-
Thông tin
-
Quiz
Ngân hàng câu hỏi thi Chủ nghĩa xã hội khoa học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày những giá trị và hạn chế lịch sử của các tư tưởng XHCN phê phán đầu thế kỷ XIX. Trình bày các đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân. Trình bày điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trình bày nội dung cơ bản hợp thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211) 138 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Ngân hàng câu hỏi thi Chủ nghĩa xã hội khoa học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Trình bày những giá trị và hạn chế lịch sử của các tư tưởng XHCN phê phán đầu thế kỷ XIX. Trình bày các đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân. Trình bày điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trình bày nội dung cơ bản hợp thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211) 138 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
NGÂN HÀNG CÂU HỎI THI
HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (3TC)
1. Trình bày những giá trị và hạn chế lịch sử của các tư tưởng XHCN phê phán đầu thế kỷ XIX.
a. Các giá trị lịch sử Chủ nghĩa xã hội không tưởng trước chủ nghĩa Mác đã có một quá
trình phát triển lâu dài, từ thời cổ đại đến những năm 30 của thế kỷ XIX. Từ những câu
chuyện huyền thoại, viễn tưởng đã trở thành hệ thống quan điểm, học thuyết xã hội chủ
nghĩa; từ những mơ ước, khát vọng đã trở thành cương lĩnh, dự án về cải cách xã hội,
phong trào đấu tranh mang tính chất cách mạng. Chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán
thực sự có một giá trị lịch sử to lớn trong sự phát triển tư tưởng nhân loại, đặc biệt với
sự xuất hiện và đóng góp to lớn của ba nhà chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán vĩ đại đầu
thế kỷ XIX: Xanh Xi-mông, S.Phu-ri-ê và R.Ôoen.
Thứ nhất, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã phê phán một cách sâu sắc xã hội tư bản, phần
nào phản ánh được tiếng nói của những người lao động trước tình trạng bị đối xử bất công và bị
áp bức trong xã hội. Sự phê phán không chỉ miêu tả chi tiết những hiện tượng tội ác phơi bày
trên bề nổi của xã hội, mà còn bắt đầu đi vào khám phá bí ẩn trong xã hội và đi tới phủ nhận sự
tồn tại của cái xã hội vô lý ấy.
Thứ hai, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa utopia - phê phán đã để lại trong di sản học thuyết
của mình những quan điểm, tư tưởng sâu sắc về quá trình phát triển của lịch sử, những dự đoán
thiên tài về xã hội tương lai, mà về sau nhờ có chủ nghĩa Mác nhiều luận điểm, quan điểm, tư
tưởng và dự đoán đã được chứng minh là đúng.
Thứ ba, trong giai đoạn lịch sử tương đối dài, với tư tưởng và bằng hoạt động của mình, các nhà
tư tưởng xã hội chủ nghĩa utopia đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng lao động.
Song, giá trị lịch sử nổi bật nhất của chủ nghĩa xã hội utopia - 1 23 phê phán đầu thế
kỷ XIX đã được C.Mác và Ph.Ăng-ghen thừa nhận là một trong ba tiền đề tư tưởng
của chủ nghĩa xã hội khoa học. Ph.Ăng-ghen khẳng định rằng, chủ nghĩa xã hội lý
luận Đức sẽ không bao giờ quên rằng nó đứng trên vai của Xanh Xi-mông, S.Phu-ri-ê
và R.Ô-oen, ba con người - mặc dầu tất cả tính chất ảo tưởng và utopia trong các
học thuyết của họ thuộc về những trí tuệ vĩ đại và đã tiên đoán được một cách thiên
tài về một số những chân lý mà ngày nay chúng ta đang chứng minh sự đúng đắn
của chúng một cách khoa học.
b. Những hạn chế lịch sử
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán đã không thể chỉ ra được con đường,
phương thức và phương pháp cách mạng có thể từng bước tạo lập các tiền đề, cơ
sở kinh tế - xã hội của chế độ mới: chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán đã không thể chỉ ra được các lực lượng
xã hội cơ bản của cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
cũng như không thể chỉ ra được lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi
tiên phong trong cuộc đấu tranh ấy.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán không thể chứng minh được các tệ nạn
xã hội, những sự áp bức, bất công xã hội được sinh ra từ chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất như thế nào và bằng cách nào, dù đã chỉ ra chính xác chế độ tư
hữu là nguồn gốc chủ yếu, cơ bản của những tệ nạn và bất công xã hội ấy
Khi nền công nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa ra đời và tạo ra những biến đổi căn bản
trong đời sống kinh tế, chính trị của xã hội, các hạn chế lịch sử trên đây của chủ
nghĩa xã hội utopia - phê phán càng được bộc lộ đầy đủ. Đến đây, nhu cầu tất yếu
phải có sự phát triển mới, có tính chất cách mạng trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa
đã chín muồi. Chỉ có một lý luận kế thừa một cách sáng tạo, xuất sắc đối với các giá
trị, khắc phục được một cách căn bản những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội
utopiaphê phán mới đáp ứng đòi hỏi của chính thực tiễn và làm cho các học thuyết
lý luận xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa không còn là utopia và không chỉ mang
tinh thần phê phán, làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một khoa học
2. Trình bày các đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân.
Đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân - Giai cấp công nhân là sản phẩm của đại công
nghiệp có trình độ công nghệ kỹ thuật hiện đại và có tính chất xã hội cao
Trong thời đại cách mạng xã hội lần thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản
xuất, đặc biệt là của lực lượng sản xuất và đại công nghiệp đã tạo nên một hệ quả kép.
