mà Hiến
pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn
nghĩa vụ làm chủ của mình đối với đất nước.
- Nhà nước cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân cũng
phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình,
không được làm những điều mà pháp luật cấm. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được
tốt, phải có năng lực làm chủ”. Bác cũng động viên nhân dân chuẩn bị tốt năng lực làm chủ. Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí
Minh viết: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy
nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao
giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm.
Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.
Trong nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đày tớ, nhưng đồng thời phải vừa là
người lãnh đạo của nhân dân. Là người đày tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần
liệm liêm chính, chí công vô tư. Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người,
minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài.
Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức cả tài, phải vừa hiền lại vừa minh.
Câu 8: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây dựng và hoạt
động của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Một số nguyên tắc nổi bật trong quan điểm HCM bao gồm:
Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi và lâu dài: Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh Mặt trận
dân tộc thống nhất phải tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước, không phân biệt tôn
giáo, dân tộc, giai cấp, hay địa vị xã hội. Đoàn kết phải ở mọi thành phần dân tộc.
Đồng thời, đoàn kết phải mang tính lâu dài và ổn định để đảm bảo sự bền vững của
Mặt trận, tạo nền tảng vững chắc cho các hoạt động giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Nguyên tắc lấy lợi ích dân tộc làm nền tảng: Mục tiêu tối cao của Mặt trận dân
tộc thống nhất theo Hồ Chí Minh là phục vụ lợi ích của dân tộc và nhân dân. Tất cả
các hoạt động của Mặt trận đều phải xuất phát từ quyền lợi chung của dân tộc, lấy
hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm nhiệm vụ trọng tâm
Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau: Hồ Chí Minh coi trọng
tính tự nguyện của các thành viên trong Mặt trận, không cưỡng ép mà khuyến khích sự
tham gia tự giác. Các thành viên tham gia Mặt trận cần được tôn trọng, bình đẳng, lắng
nghe ý kiến của nhau, dù là cá nhân hay tổ chức, đều có quyền tự chủ trong hoạt động
riêng của mình. Sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau là yếu tố quan trọng để duy trì khối
đoàn kết chung của toàn thể dân tộc
Nguyên tắc thống nhất và linh hoạt trong hành động: Theo Hồ Chí Minh, Mặt
trận dân tộc thống nhất cần có sự thống nhất về mục tiêu và phương hướng hành động.
Mặt trận cần đảm bảo sự thống nhất chung, hướng đến lợi ích dân tộc. Tuy nhiên, phải
luôn linh hoạt trong phương pháp, thích ứng với hoàn cảnh thực tiễn để đạt được hiệu quả cao nhất
Nguyên tắc xây dựng lòng tin: Hồ Chí Minh cho rằng lòng tin giữa các thành
viên trong Mặt trận là cốt lõi của đoàn kết. Ông nhấn mạnh sự chân thành, trung thực,
không phân biệt đối xử, coi trọng và tin tưởng lẫn nhau, đặc biệt là giữa các tầng lớp
nhân dân, các đảng phái, và tôn giáo khác nhau. Chỉ khi có lòng tin, Mặt trận mới thực
sự là một khối đoàn kết vững chắc.
Nguyên tắc kết hợp giữa lợi ích của từng thành viên với lợi ích chung: Mặt trận
phải biết hài hòa giữa lợi ích riêng của các thành viên và lợi ích chung của dân tộc. Hồ
Chí Minh cho rằng cần tạo điều kiện để các thành viên trong Mặt trận phát triển, bảo
đảm quyền lợi chính đáng của họ, đồng thời khuyến khích họ tham gia, đóng góp cho lợi ích chung.
Những nguyên tắc trên của Hồ Chí Minh không chỉ giúp Mặt trận dân tộc thống
nhất có sức mạnh vượt qua mọi thử thách trong lịch sử, mà còn là kim chỉ nam quan
trọng trong việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc hiện nay, đóng góp vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh mới.
Câu 9: Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại.
-Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là
phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.
