Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 11

Hàn Mặc Tử là cái tên được nhắc đến nhiều trong làng thơ Việt Nam, ông được bạn đọc ngưỡng mộ về tài năng và đồng cảm với số phận đầy bất hạnh của mình. Cho đến nay những tác phẩm của ông vẫn để lại nhiều giá trị, cũng như để lại nhiều dấn ấn trong tâm trí bạn đọc đặc biệt là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
5 trang 6 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất | Ngữ văn 11

Hàn Mặc Tử là cái tên được nhắc đến nhiều trong làng thơ Việt Nam, ông được bạn đọc ngưỡng mộ về tài năng và đồng cảm với số phận đầy bất hạnh của mình. Cho đến nay những tác phẩm của ông vẫn để lại nhiều giá trị, cũng như để lại nhiều dấn ấn trong tâm trí bạn đọc đặc biệt là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất
1. Đôi nét về tác giả và tác phẩm
1.1. Tác giả Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Và Hàn Mặc Tử, cùng
với các tên Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh của ông. Cuộc đời ông có duyên với 4 chữ Bình: Sinh tại
Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với
nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau và những người phụ nữ ấy đã để lại nhiều dấu ấn trong
văn thơ của ông.
Sự nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử bắt đầu từ năm 16 tuổi, với bút danh là Phong Trần và Lệ Thanh. Đến
năm 1936, ông đổi bút danh thành Hàn Mặc Tử, bút danh ấy có nghĩa là "chàng trai đứng sau bức rèm
trống trải, lạnh lẽo", sau đó bạn bè gợi ý ông thêm mặt trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô
đơn của con người trước thiên nhiên vạn vật. Mặt trăng khuyết ấy đã được đặt vào chữ "Mạc" tạo ra chữ
"Mặc" và Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".
Phong cách thơ của ông là một hồn thơ mãnh liệt nhưng lại luôn quằn quại trong đau đớn, như một cuộc vật
lộn giằng xé giữa linh hồn và thể thác. Ông muốn thoát xác để linh hồn mình được bay lên bầu trời, nơi mà
không còn nỗi đau về thể xác, nhưng ông cũng muốn ở lại bên cạnh người mình yêu, muốn được sống
trong một tình yêu bằng thân xác này. Vì vậy, thế giới thơ của ông thường được chia thành hai phần đối
nghịch nhau: ông sử dụng hai hình tượng hồn và trăng để viết ra những vần thơ điên loạn và ma quái; và
những bài thơ của ông cũng có nét trong sáng, hồn nhiên với những hình ảnh trong trẻo đẹp đẽ lạ thường
1.2. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ"
Tác phẩm ban đầu có tên là "Ở đây thôn Vĩ Dạ" và được sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ Điên sau đó
đổi tên thành Đau thương, đây là một kiệt tác thơ xuất sắc của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Bài thơ được viết nên từ những cảm xúc ngổn ngang chất chứa trong lòng nhà thơ, và từ mối tình đơn
phương dành cho cô Hoàng Thị Kim Cúc. Cô là nàng thơ xứ Huế mà ông luôn đau đáu hướng về và cũng là
mạch nguồn cảm hứng cho những sáng tác của ông. Và bài thơ đã được viết sau khi Hàn Mặc Tử nhận
được tấm bưu ảnh của cô, bao kỷ niệm đẹp đẽ hiện về, tạo cảm hứng dạt dào cho ông sáng tác nên bài thơ
này.
2. Dàn ý làm bài Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ
2.1. Mở bài
Giới thiệu tác giả và tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ"
2.2. Thân bài
a. Khổ 1: Cảnh vườn và con người nơi thôn Vĩ
- Câu mở đầu: lời mời mọc thân thiết mà như trách cứ.
- Cảnh vật: tinh khôi, tinh khiết tràn trề sức sống (nắng, vườn).
- Sự xuất hiện của con người được hiểu theo hai cách.
- Nghệ thuật: cách điệu hóa, cái hay trong việc sử dụng ngôn từ của tác giả.
b. Khổ 2: Đêm trăng thôn Vĩ
- Sự miêu tả gợi lên sự chia lìa của cảnh vật: gió, mây.
