-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt lớp 9 | Văn mẫu lớp 9
Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” - cái đói dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc của hình ảnh người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… gợi nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt lớp 9
Dàn ý Nghị luận về bài thơ Bếp lửa A. Mở bài ADVERTISEMENT - Giới thiệu tác giả:
• Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ - Giới thiệu tác phẩm:
• Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài.
• Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. B. Thân bài
1. Những kỷ niệm tuổi thơ và tình bà cháu
a) Dòng hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp: Bếp lửa
- Bếp lửa “chờn vờn sương sớm”: Gợi tả một hình ảnh bếp lửa có thật được cảm nhận bằng
thị giác ẩn hiện trong sương sớm “chờn vờn”.
- Bếp lửa “ấp iu”: Gợi bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.
→ Điệp ngữ “một bếp lửa” + từ láy “chờn vờn, ấp iu” gợi lên hình ảnh sống động, lung linh
của bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam.
- “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”:
• Trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt, thương người
bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”
• Chữ “thương” đi với “bà” là 2 thanh bằng đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài
xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.
b) Từ đó, bài thơ gợi lại những kỷ niệm tuổi ấu thơ bên người bà:
- Tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
“Đói mòn đói mỏi”
“Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
→ Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” - cái đói dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc của
hình ảnh người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… gợi nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng
khiếp năm 1945 trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền.
- Tuổi thơ ấy còn có cái gian khổ chung của nhiều gia đình Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp:
• “Mẹ cùng cha công tác bận không về…”
• “Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi
• "Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi".
→ Bố mẹ đi công tác xa, cháu ở với bà. Tình cảnh hai bà cháu thật vắng vẻ…
- Khi nhớ về kỷ niệm, dòng hồi tưởng còn gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú. → Âm
thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa xứ.
- Tuổi thơ cháu luôn được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà:
• Bên bếp lửa, “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế” chuyện đời nay, đời xưa…
• Rồi “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”, “Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
→ Các từ ngữ như: bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả mọi cách sâu sắc, thấm thía tấm lòng
đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu.
• “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh”
→ Vẫn chỉ có hai bà cháu sớm hôm và bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, mọi thử thách
khốc liệt của chiến tranh, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !"
→ Giúp ta hình dung rõ ràng giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà đồng thời làm
sáng lên phẩm chất của người mẹ Việt Nam.
- Ở đây hình ảnh bếp lửa ân cần, ấm cúng và nhẫn nại của bà hoàn toàn tương phản với
ngọn lửa thù địch đối với sự sống:
"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi".
→ Bên cạnh ngọn lửa thiêu rụi sự sống của kẻ thù vẫn còn một ngọn lửa nhen lên một sự sống khác.
2. Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa:
a) Suy ngẫm về cuộc đời bà
- Từ những kỷ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy nghĩ vè cuộc đời bà. Hình
ảnh của bà luôn gắn với bếp lửa:
“Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng …”
• Hình ảnh bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa cụ thể hơn mang ý nghĩa ẩn
dụ, tượng trưng cho ánh sáng, hơi ấm và sự sống.
• Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu.
- Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
→ Điệp từ "nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau.
• Từ "nhóm" đầu tiên : "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm" nhóm là động từ thể hiện một
hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có
thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt
để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam
• Từ "nhóm" trong những câu thơ sau : "Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi –
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui – Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ" thì từ
nhóm lại mang ý nghĩa ẩn dụ.
→ Bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời
mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu
thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là
tình yêu quê hương đất nước. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những ký
ức, kỷ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội
nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy hình ảnh bếp lửa đơn
sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn
chứa niềm tin và sức sống của con người.
b) Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa : Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng:
"Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!"
Câu thơ cảm thán + cấu trúc đảo → Thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá
ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị.
3. Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa
- Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu đi xa khi đã trưởng thành: Khoảng cách về
không gian, thời gian và khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả:
• không thể làm cháu lãng quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương
• không quên được những lận đận đời bà, tấm lòng ấm áp của bà, những tận tuỵ hy
sinh vì tình nghĩa của bà…
→ Đó là đạo lý thuỷ chung cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm
hồn con người từ thuở ấu thơ.