-Nội dung tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh.
-Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy.
-Mục đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam,
xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Kết luận:
-Việc nghiên cứu, phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại giúp chúng ta hiểu rõ hơn về con người vĩ đại của
Hồ Chí Minh: Người đã nhìn thấy phép biện chứng giữa “tính dân tộc” và “tính nhân
loại” như là một quy luật trong việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh một mặt chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
-Mặt khác, Người chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu
cho nền văn hóa Việt Nam.
-Việc nghiên cứu, phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại còn giúp nâng cao năng lực, tư duy lý luận và
phương pháp công tác trong thời đại hiện nay:
+ Giúp ta nắm được những quan điểm của người về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc cũng như tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó ta có thể đóng góp sức mình
vào công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà hiện nay.
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa
nhân loại đã góp phần xây dựng nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đồng
thời cũng trở thành kim chỉ nam soi đường cho các hoạt động của Đảng trong các vấn
đề của văn hóa nước nhà
Câu 10: Nêu quan điểm Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng và trình
bày một chuẩn mực trong đó.
1. Chuẩn mực đạo đức Cách mạng của Hồ Chí Minh:
Đạo đức cách mạng là: phạm trù đạo đức cơ bản, bao quát nhất trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
Biểu hiện của đạo đức cách mạng: Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng,
của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả
lợi ích riêng của cá nhân mình
Đây là quan điểm đạo đức mới (chưa hề xuất hiện trong lịch sử tư tưởng, phát
triển cùng với tiến trình cách mạng Việt Nam), khác hoàn toàn đạo đức cũ;
đối lập với đạo đức tư sản và chủ nghĩa cá nhân
Các chuẩn mực đạo đức cách mạng chung, có ý nghĩa cơ bản, phổ cập tới
mọi người, mọi tầng lớp:
“Yêu nước, yêu nhân dân”,
“Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”;
“Trung với nước, hiếu với dân”,
“Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”;
“Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh”
“Biết đặt lợi ích dân tộc, tập thể lên trên lợi ích cá nhân”;
“Khiêm tốn, trung thực, thật thà, dũng cảm, đoàn kết”;
“Biết thương yêu, quý trọng con người, sống có tình có nghĩa”;
“Có tinh thần quốc tế trong sáng”;
Các chuẩn mực đặt riêng cho từng chức năng, nghề nghiệp của mỗi người trong xã hội: Công dân:
Tuân theo pháp luật Nhà nước. Tuân theo kỷ luật lao động. Giữ gìn trật tự chung.
Đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để xây dựng lợi ích chung.
Hăng hái tham gia công việc chung.
Bảo vệ tài sản công cộng. Bảo vệ Tổ quốc Cán bộ: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường.
Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Đảng viên:
Phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau
Bất kỳ hoàn cảnh khó khăn đến mức nào cũng phải kiên quyết
làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng Lực lượng vũ trang:
“Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”
Với cán bộ chỉ huy quân đội: “Trí, dũng, nhân, liêm, trung”. Công an:
Đối với mình: cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự: thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ: tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân: kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc: tận tụy.
Đối với địch: cương quyết, khôn khéo
Những người làm công tác y tế: luôn luôn đề cao “y đức”, “y thuật”,
“thầy thuốc phải như mẹ hiền”
Thầy giáo, cô giáo: phải thương yêu học sinh, ra sức dạy tốt, dạy dễ
hiểu, yêu nghề, yêu người
Đoàn viên, thanh niên: Người mong muốn thanh niên cần phải vừa
“hồng” vừa “chuyên”, “yêu đạo đức”
Thiếu niên, nhi đồng: chăm học, giúp người lớn, đoàn kết, có kỷ luật
tốt, “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt,
kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh. Thật thà, dũng cảm.” Tóm lại:
đạo đức cách mạng Như vậy,
là nền tảng quy định nhân cách và tư
cách ecủa mỗi người, đó cũng là: Nhẫn, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, là gốc của
con người. Người đòi hỏi tài năng phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng đạo đức.