- Dòng nước, hoa bắp lay gợi một cảnh đẹp nhưng giăng mắc một nỗi buồn vô hình, man mác.
- Không gian cảnh vật tràn ngập ánh trăng, gợi ra nét huyền bí của vũ trụ.
- Câu hỏi tu từ, và từ đắt giá "kịp", cho thấy sự lo âu, phấp phỏng về sự xuất hiện của trăng, và nỗi cô đơn
của tác giả chỉ có thể làm bạn với trăng, đó cũng là khao khát được giao hòa với cuộc đời.
c. Khổ 3: Mộng ảo bao trùm lên cả cảnh và người
- Vạn vật dù là thiên nhiên hay con người thì dường như đều bị chìm vào cõi mộng khi tác giả sử dụng hàng
loạt các từ: "mơ", "nhìn không ra", "mờ nhân ảnh", điệp từ "khách đường xa".
- Những từ ngữ gợi ra sự cô đơn với trạng thái hoài nghi về cuộc đời, về tình người của tác giả như: "ở
đây", "ai"
- Những điều này thể hiện sự tha thiết giao cảm với cuộc đời, nỗi đau đớn khi bị bệnh tật dày vò và một tâm
trí luôn trong trạng thái hư vô giữa cõi thần và tục.
2.3. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật bài thơ.
- Khẳng định giá trị tác phẩm và tài năng nghệ thuật của tác giả.
3. Bài tham khảo Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất
3.1. Mở bài
Hàn Mặc Tử là một cây bút lớn trong nền văn học Việt Nam đặc biệt là ở lĩnh vực thơ ca, thơ của ông được
phóng xuất từ những trải nghiệm đau thương bằng cả tâm hồn và cả thể xác, bằng cả điện lẫn tỉnh, bằng cả
mơ hồ lẫn thực tại. Và càng về cuối đời, thơ của ông càng thanh thoát, an nhiên, giọng thơ của ông không
còn đau đớn và gào thét trong tâm can nữa. Biểu tượng "trăng" "hồn" "máu" đã trở thành biểu tượng nghệ
thuật bất biến, thường trực và xuyên suốt trong thơ của ông. Một trong những tác phẩm nổi bật, thể hiện rõ
phong cách sáng tác của tác giả đó là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ".
3.2. Thân bài
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tài hoa nhất của phong trào Thơ mới nước ta, ông để lại cho nền
thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, và mang
tâm hồn của một thi sĩ cô đơn, luôn khát khao giao cảm với đời. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" được rút trong
tập Thơ điên xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một
khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình có nhiều duyên nợ với cảnh và con người nơi thôn Vĩ Dạ.
Bài thơ mở đầu với một câu hỏi đan xen nhiều sắc thái tình cảm vừa như lời mời mọc, như lời hỏi han, mà
cũng như lời trách móc, hờn giận:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Nếu suy ngẫm kỹ hơn, có lẽ đây là lời tự trách bản thân của Hàn Mặc Tử khi bản thân đang rơi vào nỗi tuyệt
vọng. Đó là khao khát được về thăm thôn Vĩ của ông nhiều mãnh liệt nhưng cũng đau xót khi mặc cảm về
cảnh ngộ của mình. Câu hỏi tu từ ấy đã làm bao kỷ niệm sống dậy trong một hồn thơ, nó gắn liền với những
cảnh sắc đầy mộng mơ của con người xứ Huế:
"Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Cảnh vật nơi thôn Vĩ được nhắc đến là một sáng bình minh tuyệt đẹp. Hình ảnh của nắng ở hàng cau và
"nắng mới lên" cho ta thấy được đó là những tia nắng đầu tiên trong ngày, hàng cau là loài cây đón nhận
những tia nắng đầu tiên vì nó cao nhất và có những tàu lá dài mượt mà. Những hình ảnh đó hòa quyện vào
nhau tạo nên một bức tranh, một vẻ đẹp trong trẻo của bình minh nơi xứ Huế. Tiếp đó, tính từ "mướt quá"
gợi lên vẻ đẹp non tơ, mềm mại, mỡ màng tràn trề nhựa sống của cây lá, cách so sánh "xanh như ngọc" đã
gợi tả lên một khu vườn tỏa ra ánh sáng xanh mát rười rượi, lung linh, diệu kì. Đó cũng có thể là màu xanh
của cảnh vật trong vườn đang độ lớn, hay cũng có thể là màu xanh của cây cối in hình lên những giọt