- Bài thơ được kết thúc bằng câu hỏi tu từ:
“Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
→ Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực,
một nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, luôn nhớ về bà. C. Kết bài 1. Nội dung:
• Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại
những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu
• Đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng
là đối với gia đình quê hương đất nước. 2. Nghệ thuật:
• Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận.
• Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh
người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa Ngắn gọn
Nhà thơ Phạm Khải đã từng nói rằng: “Vào những năm đầu thập kỷ 60, Bằng Việt xuất hiện
giữa làng thơ Việt Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi
xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh”. Những nhận xét đó đã nói rất đúng về cây bút Bằng
Việt. Và trong những đóng góp của ông trong làng thơ Việt Nam, có lẽ “Bếp lửa” chính là ánh đèn chói sáng nhất.
“Bếp lửa” là một sáng tác thơ được viết theo thể tám chữ quen thuộc. Xuyên suốt bài thơ là
cảm hứng ngợi ca về hình ảnh bếp lửa thiêng liêng, ấm áp được nhóm lên từ đôi bàn tay, từ
tấm lòng ấm áp, cao cả của người bà. Hình ảnh “bếp lửa” cùng hình ảnh “người bà” đã song
hành và liên hệ chặt chẽ với nhau trong bài thơ. “Bếp lửa” là tín hiệu giúp đánh thức, khơi
dậy, thắp lên những tình cảm, kí ức về người bà và những kỉ niệm tuổi thơ quý giá bên người
bà ấy của nhân vật trữ tình. Ở hai khổ thơ đầu, bếp lửa tượng trưng cho sự chịu thương,
chịu khó, tảo tần sớm hôm, hi sinh vất vả vì gia đình một cách thầm lặng của người bà.
Bước sang khổ thơ thứ ba, bếp lửa lại tượng trưng cho những vất vả của cuộc sống, cho tình
yêu thương, lắng lo, trăn trở của bà dành cho con cháu. Đến khổ thơ cuối, bếp lửa trở thành
hình ảnh tượng trưng cho ước mơ, hi vọng về tương lai tươi sáng phía trước của người cháu -
tức nhân vật trữ tình. Có thể nói, ngọn lửa của căn bếp ấy chính là hiện thân mang tính biểu
tượng cho tình cảm, hình ảnh, sự hi sinh và tình cảm của người bà dành cho con cháu. Bà
đem đến tình yêu thương, sự đùm bọc, sẻ chia, sự hi sinh và cả hi vọng về tương lai cho con
cháu của mình. Chính bởi vì thế, mà dù đã trưởng thành, đi đến những chân trời xa lạ, trong
trái tim của nhân vật trữ tình vẫn luôn thổn thức, hoài niệm, nhớ nhung về người bà, về bếp
lửa của bà. Những tình cảm ấy được khắc họa chân thực, gần gũi và sâu sắc qua hình ảnh
bếp lửa xuyên suốt trong toàn bài thơ.
Với những mạch cảm xúc tinh tế, hình ảnh thơ lóng lánh, chứa chan tình yêu thương da
diết, sâu đậm. Bằng Việt đã đem đến cho người đọc một áng thơ “Bếp lửa” giàu sức gợi, sức
chạm đến trái tim người đọc. Giúp nhen lên những yêu thương trong mỗi người về người bà của mình trong kí ức.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - Mẫu 1
Tình cảm bà cháu không còn là một đề tài xa lạ trong thơ ca hiện đại. Ta từng bắt gặp hình
ảnh người bà chắt chiu trong thơ Xuân Quỳnh. Đến với “Bếp lửa” của Bằng Việt, ta lại một
lần nữa cảm động bằng tình cảm bà cháu thiêng liêng được thể hiện qua hình ảnh chiếc bếp lửa thân thuộc.
Nhà thơ Bằng Việt thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
Thơ Bằng Việt luôn mang tinh tế, trong trẻo. “Bếp lửa” là tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ
được sáng tác năm 1963 - khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô.
Mở đầu bài thơ, dòng cảm xúc của người cháu hướng về bà được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba tiếng “một bếp lửa” lặp lại hai lần, được đặt ở đầu hai dòng thơ mang đến âm hưởng
ngân vang, sâu lắng và nhấn mạnh rằng hình ảnh bếp lửa có ý nghĩa đặc biệt, luôn khắc sâu
trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Những từ “chờn vờn”, “ấp iu” khơi gợi rất nhiều cảm xúc.