Một mặt, đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa không ngừng tạo ra một lực lượng sản xuất có trình
độ công nghệ, kỹ thuật ngày càng hiện đại, với tính chất xã hội ngày càng cao.
Mặt khác, nền đại công nghiệp ấy không ngừng sản sinh ra một cơ cấu xã hội - giai cấp mới,
trong đó sự thống nhất và đấu tranh giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản ngày càng trở
thành quan hệ cơ bản nhất, chi phối sự vận động, biến đổi đời sống chính trị của xã hội hiện đại.
Theo hệ quả thứ hai, giai cấp công nhân ngày càng trở thành lực lượng xã hội đối lập
căn bản với giai cấp tư sản, trở thành giai cấp trung tâm, đủ sức để thực hiện bước
chuyển cách mạng của nhân loại lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn - hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa,
sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền đại công nghiệp, của cách mạng khoa học - công
nghệ, một cách khách quan, đã làm gia tăng tính chất gay gắt của mâu thuẫn cơ bản của xã hội -
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất được xã hội hóa ngày càng cao, có trình độ công nghệ và kỹ
thuật ngày càng hiện đại với chế độ sở 1 68 hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
Đến lượt nó, mâu thuẫn kinh tế - xã hội này của nền sản xuất hiện đại, lại tác động và làm gay
gắt thêm mâu thuẫn chính trị - xã hội của hai giai cấp cơ bản, đối lập nhau, được sản sinh ra và
được trưởng thành từ chính sự phát triển của sản xuất và kinh tế - giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.
Trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp tư sản đại diện cho quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân, quan hệ sản xuất mà trên đó xây dựng và phát triển
toàn bộ hệ thống kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Chế độ xã hội ấy, về bản chất luôn là phương tiện công cụ cơ bản nhất duy trì và bảo
vệ địa vị thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn xã hội.
Cũng trong sự thống nhất và đối lập ấy, giai cấp công nhân đại diện cho một phương
thức sản xuất mới, tiến bộ, mà những tiền đề cơ bản của phương thức sản xuất ấy
đã, đang hình thành, được chín muồi từ chính chủ nghĩa tư bản.
Giai cấp công nhân có lợi ích chính trị thống nhất về cơ bản với lợi ích chính trị của nhân dân
lao động và toàn xã hội
Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn chính trị cơ bản và là mâu thuẫn đối kháng trong xã
hội đó là mâu thuẫn giữa giai cấp 1 70 tư sản với giai cấp công nhân. Hơn nữa, đó còn là
mâu thuẫn giữa một bên là quảng đại quần chúng nhân dân lao động với một bên là chế
độ tư bản chủ nghĩa.-> nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự nổi dậy chống áp bức.
Giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích chính trị cơ bản đối lập với giai cấp tư sản C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa, như ta đã thấy, không ngừng sản sinh ra giai cấp công nhân hiện đại, lực lượng
sản xuất hàng đầu, cách mạng nhất của xã hội hiện đại. Sự đối lập giữa giai cấp tư sản
thống trị, đại biểu cho quan hệ sở hữu tư nhân với giai cấp công nhân, đại biểu của lực
lượng sản xuất có trình độ công nghệ kỹ thuật hiện đại, có tính chất xã hội cao, ngày
càng trở nên gay gắt. Giai cấp công nhân trở thành giai cấp có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩ cộng sản.
3. Trình bày điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. a. Khái niệm
sứ mệnh lịch sử của một giai cấp (trong một thời đại cách mạng xã hội) là toàn bộ những
nhiệm vụ mà giai cấp ấy có thể thực hiện và cần phải thực hiện nhằm thủ tiêu một chế
độ xã hội cũ đã lỗi thời, thiết lập một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy
luật phát triển của lịch sử xã hội (có giai cấp và đấu tranh giai cấp) và phù hợp với lợi ích
chính trị căn bản của giai cấp đó, được quy định bởi địa vị kinh tế - xã hội và địa vị chính
trị - xã hội căn bản của giai cấp đó.
b. Điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp trong mỗi thời đại cách mạng xã hội, được quy định một
cách khách quan bởi các điều kiện cụ thể về kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội của thời đại
ấy. Đồng thời để có thể thực hiện được những nhiệm vụ có tính chất lịch sử ấy, các giai cấp
đó lại cần có những điều kiện mang tính chất chủ quan, được quyết định và quy định bởi các điều kiện khách quan.