sương ban mai trong sáng sớm. Nếu hai câu thơ đầu là sự hồi tưởng xuất phát từ cảnh có thực, thì đến câu
thư thứ tư hình ảnh thơ đã mang ý nghĩa tượng trưng, hình ảnh "lá trúc" và "chữ điền" là những ngôn từ mỹ
học, hai chữ "che ngang" cho thấy cảm giác: thôn Vĩ đối với nhà thơ giờ đây chỉ còn ở trong kỷ niệm, là nỗi
nhớ và mãi mãi phải xa cách nhau nên đã bị "cắt ngang". Câu thơ cuối cũng gợi chúng ta hiểu theo hai
cách: đó là bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn, ẩn hiện dưới lá trúc xanh lại càng
tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, e ấp của người con gái Huế; hay câu thơ cũng cho chúng ta xuất hiện suy nghĩ,
con người đó chính là nhà thơ, là mong ước của nhân vật chữ tình được trở về nhưng chỉ dám đứng bên
ngoài.
Khổ thơ thứ hai, tác giả đã chuyển khung cảnh và thời gian sang một khung cảnh trời mây, sông nước và
một đêm trăng:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Cảnh vật từ tươi mát, tràn trề sức sống đã khép lại, ở những câu thơ tiếp theo tác giả đã khắc họa nên một
cảnh vật nhuốm màu tâm trạng và dự cảm chia lìa đầy buồn đau. Gió và mây vốn dĩ phải đi liền với nhau,
gió thổi thì mây bay, nhưng ở đây tác giả đã dùng biện pháp đối lập để nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả của
mây và gió. Dòng sông ấy êm trôi lờ lững, và làm cho tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng
khuâng, man mác. Những bông hoa bắp lay nhè nhẹ đung đưa trong gió thoáng, vốn dĩ thật yên bình, dịu
êm nhưng trong bối cảnh này lại gợi lên sự chia lìa, cô đơn lẻ bóng giữa cuộc đời. Hai câu thơ tác giả đã
kết hợp nhuần nhuyễn giữa biện pháp đối lập và sử dụng các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn,
cùng với đó là thủ pháp nghệ thuật nhân hóa càng khẳng định hơn nỗi sầu đó giăng kín trong lòng người thi
sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật như Nguyễn Du từng nói "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Thi nhân đã
dùng cái tĩnh của dòng nước và cái động của hoa bắp để bộc lộ một cõi lòng, một tâm trạng cô đơn hắt hiu,
cô quạnh; nhưng tâm hồn và trái tim người thi sĩ ấy vẫn luôn khao khát được giao cảm với đời, không
ngừng tìm sự thấu hiểu, sự tri âm từ cuộc đời:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Hình ảnh "sông trăng" gợi lên một đêm khuya với ánh trăng tan mình giữa dòng nước và tạo thành một
dòng sông trăng huyền ảo. Tâm hồn của nhà thơ đã xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền, "thuyền
ai" hay thuyền của em vừa thân quen mà cũng thật xa lạ. Chất thơ đầy mộng ảo, gợi tả một hồn thơ đang
rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một nỗi nhớ, một tình yêu kín đáo, dịu
dàng, thơ mộng và thoáng buồn. Câu thơ cuối của khổ thơ là một câu hỏi tu từ, tác giả đã sử dụng một từ
ngữ đắt giá "kịp"- cho thấy được nỗi lo âu, phấp phỏng về sự xuất hiện của trăng đối với nhà thơ. Bởi lẽ,
trăng là một người bạn tri âm, tri kỷ của nhà thơ, ở trong hoàn cảnh bệnh tật và đầy cô đơn ấy chỉ có vầng
trăng là ở bên nhà thơ, vầng trăng làm bạn đồng hành với nhà thơ trong nhiều tác phẩm. Liệu trăng hôm
nay có về kịp trước khi nhà thơ phải tạm biệt cuộc đời, liệu nhà thơ còn được nhìn thấy trăng vào những
ngày tiếp theo nữa không. Do vậy, ta càng thấy rõ hơn khát khao giao cảm, khát khao được giao hòa với
cuộc đời của tác giả để thoát khỏi nỗi cô đơn. Vì vậy, trăng chính là cầu nối duy nhất, nơi bấu víu của nhà
thơ để giao cảm với đời, để rời khỏi sự đau đớn của căn bệnh phong trong chốc lát.