2. Trình bày một chuẩn mực đạo đức cách mạng:
"Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức
tránh" (Làm việc vì lợi ích của nhân dân). Theo Hồ Chí Minh, người cách
mạng phải luôn luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Người thường xuyên
nhấn mạnh rằng, các cán bộ, đảng viên phải “làm hết sức mình để phục vụ
nhân dân” và luôn phải gần gũi, lắng nghe và hiểu rõ nguyện vọng của họ.
Chuẩn mực đạo đức “Làm việc vì lợi ích của nhân dân” được thể
hiện rõ trong những nguyên tắc hành động của Hồ Chí Minh, cũng như
trong các chuẩn mực đạo đức Người đặt ra cho Cán bộ và Đảng viên:
Các nguyên tắc hành động của Hồ Chí Minh:
Gắn bó với nhân dân: Người cách mạng phải có tình cảm
và mối quan hệ gắn bó sâu sắc với nhân dân, coi dân như
là nguồn lực, là động lực và là mục tiêu của mọi hành động.
Phục vụ nhân dân: Mọi hành động, quyết định và chính
sách đều phải hướng đến lợi ích của nhân dân, giúp đỡ
người nghèo, người yếu thế, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Trong sạch, trung thực: Đạo đức cách mạng yêu cầu
người cách mạng phải giữ gìn phẩm chất trong sạch, tránh
xa những cám dỗ vật chất và quyền lực, giữ vững lòng
trung thực và chí công vô tư.
Cán bộ: Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Đảng viên: Phải
đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau
Hồ Chí Minh khẳng định rằng: "Cán bộ là người đầy tớ của nhân dân”.
Tóm lại, chuẩn mực "làm việc vì lợi ích của nhân dân" là một phần cốt lõi trong hệ
thống đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh, phản ánh một tinh thần trách nhiệm, phục
vụ và hy sinh vì cộng đồng và đất nước.
II. Nhóm 2 (Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, 3 điểm)
Câu 1: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập dân tộc là một trong những tư tưởng cốt lõi trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người đã dành cả cuộc đời để đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng của Người về độc lập dân tộc không chỉ mang tính lý luận mà còn được thể
hiện rõ nét trong thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Những điểm chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc
Độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Tư tưởng HCM về chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và vận
dụng một cách sáng tạo vào cuộc cách mạng Việt Nam. Ông không chỉ thấy chủ nghĩa
xã hội là một lý tưởng mà còn là con đường đi tới độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách triệt để.
Những điểm chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cuối cùng của cách mạng: Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định rằng, mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam là xây dựng
một xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó
mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Chủ nghĩa xã hội là con đường giải phóng dân tộc: Ông cho rằng, chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ, xóa bỏ
bóc lột người người, xóa bỏ sự bất công trong xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là sự kết hợp giữa lý tưởng cộng sản và thực tiễn Việt Nam:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam, đưa ra những sáng kiến độc đáo, phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử và văn hóa của dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài: Ông nhận thức rõ rằng, xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, cần phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều khó khăn thử thách.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là kim chỉ
nam xuyên suốt cho cách mạng Việt Nam. Để vận dụng tư tưởng này vào công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, chúng ta cần:
1. Xác định rõ mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới: Đổi mới toàn diện và sâu rộng, không
ngừng học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng vẫn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc.
Xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Kết hợp hài
hòa giữa cơ chế thị trường và quản lý của nhà nước, đảm bảo sự phát triển bền vững và công bằng.
Đẩy mạnh công tác xã hội: Quan tâm đến đời sống của người dân, nhất là
những nhóm yếu thế, tạo điều kiện để mọi người có cơ hội phát triển.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Phát huy các giá
trị truyền thống tốt đẹp, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2. Đảm bảo độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ: Đề cao
tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch.