Về địa vị kinh tế - xã hội khách quan: giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho một lực
lượng sản xuất mới, được hình thành trong lòng chủ nghĩa tư bản, được phát triển
không ngừng cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Về địa vị chính trị - xã hội khách quan: giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích chính trị
cơ bản đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản và nhà nước tư sản trong chủ nghĩa tư bản
- Giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích chính trị cơ bản phù hợp với lợi ích của các giai
cấp, tầng lớp nhân dân bị thống trị, bị áp bức trong xã hội hiện đại
Là giai cấp được dẫn dắt bởi các tư tưởng lý luận khoa học tiến bộ, do các đại biểu trí
thức tiến bộ, cách mạng đề xướng
- Giai cấp công nhân là giai cấp có thể thực hiện được khối liên minh vững chắc của mình
với đông đảo quần chúng nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột, nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc
4. Trình bày nội dung cơ bản hợp thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a. Thủ tiêu hoàn toàn và triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xây dựng và
không ngừng củng cố chế độ sở hữu xã hội đối với các tư liệu sản xuất
Điểm khác biệt căn bản giữa sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với sứ mệnh
lịch sử của các giai cấp trong các thời đại cách mạng đã qua trong lịch sử là ở chỗ, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thực hiện sự chuyển biến từ chế
độ tư hữu này sang chế độ tư hữu khác, nhằm thay đổi hình thức bóc lột này sang
hình thức bóc lột khác mà là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với các tư liệu
sản xuất chủ yếu, thiết lập chế độ sở hữu xã hội (công hữu) đối với những tư liệu sản
xuất chủ yếu, tiến tới xóa bỏ mọi hình thức người bóc lột người, tạo lập cơ sở kinh
tế - xã hội tiến tới xóa bỏ giai cấp và áp bức giai cấp nói chung
b. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự thống nhất biện chứng của hai quá trình: cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới
Trong những thời đại trước, các giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình về cơ
bản chỉ tập trung vào nhiệm vụ chính trị: thủ tiêu bộ máy chính quyền của giai cấp
thống trị trong xã hội cũ, thực hiện cải tạo chính trị đối với xã hội ấy là đã có thể tạo
ra tiền đề, điều kiện giải phóng, phát triển các yếu tố, các quan hệ kinh tế và quy luật
kinh tế của chế độ mới.
. Đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, sau khi thủ tiêu chính quyền nhà
nước chế độ cũ, thiết lập quyền lực thống trị của giai cấp công nhân, sự C.Mác và
Ph.Ăng-ghen sự nghiệp cách mạng mới thực sự bắt đầu.
c. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sứ mệnh lịch sử toàn thế giới
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự thống nhất giữa hai yếu tố giai cấp - dân tộc và dân tộc - quốc tế.
Cuộc cách mạng do giai cấp công nhân mỗi nước tiến hành trước hết diễn ra và giành thắng lợi
trong khuôn khổ mỗi quốc gia dân tộc, nhưng thực chất sự nghiệp ấy đã mang tính chất quốc tế.
Bởi vì, thắng lợi của giai cấp công nhân mỗi nước sẽ góp phần làm suy yếu chủ nghĩa tư bản và
cổ vũ cho phong trào công nhân trong các quốc gia dân tộc khác cũng như phong trào công nhân
quốc tế nói chung, trên phạm vi toàn thế giới.
Ngược lại, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới lớn mạnh, tạo thời cơ và thuận
lợi cho sự phát triển cách mạng của giai cấp công nhân ở mỗi nước
Đặc điểm này vừa nói lên sự khác biệt căn bản sứ mệnh của giai cấp công nhân với
sứ mệnh lịch sử của các giai cấp trong các thời đại trước, vừa nói lên tính chất lâu
dài, khó khăn và phức tạp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
5. Trình bày vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
a. Khái niệm đảng cổng sản là gì ?
đảng cộng sản là tổ chức chính trị tiên tiến nhất, bao gồm những đại biểu ưu tú,
giác ngộ và trung thành nhất với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng được
thành lập để lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
b. Vai trò quyết định của đảng cộng sản đối với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Vai trò của đảng trong lãnh đạo đề ra phương hướng, chiến lược phát triển, mục tiêu cơ bản
của mỗi giai đoạn cách mạng và lãnh đạo quá trình hiện thực hóa chiến lược phát triển, mục tiêu cơ bản
Điều kiện cơ bản đảm bảo giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử
của mình là đảng cộng sản, đội tiên phong của nó luôn được vũ trang bởi một lý
luận cách mạng và khoa học. Trên cơ sở ấy, đảng cộng sản xây dựng cương lĩnh
chính trị đúng đắn làm cơ sở cho việc xác định các mục tiêu cơ bản, nhiệm vụ chủ
yếu phù hợp với mỗi giai đoạn cách mạng, mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách
mạng. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản về phương hướng, nhiệm vụ cách mạng,
phương châm tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng cần huy động trên các lĩnh
vực cơ bản: kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, an ninh, quốc phòng...
hợp thành cương lĩnh và đường lối cách mạng cơ bản được đảng cộng sản đề ra, là
yếu tố tiên quyết đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, từng
bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
b. Vai trò của đảng trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện những nhiệm vụ cơ bản, thực hiện các
mục tiêu cơ bản trong mỗi giai đoạn của tổ chức đảng và đảng viên
Ở phương diện vĩ mô, vai trò quyết định của đảng đối với thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng được thể hiện thông qua quá trình đảng là người đề ra đường lối, chiến
lược cách mạng, đề ra hệ thống sách lược cách mạng và là người lãnh đạo quá trình
thể chế hóa các đường lối chiến lược, sách lược cách mạng ấy.