Và từ những sự dự cảm chia lìa, những câu thơ nhuốm màu tâm trạng của cảnh vật bài thơ đã chuyển
hướng sang lột tả nỗi mong chờ vô vọng của thi nhân:
"Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra."
Ngay đầu câu thơ tác giả đã nói đến "mơ" càng nhấn mạnh hơn giấc mộng và khao khát của nhân vật trữ
tình. Phải chăng nỗi mặc cảm của thi sĩ quá nhiều, nỗi cô đơn ấy quá lớn làm cho người thi sĩ chỉ dám mơ.
Điệp từ "khách đường xa" được nhắc lại hai lần, càng khẳng định rõ hơn khao khát được gặp gỡ được giao
cảm với đời của Hàn Mặc Tử, và ta lại cảm thấy thật buồn khi giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị
khách ấy đã xa lại càng xa hơn. Hình ảnh người con gái hiện lên với tà áo dài trắng, chính là vẻ đẹp mà
Hàn Mặc Tử tôn thờ, cụm từ "Nhìn không ra" cho thấy, đó không phải là sự bất lực của thị giác mà là do
không dám tin, dám nghĩ rằng mình có quyền tin. Tất cả những điều đó càng khẳng định thêm nỗi mặc cảm
của thi sĩ, làm cho chúng ta càng thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say
đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời lại phải sống trong cô đơn bệnh tật. Sự mờ ảo đó không dừng lại
ở nhìn không ra mà còn rõ nét hơn ở hai câu thơ cuối:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?".
"Ở đây" là nơi nào, một trạng từ chỉ nơi trốn nhưng thật lênh đênh vô định, phải chăng đó là không gian của
thi nhân là nơi chỉ có bóng tối, đau thương. Câu hỏi tu từ với sự xuất hiện của hai từ "ai", ai ở đây là nhân
vật trữ tình hay chính là "em" là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, rộng hơn là tình người,
tình đời trong cõi nhân gian. Điều đó cho thấy rõ hơn sự hoài nghi về tình đời, tình người của tác giả, và
Hàn Mặc Tử đã "không dám tin" tình giai nhân, tình người bởi sợ đau, sợ tin rồi lại không dứt ra được cuộc
sống ngoài kia mà ngay đến bản thân mình cũng không biết mình còn có cơ hội được quay trở lại thế giới
ấy nữa không. Hàn Mặc Tử tha thiết với cuộc đời, nhưng hồng nhan lại bạc mệnh ông bị căn bệnh phong
dày vò cho đến lúc mất vẫn luôn trong trạng thái vô thức giữa cõi thần và cõi tục, tạo nên những vần theo
trường thái điên loạn và đến hơi thở cuối cùng vẫn muốn chạm vào sự sống đích thực một lần nữa.
3.3. Kết bài
Bài thơ là một bức tranh phong cảnh xứ Huế tuyệt đẹp mà cũng thật buồn, thể hiện nỗi cô đơn cùng tình
yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và con người đặc biệt là ở nơi xứ Huế của Hàn Mặc Tử. Với sự tài năng của
mình, ông đã tài tình trong sự thể hiện với tứ thơ có sự vận động độc đáo, ngôn ngữ thơ sáng tạo, hình ảnh
thơ đặc sắc, lối viết dùng câu hỏi tu từ khiến cho câu thơ có chiều sâu, gợi nhiều cảm giác mênh mang suy
nghĩ trong tâm trí bạn đọc. Tóm lại, với những hình ảnh tượng trưng đầy ý nghĩa, sự tài tình trong cách thể
hiện, lỗi viết cách điệu hóa, xen lẫn ảo và thực "Đây thôn Vĩ Dạ" thực sự xứng đáng là một thi phẩm có
những ngôn từ đẹp nhất, trong sáng nhất của Hàn Mặc Tử. Và dù thời gian có trôi qua, thì những vẻ đẹp
trong thơ của ông luôn tồn tại như Chế Lan Viên từng nói "Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ
biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử"
| 1/5

Preview text:

Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất
1. Đôi nét về tác giả và tác phẩm
1.1. Tác giả Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Và Hàn Mặc Tử, cùng
với các tên Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh của ông. Cuộc đời ông có duyên với 4 chữ Bình: Sinh tại
Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được biết đến với
nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau và những người phụ nữ ấy đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông.