Thúc đẩy quan hệ đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa: Tăng cường hợp tác
với các nước trên thế giới, nhất là các nước láng giềng, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng: Đảng phải không ngừng đổi mới, nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh: Đẩy mạnh công
tác xây dựng Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
4. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc: Đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các
dân tộc, tôn giáo, vì mục tiêu chung của đất nước.
Mở rộng dân chủ, tăng cường đối thoại, lắng nghe ý kiến của nhân dân: Tạo
điều kiện để nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5. Xây dựng con người Việt Nam mới
Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ: Giúp thế hệ
trẻ hiểu rõ về lịch sử, truyền thống của dân tộc, có ý thức trách nhiệm với đất nước.
Phát triển văn hóa đọc, nâng cao trình độ dân trí: Đầu tư cho giáo dục, đào tạo,
tạo ra một xã hội học tập.
Tóm lại, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cần kết hợp hài hòa giữa lý luận và thực tiễn, giữa
truyền thống và hiện đại, giữa mục tiêu độc lập dân tộc và mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Đây là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Câu 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản vào công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xIng đáng là mô J t Đảng
chân chính cách mạng, “làm tròn nhiê J m vụ giải phóng dân tô Jc, làm cho TL quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng”1 là nội dung đặc biệt quan trọng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cIu, vận dụng vào xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay. Dưới đây là một số phương hướng cụ thể:
1. Xây dựng Đảng về chính trị
Đường lối chính trị: Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, kết tinh từ học thuyết
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thế giới.
Bản lĩnh chính trị: Đảng và đảng viên cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và đường lối đổi mới vì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Văn hóa chính trị: Đảng phải xây dựng văn hóa chính trị, thể hiện rõ vai trò tiên
phong của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, đảm bảo lợi ích quốc gia - dân tộc
trên cơ sở luật pháp quốc tế.
2. Xây dựng Đảng về tư tưởng
Nền tảng tư tưởng: Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chống lại tư tưởng bảo thủ.
Công tác tư tưởng: Đổi mới nội dung và phương thức công tác tư tưởng, đảm bảo
tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, và tính thực tiễn.
Khâu đột phá: Chủ động chống lại thông tin sai trái, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu
lý luận, thu hút và trọng dụng chuyên gia, đổi mới giáo dục lý luận chính trị.
3. Xây dựng Đảng về tổ chức
Tổ chức bộ máy: Đảm bảo mô hình tổ chức tinh gọn, hoạt động hiệu quả, liên thông, và đồng bộ.
Chi bộ: Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đảm bảo chất lượng sinh hoạt, nâng
cao dân chủ, và tự phê bình.
Đội ngũ đảng viên, cán bộ: Chú trọng chất lượng đảng viên, chuẩn bị và đánh giá cán
bộ nguồn. Kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Ngăn chặn chủ nghĩa
cá nhân, tránh làm suy yếu lòng tin của nhân dân vào Đảng.
4. Xây dựng Đảng về đạo đức
Thấm nhuần đạo đức cách mạng: Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng
Hồ Chí Minh, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phục vụ nhân dân và đất nước.
Tự phê bình và phê bình: Thường xuyên tự phê bình, hoan nghênh nhân dân giám
sát. Chống tham nhũng, lãng phí, và quan liêu.
Trách nhiệm nêu gương: Thực hiện nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, xây
dựng văn hóa chính trị, nói đi đôi với làm, vì lợi ích của nhân dân và đất nước.
5. Xây dựng Đảng về công tác cán bộ:
Đề bạt, cất nhắc cán bộ một cách khách quan, công tâm, đúng người đúng việc,
phải dựa trên công tác, tài năng, và không vì tình cảm cá nhân.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân: Tăng cường lắng nghe và đáp
ứng những mong muốn, ý kiến từ nhân dân. Cần coi đây là cơ sở để tự hoàn thiện,
tránh xa rời và mất lòng tin của quần chúng.
Câu 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ vào công tác cán bộ
của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ là một nội dung cốt lõi trong tư tưởng chính
trị của Người, đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng đội ngũ lãnh đạo.