“chờn vờn” diễn tả một ngọn lửa cháy lúc to, lúc nhỏ nhưng vẫn tỏa sáng mạnh mẽ. Từ láy
“ấp iu” là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ, dường như được biến thể từ hai từ “ấp ủ” và
“nâng niu”. Cách dùng từ “ấp iu” thật thân thương biết mấy! Nó gợi ra hình ảnh người bà tần
tảo, bàn tay gom góp chắt chiu biết bao yêu thương dành cho cháu. Câu thơ cuối là sự thể
hiện tình cảm một cách trực tiếp, chân thành, tự nhiên của người cháu: “Cháu thương bà
biết mấy nắng mưa”. Người cháu thương bà, nhớ về bà, tìm thấy bà trong ngọn lửa sớm mai
kỉ niệm thân thuộc ấy.
Kỉ niệm tuổi thơ dần hiện về trong tâm trí nhân vật trữ tình. Đầu tiên là kí ức về năm bốn tuổi
đầy gian khó, nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Người cháu đã “quen mùi khói” từ khi còn là một đứa trẻ. Cụm từ “đói mòn đói mỏi” gợi ra
hiện thực lịch sử đau thương về nạn đói năm 1945. Biết bao người dân cũng bị bóc lột bởi
ách đô hộ của phát xít, thực dân. Hình ảnh người bố phải bươn chải, làm nghề đánh xe đến
“khô rạc ngựa gầy” đã cho thấy sống khốn khổ, tiều tụy, bị vắt kiệt sức lao động của nhân
dân Việt Nam. Trong những năm tháng đó, bà cháu vẫn cùng nhau nhóm lửa. Làn khói “hun
nhèm mắt cháu” mang theo sự ám ảnh về thời kì đen tối đã đi qua. Nỗi xúc động của người
cháu cùng cảm giác cay mắt vì khói bếp của người cháu đồng hiện trong câu thơ “Nghĩ lại
đến giờ sống mũi còn cay”.
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Khoảng thời gian tám năm dẫu gian khổ nhưng rất hồn nhiên, hạnh phúc bởi cháu nhận
được sự chở che, săn sóc của bà. Tiếng tu hú kêu văng vẳng trên những cánh đồng sao mà
thân thương, tha thiết thế! Tiếng tu hú kêu khắc khoải trở thành điệp khúc cho cả đoạn thơ.
Âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi khi hè về đã gợi nhớ, gợi thương cho người chiến sĩ.
Câu thơ “Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?” như một tiếng nói bộc phát, một lời tâm sự
với bà từ tận đáy lòng của nhân vật trữ tình. Đây là câu hỏi nhưng lại bộc lộ cảm xúc nhớ
nhung, trìu mến. Người cháu nhớ về những ngày tháng chiến gian lao mà kiên cường của
dân tộc, mẹ và cha “công tác bận không về” nên bà vừa là cha, vừa là mẹ chăm sóc cháu.
Các động từ “kể”, “bảo”, “dạy”, “chăm” cho thấy sự nâng niu, quan tâm hết mực mà bà
dành cho cháu. Các từ “bà” - “cháu” được điệp lại bốn lần để diễn tả tình cảm gắn bó, đùm
bọc, đầy thương mến của bà và cháu. Câu thơ “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” đã
bộc lộ trực tiếp sự kính trọng, niềm biết ơn, lòng yêu thương của cháu dành cho bà. Người
cháu biết cảm thông, thấu hiểu cho nỗi vất vả của bà nên đã cất tiếng gọi tu hú:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Hình ảnh tu hú lại xuất hiện ở cuối khổ thơ cùng câu hỏi tu từ là một sáng tạo nghệ thuật rất
tài tình của Bằng Việt. Chim tu hú dường như cũng côi cút, cô đơn, khát khao được sưởi ấm
như đứa trẻ. Tác giả chạnh lòng mà thương tu hú bé nhỏ và cũng thương cả bà khi đã lớn
tuổi mà vẫn phải vất vả nên đã gọi chú chim sao “Chẳng đến ở cùng bà”.
Sau nỗi nhớ về tuổi thơ dù khó khăn nhưng trong sáng, vô tư bên bà thì trong tâm trí của
người cháu lại hiện nên một kí ức cụ thể về sự đau thương, mất mát mà chiến tranh mang lại:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Cụm từ “cháy tàn cháy rụi” cùng từ láy “lầm lụi” diễn tả tội ác khôn cùng của giặc và nỗi
thống khổ của nhân dân ta trong những năm tháng chiến tranh. Giặc cướp phá, đốt làng,
khiến bà con xóm làng không còn nơi nương tựa. Trong đó, cả bà và cháu cũng là nạn nhân
của bom đạn chiến tranh, đến ngôi nhà nhỏ để che nắng che mưa cũng bị lửa đốt. Ngọn lửa
của giặc là ngọn lửa của tội ác, không những không thắp lên hi vọng mà còn hủy diệt sự
sống con người. Tuy nhiên, đối diện với hoàn cảnh gian nan ấy, người bà lại tỏa sáng hơn
bao giờ hết với phẩm chất cao đẹp:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nhà thơ đã lựa chọn các từ ngữ đời thường làm chất liệu sáng tác, đem đến cho bài thơ
chất hiện thực đậm đặc. Bà tần tảo, dịu dàng, giàu tình yêu thương nhưng cũng rất mạnh
mẽ, kiên cường, bất khuất. Vì không muốn các con lo lắng mà mà âm thầm chịu đựng, gồng
mình gánh vác việc gia đình. Sức mạnh tinh thần ấy của bà đã khiến người cháu vô cùng
cảm phục nên bà cháu cùng nhau dựng lại túp lều tranh, lại nhen nhóm những bếp lửa mới
với niềm hy vọng mới. Hình ảnh người bà là đại diện cho vẻ đẹp phẩm chất của người phụ
nữ Việt Nam với tám chữ vàng “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang”.
Khổ thơ tiếp theo chỉ có ba câu thơ ngắn nhưng đã tô đậm nét đẹp tâm hồn của bà:
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Cụm từ “Rồi sớm rồi chiều” cùng từ “lại” diễn tả vòng thời gian tuần hoàn, cho thấy sự
chăm chỉ, không ngơi nghỉ của bà. Ở đây, tác giả đã sử dụng những liên tưởng độc đáo.
Ngọn lửa bà nhen không chỉ là ngọn lửa cháy trong chiếc bếp lửa tả thực mà còn là ngọn
lửa của niềm tin và sự sống, của tình yêu thương gia đình và đất nước vô bờ bến. Bà không
chỉ nhóm lửa, giữ lửa mà còn truyền lửa sống của mình cho mình cho cả cháu. Điệp ngữ
“Một ngọn lửa” được đặt ở đầu dòng và lặp lại hai lần trong hai câu thơ đã khẳng định sức
sống bất diệt của ngọn lửa bà nhen cũng như sự cảm phục, tình yêu bao la mà cháu dành cho bà.
Khổ thơ thứ sau là những suy ngẫm rất sâu sắc của người cháu về bà và cuộc đời bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Từ láy “lận đận” kết hợp cùng các cụm từ chỉ thời gian “mấy chục năm”, “bây giờ” và hình
ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả chân thực mà xúc động về cuộc đời vất vả của bà. Suốt
mấy chục năm ròng, không lúc nào bàn tay bà ngơi làm lụng bởi cái khó nhọc luôn theo bà.
Chính vì vậy mà bà luôn “giữ thói quen dậy sớm” để nhóm lửa, thắp lên tương lai cho cháu.
Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần, thể hiện tính chất liên tục của công việc nhóm lửa.
Trong đó, “Nhóm bếp lửa”, “Nhóm nồi xôi gạo” là những hình ảnh tả thực còn “Nhóm niềm
yêu thương”, “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” lại mang ý nghĩa ẩn dụ về những giá trị
mà bà và bếp lửa mang lại. Tác giả tìm thấy trong bếp lửa bà nhen sự ngọt bùi ấm no của
hương khoai sắn, tình làng nghĩa xóm mặn nồng của nồi xôi gạo “chung vui” và biết bao ước
mơ, hi vọng tong trẻo của tuổi nhỏ. Chỉ một bếp lửa, giản dị đơn sơ nhưng cũng thật “kỳ lạ và thiêng liêng”!
Cuối cùng, tất cả những cảm xúc của tác giả được lắng đọng lại trong khổ thơ cuối:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
Điệp từ “trăm”, “có” kết hợp cùng thủ pháp liệt kê nhằm diễn tả sự thay đổi, tìm thấy những
niềm vui mới của người cháu. Thế nhưng, giữa thế giới bộn bề rộng lớn, cháu vẫn không bao
giờ quên đi hình ảnh bà gắn với bếp lửa, những kỉ niệm thời sống bên bà, từng bài học mà
bà dạy dỗ,.. Chính bàn tay gầy guộc của bà, bếp lửa nhỏ bé ngày nào đã chắp cánh cho
cháu vươn đến ước mơ. Không chỉ vậy, bà còn chính là động lực để cháu phấn đấu học tập
và cống hiến. Khổ thơ cho thấy niềm biết ơn vô hạn của cháu dành cho bà, nêu cao đạo lí
ân nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Để khắc họa thành công những kỉ niệm thơ ấu cùng nỗi nhớ về bà, tác giả đã sử dụng thể
thơ tự do kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, ẩn dụ, nhân hóa, liệt kê và câu
hỏi tu từ. Bài thơ còn kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm, tự sự, miêu tả cùng cách sáng
tạo hình ảnh bếp lửa vô cùng độc đáo.
Những lời thơ ấm áp, đầy tin yêu của Bằng Việt đã thắp lên trong lòng người đọc những cảm
xúc tinh tế, chân thật về gia đình và Tổ quốc. Tác phẩm xứng đáng là “tiếng lòng của một
người con, một nhà thơ luôn hướng về đất nước với những con người Việt Nam thuần hậu, anh hùng, tình nghĩa”.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì
khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân
thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thật ấy được tác giả làm sống dậy
trong bài thơ "Bếp lửa". Bài thơ được viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nước.
Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong quá khứ
để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn
cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngôn từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ quá
khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng
mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm
nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lửa trong bài thơ: Lửa của kỷ niệm
tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.
Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa
thật ấm áp của quê hương. Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, bếp lửa của một thời
thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh "chờn vờn
sương sớm" thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình khi to khi nhỏ, khi lên khi
xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng
những gì đã qua, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy "ấp iu" bao gồm hàm ý bé
nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợi lên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm
chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ "một bếp lửa" được lặp lại ở đầu những câu thơ có tác
dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên
suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà
thân yêu của mình. "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có
lẽ là chữ "thương" và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi "biết
mấy nắng mưa". Hai chữ "nắng mưa" không chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà
còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ. "Lên bốn tuổi.… ...còn cay!"
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thường sâu đậm hơn
nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm "đói
mòn đói mỏi", "bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy". Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải
sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất vả gián tiếp tác giả bộc lộ thời
thơ ấu của mình. "Mùi khói" rồi lại "khói hun nhèm", có thể nói nhà thơ đã chọn được mỗi
chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình
cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh "khói hun nhèm mắt" cũng gợi cho
ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tỏa ra từ 1 bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ "nghĩ lại
.... cay" tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ
nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ
mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói ... mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện
thực, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi
thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh. "Tám năm ròng.…
...trên những cánh đồng xa."
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong 1 câu chuyện cổ tích, có
thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu trong hồi ức, lúc tác giả lên
bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là "mùi khói", thì đến đây, xuất hiện 1 ấn
tượng khác là "tiếng tu hú". Lúc mơ hồ, vắng lặng "trên những cánh đồng xa"., lúc gần gũi,
nghẹn ngào "sao mà tha thiết thế", tiếng tu hú như than thở, sẻ chia những nỗi nhớ xa cách,
trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, Bằng Việt quả
là có 1 tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.
Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ "bà" được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc "bà-cháu"
sóng đôi gợi sắc điệu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách
móc loài chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà không đến san sẻ với bà. Cách
nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ
thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm
thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thương yêu, xót xa của nhà
thơ trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.