Sự nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử bắt đầu từ năm 16 tuổi, với bút danh là Phong Trần và Lệ Thanh. Đến
năm 1936, ông đổi bút danh thành Hàn Mặc Tử, bút danh ấy có nghĩa là "chàng trai đứng sau bức rèm
trống trải, lạnh lẽo", sau đó bạn bè gợi ý ông thêm mặt trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô
đơn của con người trước thiên nhiên vạn vật. Mặt trăng khuyết ấy đã được đặt vào chữ "Mạc" tạo ra chữ
"Mặc" và Hàn Mặc Tử có nghĩa là "chàng trai bút nghiên".
Phong cách thơ của ông là một hồn thơ mãnh liệt nhưng lại luôn quằn quại trong đau đớn, như một cuộc vật
lộn giằng xé giữa linh hồn và thể thác. Ông muốn thoát xác để linh hồn mình được bay lên bầu trời, nơi mà
không còn nỗi đau về thể xác, nhưng ông cũng muốn ở lại bên cạnh người mình yêu, muốn được sống
trong một tình yêu bằng thân xác này. Vì vậy, thế giới thơ của ông thường được chia thành hai phần đối
nghịch nhau: ông sử dụng hai hình tượng hồn và trăng để viết ra những vần thơ điên loạn và ma quái; và
những bài thơ của ông cũng có nét trong sáng, hồn nhiên với những hình ảnh trong trẻo đẹp đẽ lạ thường
1.2. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ"
Tác phẩm ban đầu có tên là "Ở đây thôn Vĩ Dạ" và được sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ Điên sau đó
đổi tên thành Đau thương, đây là một kiệt tác thơ xuất sắc của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Bài thơ được viết nên từ những cảm xúc ngổn ngang chất chứa trong lòng nhà thơ, và từ mối tình đơn
phương dành cho cô Hoàng Thị Kim Cúc. Cô là nàng thơ xứ Huế mà ông luôn đau đáu hướng về và cũng là
mạch nguồn cảm hứng cho những sáng tác của ông. Và bài thơ đã được viết sau khi Hàn Mặc Tử nhận
được tấm bưu ảnh của cô, bao kỷ niệm đẹp đẽ hiện về, tạo cảm hứng dạt dào cho ông sáng tác nên bài thơ này.
2. Dàn ý làm bài Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ 2.1. Mở bài
Giới thiệu tác giả và tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" 2.2. Thân bài
a. Khổ 1: Cảnh vườn và con người nơi thôn Vĩ
- Câu mở đầu: lời mời mọc thân thiết mà như trách cứ.
- Cảnh vật: tinh khôi, tinh khiết tràn trề sức sống (nắng, vườn).
- Sự xuất hiện của con người được hiểu theo hai cách.
- Nghệ thuật: cách điệu hóa, cái hay trong việc sử dụng ngôn từ của tác giả.
b. Khổ 2: Đêm trăng thôn Vĩ
- Sự miêu tả gợi lên sự chia lìa của cảnh vật: gió, mây.
- Dòng nước, hoa bắp lay gợi một cảnh đẹp nhưng giăng mắc một nỗi buồn vô hình, man mác.
- Không gian cảnh vật tràn ngập ánh trăng, gợi ra nét huyền bí của vũ trụ.