1. Cán bộ là gốc của mọi công việc
Hồ Chí Minh coi cán bộ là yếu tố then chốt quyết định sự thành bại của mọi công
việc, và từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ. Người nói: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Điều này thể hiện rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trong việc hoạch
định, triển khai và thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước.
2. Đức và tài của cán bộ
Hồ Chí Minh đặt ra nguyên tắc trong việc lựa chọn cán bộ, đó là phải coi trọng cả
đức và tài, trong đó đức là yếu tố cốt lõi. Câu nói nổi tiếng của Người là: “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Người yêu cầu cán bộ phải vừa có đạo đức, phẩm chất cách mạng vừa phải có năng
lực chuyên môn, để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, vì Người nhận thấy
sự quan trọng của việc phát triển năng lực liên tục cho cán bộ để họ có thể hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Đào tạo cán bộ không chỉ là đào tạo về kỹ năng chuyên môn, mà còn
phải bồi dưỡng về đạo đức cách mạng, tinh thần phục vụ nhân dân.
Người chỉ rõ, cán bộ cần phải:
Học tập liên tục: Học không ngừng nghỉ để nâng cao kiến thức, từ học ở
trường lớp đến học từ thực tiễn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng học tập là việc
phải làm suốt đời, vì cán bộ luôn cần nâng cao kiến thức để đáp ứng yêu cầu của công việc.
Bồi dưỡng đạo đức: Bên cạnh học tập chuyên môn, Người yêu cầu phải
thường xuyên bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, rèn luyện tính cách liêm chính,
trách nhiệm, tinh thần hy sinh vì cộng đồng.
4. Sử dụng đúng cán bộ, đúng người, đúng việc
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bố trí, sử dụng cán bộ sao cho phù hợp với năng lực
và phẩm chất của họ. Người thường nói “Dùng người phải đúng chỗ”. Việc đặt đúng
cán bộ vào đúng vị trí phù hợp với khả năng sẽ giúp công việc diễn ra suôn sẻ và đạt hiệu quả cao nhất. Người nhấn mạnh:
Hiểu đúng cán bộ: Trước khi bố trí một người vào công việc nào đó, cần
phải hiểu rõ năng lực, phẩm chất, tính cách của người đó để có thể giao cho họ
công việc phù hợp nhất.
Không chủ quan: Tránh việc đánh giá cán bộ qua cảm tính hoặc dựa vào
mối quan hệ cá nhân. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải đánh giá cán bộ dựa trên
thực tế công việc, kết quả và ý kiến của quần chúng.
5. Phát huy dân chủ trong công tác cán bộ
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến việc thực hiện dân chủ trong công tác cán bộ.
Người yêu cầu phải lắng nghe ý kiến của tập thể, quần chúng trong việc lựa chọn và
bổ nhiệm cán bộ, tránh tình trạng độc đoán, chủ quan.
Nguyên tắc dân chủ được thể hiện qua:
Tập trung dân chủ: Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết của việc lấy ý
kiến của tập thể trong quyết định lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ. Mọi quyết định
về cán bộ cần phải được xem xét kỹ lưỡng và thông qua các quy trình dân chủ
để đảm bảo tính minh bạch và công bằng.
Lắng nghe quần chúng: Người nhấn mạnh rằng quần chúng là người trực
tiếp đánh giá năng lực và phẩm chất của cán bộ, do đó, ý kiến của quần chúng
cần được xem xét một cách cẩn thận khi đánh giá, bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm cán bộ.
6. Kiểm tra, giám sát và khen thưởng, kỷ luật cán bộ
Hồ Chí Minh cho rằng việc kiểm tra, giám sát cán bộ là cần thiết để đảm bảo họ
thực hiện đúng nhiệm vụ, giữ vững phẩm chất cách mạng. Người khẳng định rằng phải
thường xuyên theo dõi, kiểm tra công việc của cán bộ để kịp thời chấn chỉnh các sai
sót, đồng thời phát hiện và khuyến khích những cá nhân xuất sắc.