Đồng thời, theo phương diện vi mô, vai trò quyết định của đảng đối với thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng được thể hiện thông qua sự lãnh đạo, tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ cách mạng cụ thể, trên những lĩnh vực, phạm vi công tác cụ thể...
Vai trò của đảng trong lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ cách mạng
Các chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước được thực hiện hiệu quả đến
đâu, hiệu quả cao hay thấp lại phụ thuộc chủ yếu và trước hết bởi năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các tổ chức các cấp của đảng, phụ thuộc chủ yếu, trước hết
vào năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tính tiền phong, gương mẫu... của đội ngũ cán
bộ chủ chốt trong các tổ chức ấy và trong hệ thống chính trị các cấp... được Đảng
đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng.
d. Vai trò của đảng trong việc xây dựng, củng cố mối liên hệ với quần chúng nhân dân, xây
dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và củng cố tình đoàn kết giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và nhân loại tiến bộ trên thế giới
Xét dưới góc độ lý luận, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi,
liên quan mật thiết với sự nghiệp phóng nhân loại khỏi mọi áp bức và bất công xã
hội. Trong sự nghiệp ấy, giai cấp công nhân đóng vai trò là giai cấp tiên phong, có sứ
mệnh lịch sử dẫn dắt nhân dân, dân tộc, nhân loại trong công cuộc thủ tiêu chủ
nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
6. Trình bày đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội- giai đoạn thấp của hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền
đại công nghiệp được phát triển lên từ những tiền đề vật chất - kỹ
thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình
độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở
vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nên đại công nghiệp cơ khí đã
từng là cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tư
cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất - kỹ
thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp phát triển lên từ tiền đề vật chất - kỹ
thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, có trình độ cao hơn so với trình độ nền
công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen có nhận định
rằng: sau khi giành được chính quyền nhà nước, "giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị
chính trị của mình để tìm từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư
sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấy tư liệu sản xuất từ
trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy vào trong tay nhà nước để phục vụ
cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội xã hội chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa mới được xác lập đầy đủ.
Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể; người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội, do đó không còn
tình trạng người bóc lột người.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách
tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa, không còn
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho ngựời lao động kết hợp
hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa
xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền đại công nghiệp ở
trình độ phát triển cao, do vậy đòi hỏi một kỷ luật lao động chặt chẽ trong từng khâu,
từng lĩnh vực, trong sản xuất của toàn xã hội theo những quy định chung của luật pháp.
C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng: lao động được tổ chức có kế hoạch, trên tinh
thần tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có
một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao như vậy, một mặt đòi hỏi phải đẩy
mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động, mặt khác phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc
phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên
tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có những hạn
chế nhất định, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là tất yếu. Mỗi
người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương
đương với số lượng, chất lượng, hiệu quả lao động mà họ đã tạo ra cho xã hội. Ngoài
phương thức phân phối theo lao động là phương thức cơ bản nhất, người lao động còn
được phân phối theo phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội,
nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao
thông. V.V..Đó là những công trình phúc lợi, phục vụ cho mọi người trong xã hội. Nguyên
tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong xã hội chủ
nghĩa, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Thư năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân vì nhà nước xã hội chủ
nghĩa là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặt
dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động; thực hiện trấn áp những thế lực phản động, những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước này tập hợp đại biểu
các tầng lớp nhân dân, nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều
kiện để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự
giác, tự quản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng thực hiện tốt hơn quyền tự do, dân
chủ của nhân dân. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Giai cấp công nhân là người đại
diện chân chính cho dân tộc, có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của dân tộc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết được các dân tộc, tạo nên sự bình đẳng về mọi
mặt giữa các dân tộc cả trên cơ sở pháp lý và trong thực tiễn cuộc sống, đấu tranh bảo
vệ những lợi ích chân chính của dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị của dân
tộc, nâng chúng lên ngang tầng với yêu cầu của thời đại.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội,
tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi sự bóc lột về kinh
tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Xã hội xã hội
chủ nghĩa đã thực hiện xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thực hiện việc xóa bỏ đối kháng giai cấp, xóa
bỏ bóc lột, con nguời có điều kiện phát triển tài năng cá nhân, mang tài năng đó đóng
góp cho xã hội; thực hiện được công bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về
địa vị xã hội của con người. Tuy nhiên, do giới hạn phát triển của những điều kiện khách
quan, sự bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội vẫn chưa đạt tới mức hoàn thiện như trong
giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
7. Trình bày đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã
hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại
một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc
dân thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ
ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với
những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng về tính tất yếu của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần vào
quá trình chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin đã phân
tích kết cấu kinh tế nước Nga lúc đó với 5 thành phần, được xếp theo trình độ phát
triển của chúng từ thấp đến cao trong lịch sử, đó là: kinh tế nông dân kiểu gia
trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế này tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế đó
chỉ có thể được giải quyết trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác
lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất
với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó
là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao
động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp xã hội trong
thời kỳ này cũng đa dạng, phức lạp. Thời kỳ này có giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất
nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa
đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cùng có nhiều bộ
phận có trình độ, có ý thức khác nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên
cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư
sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư
sản là "kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với
nhiều bọn phản cách mạng công khai” . Trên lĩnh vực văn hóa cũng
tồn tại các yếu tố văn hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chấi của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn
ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại, không còn là giai cấp
thống trị vả những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới
là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh
vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới,
diễn ra trong mọi lĩnh vực chính trị. kinh tế và tư tưởng - văn hóa.