- Câu hỏi tu từ, và từ đắt giá "kịp", cho thấy sự lo âu, phấp phỏng về sự xuất hiện của trăng, và nỗi cô đơn
của tác giả chỉ có thể làm bạn với trăng, đó cũng là khao khát được giao hòa với cuộc đời.
c. Khổ 3: Mộng ảo bao trùm lên cả cảnh và người
- Vạn vật dù là thiên nhiên hay con người thì dường như đều bị chìm vào cõi mộng khi tác giả sử dụng hàng
loạt các từ: "mơ", "nhìn không ra", "mờ nhân ảnh", điệp từ "khách đường xa".
- Những từ ngữ gợi ra sự cô đơn với trạng thái hoài nghi về cuộc đời, về tình người của tác giả như: "ở đây", "ai"
- Những điều này thể hiện sự tha thiết giao cảm với cuộc đời, nỗi đau đớn khi bị bệnh tật dày vò và một tâm
trí luôn trong trạng thái hư vô giữa cõi thần và tục. 2.3. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật bài thơ.
- Khẳng định giá trị tác phẩm và tài năng nghệ thuật của tác giả.
3. Bài tham khảo Nghị luận Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất 3.1. Mở bài
Hàn Mặc Tử là một cây bút lớn trong nền văn học Việt Nam đặc biệt là ở lĩnh vực thơ ca, thơ của ông được
phóng xuất từ những trải nghiệm đau thương bằng cả tâm hồn và cả thể xác, bằng cả điện lẫn tỉnh, bằng cả
mơ hồ lẫn thực tại. Và càng về cuối đời, thơ của ông càng thanh thoát, an nhiên, giọng thơ của ông không
còn đau đớn và gào thét trong tâm can nữa. Biểu tượng "trăng" "hồn" "máu" đã trở thành biểu tượng nghệ
thuật bất biến, thường trực và xuyên suốt trong thơ của ông. Một trong những tác phẩm nổi bật, thể hiện rõ
phong cách sáng tác của tác giả đó là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". 3.2. Thân bài
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tài hoa nhất của phong trào Thơ mới nước ta, ông để lại cho nền
thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, và mang
tâm hồn của một thi sĩ cô đơn, luôn khát khao giao cảm với đời. Tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" được rút trong
tập Thơ điên xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một
khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình có nhiều duyên nợ với cảnh và con người nơi thôn Vĩ Dạ.
Bài thơ mở đầu với một câu hỏi đan xen nhiều sắc thái tình cảm vừa như lời mời mọc, như lời hỏi han, mà
cũng như lời trách móc, hờn giận:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Nếu suy ngẫm kỹ hơn, có lẽ đây là lời tự trách bản thân của Hàn Mặc Tử khi bản thân đang rơi vào nỗi tuyệt
vọng. Đó là khao khát được về thăm thôn Vĩ của ông nhiều mãnh liệt nhưng cũng đau xót khi mặc cảm về
cảnh ngộ của mình. Câu hỏi tu từ ấy đã làm bao kỷ niệm sống dậy trong một hồn thơ, nó gắn liền với những
cảnh sắc đầy mộng mơ của con người xứ Huế:
"Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Cảnh vật nơi thôn Vĩ được nhắc đến là một sáng bình minh tuyệt đẹp. Hình ảnh của nắng ở hàng cau và
"nắng mới lên" cho ta thấy được đó là những tia nắng đầu tiên trong ngày, hàng cau là loài cây đón nhận
những tia nắng đầu tiên vì nó cao nhất và có những tàu lá dài mượt mà. Những hình ảnh đó hòa quyện vào
nhau tạo nên một bức tranh, một vẻ đẹp trong trẻo của bình minh nơi xứ Huế. Tiếp đó, tính từ "mướt quá"
gợi lên vẻ đẹp non tơ, mềm mại, mỡ màng tràn trề nhựa sống của cây lá, cách so sánh "xanh như ngọc" đã
gợi tả lên một khu vườn tỏa ra ánh sáng xanh mát rười rượi, lung linh, diệu kì. Đó cũng có thể là màu xanh
của cảnh vật trong vườn đang độ lớn, hay cũng có thể là màu xanh của cây cối in hình lên những giọt
sương ban mai trong sáng sớm. Nếu hai câu thơ đầu là sự hồi tưởng xuất phát từ cảnh có thực, thì đến câu
thư thứ tư hình ảnh thơ đã mang ý nghĩa tượng trưng, hình ảnh "lá trúc" và "chữ điền" là những ngôn từ mỹ
học, hai chữ "che ngang" cho thấy cảm giác: thôn Vĩ đối với nhà thơ giờ đây chỉ còn ở trong kỷ niệm, là nỗi
nhớ và mãi mãi phải xa cách nhau nên đã bị "cắt ngang". Câu thơ cuối cũng gợi chúng ta hiểu theo hai
cách: đó là bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn, ẩn hiện dưới lá trúc xanh lại càng
tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, e ấp của người con gái Huế; hay câu thơ cũng cho chúng ta xuất hiện suy nghĩ,
con người đó chính là nhà thơ, là mong ước của nhân vật chữ tình được trở về nhưng chỉ dám đứng bên ngoài.