Khen thưởng kịp thời: Khen thưởng cán bộ có thành tích tốt không chỉ là
sự ghi nhận mà còn là cách khuyến khích, động viên tinh thần làm việc của họ.
Kỷ luật nghiêm minh: Đối với những cán bộ vi phạm, thiếu tinh thần trách
nhiệm hoặc có hành vi sai trái, cần phải xử lý nghiêm minh, không thiên vị.
Điều này giúp đảm bảo tính liêm chính, giữ vững kỷ luật trong đội ngũ cán bộ,
tránh sự suy thoái về đạo đức, lối sống.
7. Coi trọng vai trò của nhân dân trong công tác cán bộ
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng, cán bộ là “người đầy tớ của nhân dân”, do đó,
nhân dân có quyền giám sát và đánh giá cán bộ. Đảng cần phát huy vai trò của nhân
dân trong công tác cán bộ bằng cách lắng nghe ý kiến, nguyện vọng và phản hồi của
quần chúng về cán bộ. Ý kiến của nhân dân giúp Đảng đánh giá đúng đắn về cán bộ,
đồng thời làm tăng tính minh bạch và công bằng trong việc bổ nhiệm, đề bạt và xử lý cán bộ.
Do vậy việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ vào thực tiễn công
tác cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng, giúp
đảm bảo bộ máy lãnh đạo có đủ năng lực và phẩm chất để lãnh đạo đất nước trong giai
đoạn phát triển mới. Một số hướng vận dụng cụ thể bao gồm:
Tuyển chọn và sử dụng cán bộ có năng lực, đạo đức:
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc lựa chọn cán bộ không chỉ dựa trên năng lực chuyên
môn mà còn phải chú trọng phẩm chất đạo đức. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần
kiên quyết tuyển chọn những cán bộ vừa có “tâm” vừa có “tầm”, đảm bảo không chỉ
năng lực lãnh đạo mà còn tính liêm khiết, trung thực, trách nhiệm. Việc này giúp củng
cố lòng tin của nhân dân vào bộ máy lãnh đạo.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:
Đào tạo cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ liên tục và toàn diện.
Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế, Đảng cần tập trung vào việc bồi dưỡng kiến
thức chính trị, chuyên môn, và kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ. Đặc biệt, cần mở
rộng việc cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu trong và ngoài nước, nhằm nắm bắt các xu
hướng quản lý, công nghệ mới, từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo.
Sử dụng cán bộ đúng người, đúng việc:
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh việc phải “dùng người đúng chỗ”. Để làm được điều
này, Đảng cần thực hiện công tác quy hoạch, phân loại cán bộ một cách chính xác,
minh bạch. Điều này đòi hỏi đánh giá đúng năng lực thực tiễn của cán bộ, tránh việc
bổ nhiệm theo cảm tính hay vì các mối quan hệ cá nhân.
Thực hiện dân chủ và công khai trong công tác cán bộ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc phải dân chủ trong tuyển chọn, bổ nhiệm cán
bộ. Trong bối cảnh hiện tại, cần tăng cường các quy trình dân chủ, công khai trong
việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, hạn chế tình trạng chạy chức, chạy quyền. Việc công
khai quy hoạch cán bộ và để nhân dân giám sát cũng là cách để đảm bảo tính công bằng và minh bạch.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật cán bộ:
Để đảm bảo tính liêm chính và hiệu quả trong công tác cán bộ, việc giám sát và kiểm
tra cán bộ cần được thực hiện nghiêm túc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đề cao việc kiểm
tra, giám sát thường xuyên để kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm, sai sót. Đảng cần
mạnh tay trong việc xử lý những cán bộ sai phạm, đảm bảo không có “vùng cấm”, tạo
ra một môi trường làm việc minh bạch và kỷ luật.
Phát huy vai trò của nhân dân trong công tác cán bộ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong việc lựa chọn, giám
sát cán bộ. Việc tiếp thu ý kiến của nhân dân, lắng nghe phản hồi từ quần chúng về
năng lực và phẩm chất của cán bộ là rất cần thiết trong công tác quản lý và quy hoạch cán bộ hiện nay.