8. Trình bày các đặc điểm cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa :
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư
bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc cách
mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng
nhân dân lao động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Nghĩa hẹp: Là cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai
cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết
lập được nhà nước chuyên chính vô sản- nhà nước của gccn và quần chúng nhân dân lao động.
- Nghĩa rộng: cmxhcn gồm 2 thời kì: cách mạng về chính trị với nội dung
chính là thiêt lập nhà nước chuyên chính vô sản và tiếp theo là thời ký
gccn và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội
cũ về mọi mặt nhằm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
Các đặc điểm cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa :
cmxhcn trên lĩnh vực chính trị :
Đập tan nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp công
nhân, nhân dân lao động; đưa những người lao động từ địa vị nô lệ làm thuê lên
địa vị làm chủ xã hội.
Tiếp: Phát triển sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: thu hút đông đảo quần
chúng nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà
nước ---> để nâng cao hiệu quả việc tập hợp nhân dân : đảng nhà nước cần
nâng cao kiến thức về mọi mặt cho người dân đặc biệt là về văn hóa chính trị +
xây dựng pháp luật, cơ chế ...
cmxhcn Trên lĩnh vực kinh tế
Trước đây: chỉ là cách mạng chính trị
Còn cách mạng xã hội chủ nghĩa về thực chất có tính chất kinh tế: việc giành
chính quyền chỉ là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm và có ý nghĩa quyết định thắng
lợi cmxhcn là không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao năng suât lao động và
cải thiện đời sống của nhân dân. Thay đổi vị trí người lao động đối với TLSX,
xóa bỏ chế độ tư hữu với tư cách là quan hệ thống trị bằng chế độ công hữu về
TLSX, xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN và cải tạo quan hệ sản xuất cũ.
Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, phát triển lực lượng sản xuất,
nâng cao năng suất lao động.
cmxhcn trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Trong xã hội bóc lột trước đây: giai cấp thống trị nắm quyền lực về kinh tế =>
thống trị về mặt tinh thần. Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân cùng quần
chúng nhân dân lao động đã trở thành những người làm chủ tlsx chủ yếu trong
xã hội => cũng là chủ thể sáng tạo ra giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội.
Trên cơ sở kế thừa một cách có chọn lọc, cmxhcn trên lĩnh vực tt-vh thực hiện
việc giải phóng người lao động về mặt tinh thần thông qua xây dựng thế giới
quan mới, nhân sinh quan mới, xây dựng con người mới với văn hóa đạo đức
mới; giáo dục hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
==> cmxhcn diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, quan hệ gắn kết, tác động lẫn nhau,
thúc đẩy cùng phát triển.
9. Trình bày đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm về nền Dân chủ :
Dân chủ là cách nói tắt về chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ. Chế độ dân chủ là chế
độ chính trị, trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân
thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do nhân dân bầu ra.
Dân chủ tư sản ra đời cùng với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở các nước châu Âu.
Dân chủ tư sản đã đưa lại sự tiến bộ lớn lao so với chế độ chuyên chế phong kiến trước đó.
Lênin khẳng định: "Cộng hoà tư sản, nghị viện, phổ thông đầu phiếu đó là sự tiến bộ lớn lao xét
từ quan điểm phát triển xã hội trên phạm vi toàn cầu”, "Nếu không có chế độ nghị viện, không
có chế độ bầu cử... Chắc sự phát triển của giai cấp công nhân không thể Có được”.
Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN :
- Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.Nhà
nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua
chính đảng của nó.Nhà nước bảo đảm thoả mãn ngày càng cao các nhu cầu và lợi ích của nhân dân,
trong đó có lợi ích của giai cấp công nhân.Đây chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Điều đó nó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Hai là: nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của
toàn xã hội.Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình xã hội hoá ngày càng cao của sx nhằm thoả mãn
nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân lao động.Đây là
đặc trưng kinh tế cuả nền DCXHCN.Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với
quá trình hình thành và hoàn thiện của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.Đó là quá trình cải tạo và xây dựng
lâu dài kể từ khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH cho đến khi CNXH thực sự trưởng thành.