Khổ thơ thứ hai, tác giả đã chuyển khung cảnh và thời gian sang một khung cảnh trời mây, sông nước và một đêm trăng:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Cảnh vật từ tươi mát, tràn trề sức sống đã khép lại, ở những câu thơ tiếp theo tác giả đã khắc họa nên một
cảnh vật nhuốm màu tâm trạng và dự cảm chia lìa đầy buồn đau. Gió và mây vốn dĩ phải đi liền với nhau,
gió thổi thì mây bay, nhưng ở đây tác giả đã dùng biện pháp đối lập để nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả của
mây và gió. Dòng sông ấy êm trôi lờ lững, và làm cho tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng
khuâng, man mác. Những bông hoa bắp lay nhè nhẹ đung đưa trong gió thoáng, vốn dĩ thật yên bình, dịu
êm nhưng trong bối cảnh này lại gợi lên sự chia lìa, cô đơn lẻ bóng giữa cuộc đời. Hai câu thơ tác giả đã
kết hợp nhuần nhuyễn giữa biện pháp đối lập và sử dụng các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn,
cùng với đó là thủ pháp nghệ thuật nhân hóa càng khẳng định hơn nỗi sầu đó giăng kín trong lòng người thi
sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật như Nguyễn Du từng nói "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Thi nhân đã
dùng cái tĩnh của dòng nước và cái động của hoa bắp để bộc lộ một cõi lòng, một tâm trạng cô đơn hắt hiu,
cô quạnh; nhưng tâm hồn và trái tim người thi sĩ ấy vẫn luôn khao khát được giao cảm với đời, không
ngừng tìm sự thấu hiểu, sự tri âm từ cuộc đời:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Hình ảnh "sông trăng" gợi lên một đêm khuya với ánh trăng tan mình giữa dòng nước và tạo thành một
dòng sông trăng huyền ảo. Tâm hồn của nhà thơ đã xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền, "thuyền
ai" hay thuyền của em vừa thân quen mà cũng thật xa lạ. Chất thơ đầy mộng ảo, gợi tả một hồn thơ đang
rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một nỗi nhớ, một tình yêu kín đáo, dịu
dàng, thơ mộng và thoáng buồn. Câu thơ cuối của khổ thơ là một câu hỏi tu từ, tác giả đã sử dụng một từ
ngữ đắt giá "kịp"- cho thấy được nỗi lo âu, phấp phỏng về sự xuất hiện của trăng đối với nhà thơ. Bởi lẽ,
trăng là một người bạn tri âm, tri kỷ của nhà thơ, ở trong hoàn cảnh bệnh tật và đầy cô đơn ấy chỉ có vầng
trăng là ở bên nhà thơ, vầng trăng làm bạn đồng hành với nhà thơ trong nhiều tác phẩm. Liệu trăng hôm
nay có về kịp trước khi nhà thơ phải tạm biệt cuộc đời, liệu nhà thơ còn được nhìn thấy trăng vào những
ngày tiếp theo nữa không. Do vậy, ta càng thấy rõ hơn khát khao giao cảm, khát khao được giao hòa với
cuộc đời của tác giả để thoát khỏi nỗi cô đơn. Vì vậy, trăng chính là cầu nối duy nhất, nơi bấu víu của nhà
thơ để giao cảm với đời, để rời khỏi sự đau đớn của căn bệnh phong trong chốc lát.