Tóm lại, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ vào thực tiễn đòi hỏi
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc
xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Điều này không chỉ góp phần tăng cường năng
lực lãnh đạo mà còn củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Câu 4: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là
nền tảng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Vận dụng tư tưởng này giúp định hình và phát triển một nhà nước
thực sự đại diện cho lợi ích của nhân dân, đảm bảo dân chủ và pháp quyền trong mọi
hoạt động quản lý và điều hành. Dưới đây là một số cách vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay:
1. Xây dựng Nhà nước của nhân dân
Nhân dân là chủ thể quyền lực: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là gốc
rễ của quyền lực nhà nước. Nhà nước cần đảm bảo quyền lợi của nhân dân, đặc
biệt là thông qua các cơ chế dân chủ trực tiếp và gián tiếp. Việc tổ chức bầu cử
dân chủ, đảm bảo người dân có quyền tham gia quản lý xã hội và giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước là cách để thể hiện bản chất của một nhà nước "của nhân dân".
Gần gũi với nhân dân: Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng cán bộ nhà nước
phải lắng nghe và hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Các hoạt động
như tiếp dân, đối thoại với nhân dân, cùng với việc giải quyết nhanh chóng và
kịp thời những khiếu nại, tố cáo của người dân là yếu tố quan trọng trong việc
xây dựng Nhà nước phục vụ.
2. Xây dựng Nhà nước do nhân dân
Dân chủ trong quản lý: Nhà nước phải đảm bảo dân chủ, cho phép nhân dân
tham gia quản lý xã hội và nhà nước thông qua các hình thức dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp. Điều này bao gồm cả việc tôn trọng và thực hiện đầy đủ
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và quyền giám sát của nhân dân đối với
các hoạt động của nhà nước.
Nhân dân tham gia xây dựng pháp luật: Quá trình lập pháp cần có sự tham
gia của nhiều tầng lớp xã hội, để luật pháp không chỉ thể hiện ý chí của cơ quan
nhà nước mà còn phản ánh lợi ích và nguyện vọng của toàn thể nhân dân.
3. Xây dựng Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước phục vụ nhân dân: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước phải
phục vụ lợi ích của nhân dân, không được phép lạm quyền, xa rời mục tiêu
phục vụ xã hội. Điều này đòi hỏi sự công bằng và minh bạch trong hoạt động
quản lý hành chính, kinh tế và xã hội.
Chống tham nhũng và lãng phí: Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc xây dựng một
Nhà nước trong sạch, liêm chính, không để quan liêu, tham nhũng phát triển.
Hiện nay, điều này có thể được thực hiện thông qua các biện pháp kiểm soát, xử
lý mạnh tay với tham nhũng, tăng cường các cơ chế giám sát và trách nhiệm
giải trình của cán bộ công chức.
Bảo đảm quyền con người: Tư tưởng "vì nhân dân" cũng thể hiện qua việc
Nhà nước phải đảm bảo và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân. Điều
này đòi hỏi hệ thống pháp luật phải ngày càng hoàn thiện, đảm bảo các quyền
cơ bản như quyền sống, quyền làm việc, học tập, chăm sóc sức khỏe, tự do
ngôn luận, và quyền tham gia vào đời sống chính trị.
4. Tăng cường pháp quyền
Tôn trọng và thực thi pháp luật: Tư tưởng Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính pháp
quyền, nghĩa là mọi hành động của Nhà nước phải tuân thủ luật pháp, không ai
đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Điều này yêu cầu việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật hiện hành, tăng cường các biện pháp bảo đảm sự công bằng và bình đẳng trước pháp luật.
Xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính: Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến
việc chọn lựa và đào tạo đội ngũ cán bộ công chức. Việc này phải được thực
hiện dựa trên nguyên tắc: đạo đức, tài năng, và tinh thần phục vụ nhân dân.