- Ba là: Trên là cơ sở của sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn thể xã hội,
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức động viên , thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xh mới.Trong nền dân chủ XHCN, tất cả các tổ chức chính trị xã hội ,
các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào mọi công việc của nhà nước.Mọi công dân đều
được bầu cử ,ứng cử và đề cử vào các cơ quan nhà nước các cấp.
- Bốn là nền dân chủ XHCN cần có và phải có những điều kiện tồn tại với tư cách là một nền dân chủ
rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp.Thực hiện dân chủ rộng rãi với
đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số giai cấp áp
bức, bóc lột và phản động.Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy
định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau.Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo lối mới trong lịch sử.
10.Trình bày nội dung liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nội dung chính trị của liên minh:\
Liên minh công- nông- trí thức trên lĩnh vực chính trị cần thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và
của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị
cơ bản đó khi thực hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai tầng mà
phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý
tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công
nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có đường lối
chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và
xây dựng CNXH thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý
nghĩa như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh
công- nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt
trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước
XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.
Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống
chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội
dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí
thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ
sở”, nhất là ở nông thôn.
Nội dung kinh tế của liên minh:
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của
liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ
được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:
- Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác quốc tế, từ
đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông
dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công-
nông nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển
kinh tế tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí thức”
- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao
lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực
công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng,
miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
- Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình
thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá
trình hình thành QHSX phải trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà nước
vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng XHCN.
- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước có vị
trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân
thể hiện qua chính sách khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước,
Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện
cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực
kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.
Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên quan
trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào
tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động
của trí thức vào việc phục vụ công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh:
Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo
nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm
nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công
nhân, nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục
truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu
xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học
công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc
hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông
thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện
đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1
cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng XHCN và mới
làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.
11.Trình bày các chức năng cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Kháiniệmchứcnăngnhànướcxãhộichủnghĩa
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, thể
hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chủ yếu để thiết lập và tổ chức thực hiện dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động. Bản chất, nội dung của chủ nghĩa xã hội quyết định các chức năng cơ
bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể.
Nội dung, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa rất rộng và phức tạp, do đó những chức năng của
nhà nước cũng rất phong phú và đa dạng. Chức năng nhà nước là một khái nhiệm quản lý, trong đó nội
dung, mục đích của quản lý nhà nước được biểu hiện một cách cụ thể. Vì vậy có thể nói, các chức năng
của nhà nước là những "con kênh" thông qua đó hoạt động quản lý của nhà nước được thực hiện. Mặc
dù mỗi chức năng nhà nước đều có đối tượng tác động riêng, nhưng các chức năng đều có mối liên hệ
qua lại mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không thể tách rời nhau. Tất cả các chức năng nhà nước
hợp thành một hệ thống thống nhất thể hiện bản chất và những nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của
nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, văn hóa ... Để thực hiện các chức năng đó, một hệ
thống các cơ quan nhà nước tương ứng được thành lập. Vì các chức năng nhà nước thống nhất với
nhau, cho nên các cơ quan nhà nước trong khi thực hiện các chức năng đó cũng có sự quan hệ qua lại
và tác động lẫn nhau, tạo thành hệ thống các cơ quan nhà nước thống nhất và đồng bộ.
Các chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những mặt hoạt động được đặt ra xuất phát từ những
yêu cầu khách quan, gắn liền với sự tác động và phát triển của nhà nước.
Cácchứcnăngđốinội
Thứ nhất, Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Đây là chức năng cơ bản đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong chủ nghĩa xã hội, nhà nước
không những là tổ chức của quyền lực chính trị, mà còn là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu; trực
tiếp tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước. Việc tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ
nghĩa là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, nhằm cải tạo và xóa bỏ quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa (và quan hệ sản xuất bóc lột nói chung) được xây dựng trên cơ sở của chế độ
tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột người lao động, để xác lập củng cố và phát triển quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động, thỏa mãn nhu cầu của người lao động.
Tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng rất khó khăn và phức tạp, đòi
hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn các vấn đề có tính quy luật của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
thời kỳ quá độ. Đồng thời phải có những chính sách, phương pháp và biện pháp tác động phù hợp để
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của chức năng tổ chức và quản lý kinh
tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần giải quyết,
trong đó công tác kế hoạch hóa, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và cơ chế
quản lý kinh tế là những vấn đề then chốt.
Tổ chức và quản lý kình tế là chức năng cơ bản của bất kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa nào. Nhưng do
đặc điểm và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước không giống nhau, vì vậy việc thực hiện chức năng tổ chức
và quản lý kinh tế trong mỗi nước cũng có những đặc điểm riêng. Ở Việt Nam trong hơn năm mươi năm
qua việc thực hiện chức năng này đã được quan tâm đáng kể và đã thu được nhiều kết quả. Sau ngày
miền Nam giải phóng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề tổ chức và quản lý kinh tế của nước ta đã
trở thành vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và luôn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Kết quả thực
hiện chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước tác động một cách trực tiếp tới tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của nước ta trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, tổng kết việc tổ
chức và quản lý kinh tế trong thời gian qua, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã khẳng định:
“Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tả là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,
khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa". Tư
tưởng chỉ đạo đó thể hiện trong các chính sách và biện pháp lớn chỉ đạo nội dung của chức năng tổ chức
và quản lý kinh tế của Nhà nước ta đó là:
Phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển ổn định.
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế. .Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ cộng hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý
và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa làm cho nó thực sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa, phù
hợp với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng bảo đảm tính kế hoạch trong quản lý kinh tế quốc dân, sử
dụng đúng đắn các quan hệ hàng hóa tiền tệ; Sử đụng kết hợp nhiều phương pháp quản lý trong
đó các phương pháp kinh tế là chủ yếu để tạo ra một cơ chế mới về quản lý kính tế "cơ chế kế
hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ” ...
Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ...
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội Đảng lần thứ VII đã thông qua "chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000" trong đó đã cụ thể hóa tư tưởng và
những phương hướng nói trên, nhấn mạnh phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng:
"Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liên bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu
quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Thiết lập trật tự, kỷ cương theo cơ chế mới
vừa là nội dung vừa là điều kiện để ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Việc thiết lập trật tự, kỷ cương của cơ chế đó bao gồm những vấn đề lớn là
- Phải hình thành một thị trường hoàn chỉnh bao gồm cả sức lao động, vốn và tiền tệ... thông suốt trong
cả nước và với thị trường thế giới; giá cả, tỷ giá hối đoái, lãi xuất tín dụng hình thành theo cơ chế thị
trường; tạo môi trường và điều kiện cho sự cạnh tranh hợp pháp và sự hợp tác, liên doanh, tự nguyện,
bình đẳng giữa các đơn vị trực thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và vốn nước ngoài; cả nước
chấp hành luật kinh doanh thống nhất; nâng cao khả năng tiếp thị (marketing) của các doanh nghiệp.Bảo
đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước với chức năng quản lý vĩ mô tập trung
thực hiện các vấn đề: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như bảo
đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế xã hội, duy trì trật tự pháp luật, xây dựng cơ sở hạ tầng ... Dẫn dắt và
hỗ trợ những nỗ lực phát triển; hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; quản lý và kiểm soát việc
sử dụng tài sản quốc gia.
- Đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của nhà nước bao gồm: Đổi mới việc xây
dựng, ban hành và thực thi pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội theo cơ chế thị trường;
tăng cường kế hoạch hóa vĩ mô, chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kế hoạch hóa định hướng; xây
dựng hệ thống kế toán, thống kê và thông tin kinh tế đáp ứng nhu cầu kịp thời, chính xác, đầy đủ, phù
hợp với chuẩn mực quốc tế và từng bước hiện đại hóa; đổi mới căn bản hệ thống tài chính - tiền tệ.
- Thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp quốc doanh, bảo đảm cho xí nghiệp thực
hiện đẩy đủ các quyền; chủ động tổ chức sản xuất kinh doanh; Tự chủ về tài chính; tuyển chọn, sắp xếp
lao động, trả lương và cho thôi việc theo luật lao động; giao dịch với khách hành trong và ngoài nước;
lựa chọn các hình thức liên kết, liên doanh...
Đồng thời với việc đổi mới cơ chế quản lý cần thực hiện các chính sách và giải pháp về vốn, về dân số
và việc làm, về thu nhập, bảo hiểm xã hội ...
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới đã khẳng
định một số nhận thức mới về cơ chế quản lý mới, đồng thời chỉ rõ: "Từ nay đến năm 2000, tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trong quan liêu bao cấp, hình thành tương đối
đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Theo đó,
trong thời gian tới nhà nước ta phải
- Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh
- Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa. Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ giá cả.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước.
Thứ hai, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột đã
bị lật đô và âm mưu phản cách mạng khác:
Đây là một chức năng hết sức quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu sau khi cách mạng thành
công.Mặc dù sau cách mạng các giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, chính quyền đã về tay của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, nhưng do bản chất phản động và trên thực tế giai cấp bóc lột đã bị lật đổ vẫn
còn giữ được trong một thời gian nhất định một số ưu thế như điều kiện sinh hoạt giàu có, học vấn, kính
nghiệm quản lý và nghệ thuật quân sự. Vì vậy chúng luôn tìm mọi cách để "phản kháng lại một cách lâu
dài, dai dẳng và liều mạng". V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng, bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản là một thời kỳ lịch sử lâu dài trong đó cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra gay gắt. Chừng
nào mà thời kỳ đó chưa chấm dứt thì bọn bóc lột vẫn còn nuôi hy vọng phục hồi địa vị thống trị của mình
và những hy vọng này sẽ biến thành mưu đồ phục hồi. Giai cấp bóc lột có thể sẵn sàng "lao mình vào
cuộc chiến với một nghị lực tăng gấp mười lần, với một sự cuồng nhiệt và lòng hận thù tăng gấp tỉ am lần
để chiếm lại cái thiên đường đã mất”. Mặt khác các thế lực đế quốc và phản động quốc tế luôn tìm mọi
cách để tấn công và làm suy yếu chủ nghĩa xã hội, nuôi dưỡng và khuyến khích bọn phản cách mạng
tiến hành các âm mưu phá hoại và bạo loạn gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải thực hiện tốt chức năng trấn áp mọi sự phản kháng của các giai cấp bóc lột
và mọi âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng để giữ vững chính quyền, bảo vệ thành quả cách
mạng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện hòa bình, ổn định cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc thực hiện chức năng này phải được tiến hành một cách kiên quyết,
không khoan nhượng, mơ hồ.
Để thực hiện chức năng này nhà nước xã hội chủ nghĩa phải không ngừng tăng cường sức mạnh về mọi
mặt, phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Nước ta, trải qua nhiều
giai đoạn lịch sử từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay, đã là một thực tiễn sinh
động để chứng minh nguyên lý nói trên. Các giai cấp bóc lột đã bị lật đổ vẫn có sự phản kháng quyết liệt
và dai dẳng. Bọn phản động được sự giúp đỡ của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế đã không từ
bỏ một thủ đoạn nào để phá hoại, mong muốn làm suy yếu chính quyền của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước và nhân dân ta đã kịp
thời đập tan mọi âm mưu phá hoại và mọi sự phản kháng của bọn phản cách mạng giữ vững chính
quyền, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, vai trò làm chủ tập thể của nhân dân
lao động ngày càng được phát huy.
Tuy vậy, cho đến nay chúng vẫn chưa từ bỏ mọi mưu đồ đen tối và phản động của chúng. Vì vậy, Đại hội
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã nhấn mạnh: "Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là
nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước. Không ngừng nâng cao giác ngộ và
cảnh giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ
với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới".
Thực hiện tết chức năng trấn áp sẽ tạo điều kiện hòa bình, ổn định cho việc thực hiện các chức năng
khác của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, kết quả thực hiện các chức năng khác sẽ có tác động
tích cực đến việc thực hiện chức năng trấn áp.
Thứ ba, chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghe
Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, chức năng tổ
chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoả học và công nghệ là một trong những chức năng quan trọng,
thể hiện vai trò và trách nhiệm của nhà nước trên ba lĩnh vực nhằm:
Nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa. Bồi dưỡng nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng đất nước.
Khuyến khích sự phát triển của khoa học, công nghệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả những thành tựu
khoa học, kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, phần lớn các cơ sở văn hóa, giáo
dục, khoa học kỹ thuật đều là sở hữu toàn dân. Vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa không những đề ra và
cần phải tổ chức thực hiện chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục và khoa học, mà còn có đủ
điều kiện để thực hiện tốt chức năng đó.
Thứ tư, chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ có nội dung rất rộng với
những nhiệm vụ hết sức phong phú và phức tạp, thể hiện trên các mặt với những vấn đề cơ bản là:
- Về văn hóa: Nhiệm vụ trung tâm đặt ra là xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới, con người mới, thiết
lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà nước và xã hội; đấu tranh chống những tư tưởng, văn
hóa lạc hậu và thù địch. Để thực hiện tết nhiệm vụ đó, phải tiến hành cuộc cách mạng về văn hóa. Cuộc
cách mạng văn hóa tiến hành trong mỗi nước cũng có những đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào tình hình
và điều kiện cụ thể của nước đó. Ơ nước ta cách mạng về tư tưởng văn hóa được xác định là một trong
ba cuộc cách mạng phải tiến hành đồng thời và có quan hệ mật thiết với nhau đó là: Cách mạng về quan
hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hóa.
Để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng văn hóa cần phải giải quyết tết những vấn đề cơ bản sau đây:
Chọn lọc, giữ gìn và nâng cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và từng
dân tộc, đồng thời tiếp thu những giá trị văn hóa, khoa học của nhân loại để xây dựng nền văn
hóa hiện đại mang bản sắc Việt Nam.
Dùng nhiều hình thức và phương tiện, trong đó chú trọng sử dụng và phát huy vai trò của pháp
luật để giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói riêng của nhân
dân, trau dồi đạo đức, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn và thẩm mỹ, nâng cao trình độ hiểu biết và
hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân; ngăn chặn các văn hóa phẩm và hoạt động văn
hóa nghệ thuật độc hại. Hình thành nếp sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng đạo đức bảo
vệ nhân phẩm con người, chống những tư tưởng lạc hậu, lối sống thấp hèn, suy đồi đạo đức.
Khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hóa, vun đắp tài năng. Giữ gìn và nâng cao các giá
trị văn hóa truyền thống, tôn tạo và bảo vệ các di tích văn hóa, lịch sử. Nhà nước cần có những
đầu tư thỏa đáng và có cơ chế quản lý bằng pháp luật, các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Tuy
nhiên, cần tránh khuynh hướng hành chính hóa các đơn vị hoạt động văn hóa nghệ thuật, cũng
như thương mại hóa đơn thuần trong lĩnh vực này. Tăng cường, hiện đại hóa và nâng cao chất
lượng thông tin đại chúng để thỏa mãn nhu cầu về thông tin và nâng cao sự hiểu biết của nhân dân.
- Về giáo dục và đào tạo
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước phải có chính sách phù
hợp về giáo dục và đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực dồi dào, nâng cao dân trí và đào tạo nhân