Và từ những sự dự cảm chia lìa, những câu thơ nhuốm màu tâm trạng của cảnh vật bài thơ đã chuyển
hướng sang lột tả nỗi mong chờ vô vọng của thi nhân:
"Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra."
Ngay đầu câu thơ tác giả đã nói đến "mơ" càng nhấn mạnh hơn giấc mộng và khao khát của nhân vật trữ
tình. Phải chăng nỗi mặc cảm của thi sĩ quá nhiều, nỗi cô đơn ấy quá lớn làm cho người thi sĩ chỉ dám mơ.
Điệp từ "khách đường xa" được nhắc lại hai lần, càng khẳng định rõ hơn khao khát được gặp gỡ được giao
cảm với đời của Hàn Mặc Tử, và ta lại cảm thấy thật buồn khi giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị
khách ấy đã xa lại càng xa hơn. Hình ảnh người con gái hiện lên với tà áo dài trắng, chính là vẻ đẹp mà
Hàn Mặc Tử tôn thờ, cụm từ "Nhìn không ra" cho thấy, đó không phải là sự bất lực của thị giác mà là do
không dám tin, dám nghĩ rằng mình có quyền tin. Tất cả những điều đó càng khẳng định thêm nỗi mặc cảm
của thi sĩ, làm cho chúng ta càng thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say
đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời lại phải sống trong cô đơn bệnh tật. Sự mờ ảo đó không dừng lại
ở nhìn không ra mà còn rõ nét hơn ở hai câu thơ cuối:
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?".
"Ở đây" là nơi nào, một trạng từ chỉ nơi trốn nhưng thật lênh đênh vô định, phải chăng đó là không gian của
thi nhân là nơi chỉ có bóng tối, đau thương. Câu hỏi tu từ với sự xuất hiện của hai từ "ai", ai ở đây là nhân
vật trữ tình hay chính là "em" là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, rộng hơn là tình người,
tình đời trong cõi nhân gian. Điều đó cho thấy rõ hơn sự hoài nghi về tình đời, tình người của tác giả, và
Hàn Mặc Tử đã "không dám tin" tình giai nhân, tình người bởi sợ đau, sợ tin rồi lại không dứt ra được cuộc
sống ngoài kia mà ngay đến bản thân mình cũng không biết mình còn có cơ hội được quay trở lại thế giới
ấy nữa không. Hàn Mặc Tử tha thiết với cuộc đời, nhưng hồng nhan lại bạc mệnh ông bị căn bệnh phong
dày vò cho đến lúc mất vẫn luôn trong trạng thái vô thức giữa cõi thần và cõi tục, tạo nên những vần theo
trường thái điên loạn và đến hơi thở cuối cùng vẫn muốn chạm vào sự sống đích thực một lần nữa. 3.3. Kết bài
Bài thơ là một bức tranh phong cảnh xứ Huế tuyệt đẹp mà cũng thật buồn, thể hiện nỗi cô đơn cùng tình
yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và con người đặc biệt là ở nơi xứ Huế của Hàn Mặc Tử. Với sự tài năng của
mình, ông đã tài tình trong sự thể hiện với tứ thơ có sự vận động độc đáo, ngôn ngữ thơ sáng tạo, hình ảnh
thơ đặc sắc, lối viết dùng câu hỏi tu từ khiến cho câu thơ có chiều sâu, gợi nhiều cảm giác mênh mang suy
nghĩ trong tâm trí bạn đọc. Tóm lại, với những hình ảnh tượng trưng đầy ý nghĩa, sự tài tình trong cách thể
hiện, lỗi viết cách điệu hóa, xen lẫn ảo và thực "Đây thôn Vĩ Dạ" thực sự xứng đáng là một thi phẩm có
những ngôn từ đẹp nhất, trong sáng nhất của Hàn Mặc Tử. Và dù thời gian có trôi qua, thì những vẻ đẹp
trong thơ của ông luôn tồn tại như Chế Lan Viên từng nói "Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ
biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử"