



Preview text:
Nghi thức làm phép chuẩn khác đạo, phép chuẩn hôn phối khác đạo?
1. Hiểu thế nào về nghi thức làm phép chuẩn khác đạo?
Giáo hội Công giáo xác định hôn nhân là một "bí tích" và vì vậy nó có tính chất thánh thiêng,
việc cử hành "bí tích hôn nhân" một cách chính thức trước mặt cộng đoàn giáo dân do một linh
mục cử hành khiến nó trở nên một giao ước vĩnh cửu giữa người nam và người nữ. Người Công
giáo tin rằng khi được lãnh nhận bí tích hôn nhân cách chính thức, đôi nam nữ sẽ được chúc
phúc yêu thương, chung thủy với nhau suốt cả cuộc đời, trong một giao ước do chính Chúa Giêsu đã lập.
“Phép chuẩn” là phép của giáo quyền chuẩn trước để được thành hôn với nhau, giữa một người
đã chịu phép Rửa Tội và một người chưa được rửa tội.
“Phép giao” là phép làm cho nghi thức hôn phối giữa một người đã chịu phép Rửa Tội và một
người chưa được rửa tội thành bí tích. Để được chuẩn chước phải có lý do chính đáng và hội đủ những điều kiện sau:
Thứ nhất là phía Công Giáo phải tuyên bố sẵn sàng loại bỏ tất cả những gì có nguy hại cho đức
tin và họ phải thực sự cam đoan sẽ cố gắng hết sức để con cái sinh ra được rửa tội và giáo dục
trong Giáo Hội công giáo (Giáo luật 1125 trang thứ 1).
Thứ hai là phía không Công Giáo cũng được thông báo kịp thời về những lời cam đoan ấy, để họ
có ý thức về nghĩa vụ của người bạn đường công giáo của mình (Giáo luật 1125 trang thứ 2).
Điều kiện thứ ba là cả hai bên, Công Giáo cũng như không Công Giáo, cần phải được giáo huấn
về mục đích và đặc tính thiết yếu của hôn nhân, đặc biệt là đặc tính một vợ một chồng và bất khả
phân ly của hôn nhân (Giáo luật 1125 trang thứ 3).
Hôn nhân khác đạo (tôn giáo) là hôn nhân giữa một bên là Công giáo, và một bên không phải là
công người công giáo. Tại Việt Nam, ngày nay vẫn có những quan điểm khắt khe đối với con cái
trong hôn nhân khác tôn giáo. Nếu bên không Công giáo; nhưng đã được rửa tội trong Hội Thánh
Tin Lành hay Chính Thống, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị tín hay hôn nhân hỗn hợp.
Nếu bên công giáo chưa được rửa tội; thì hôn nhân này được gọi là dị giáo hay gọi cách khác là
hôn nhân khác đạo. Theo luật hiện hành của của Hội Giáo:
• Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép rõ ràng của giáo quyền.
• Hôn nhân khác đạo chỉ thành sự khi có phép chuẩn rõ ràng của giáo quyền.
Vì vậy, nếu hai người có ý định muốn kết hôn mà khác đạo giáo thì phải hiểu biết, chấp nhận
mục đích và đặc tính chính yếu của hôn nhân theo giáo lý Công giáo. Bên công giáo cam kết giữ
đức tin của mình; bảo đảm cho con cái được rửa tội và giáo dục trong Hội Thánh Công giáo.
Cũng cần phải cho bên không Công giáo biết rõ những điều ấy.
Do có đặc tính như vậy nên người Công giáo tin rằng đôi nam nữ lãnh nhận bí tích hôn nhân sẽ
phải yêu thương nhau mãi mãi. Giáo hội Công giáo quan niệm rằng: con người được sinh ra là
do Thiên Chúa, vì thế, hôn nhân cũng là sự cộng tác vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa qua
việc sinh sản. Tuy nhiên cho rằng việc sinh sản là tham gia vào công cuộc sáng tạo của Thiên
Chúa là chưa đúng và chủ quan, phiến diện; bởi vì công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa còn là sự
duy trì nhân sinh như: chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội, giúp đỡ nhân loại, tạo điều kiện phát
triển kinh tế, phát triển khoa học kĩ thuật cải thiện đời sống con người...v...v... Do đó sinh sản
không phải là điều chính yếu nếu không muốn nói đó sẽ là tội lỗi nếu sinh sản vô trách nhiệm,
không đảm bảo được tương lai con trẻ.
Giáo hội Công giáo không công nhận hôn nhân khi chỉ có kết hôn dân sự (đăng ký giá thú ngoài
đời) mà không qua lãnh nhận bí tích từ Giáo hội (tổ chức lễ cưới trong nhà thờ). Giáo luật Công
giáo điều 1055 và 1065 tuyên bố, giá thú như thế là vô hiệu qua câu:
“ Giữa những người đã chịu phép rửa tội, không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu nếu đồng thời
không phải là bí tích. ”
— Giáo Luật, điều 1055, khoản 2
“ Những người công giáo chưa chịu Bí Tích Thêm Sức, thì phải lãnh Bí Tích ấy trước khi được
nhận kết hôn, nếu có thể được và không có khó khăn trầm trọng. ”
— Giáo Luật, điều 1065, khoản 1
Điều kiện của một cuộc hôn nhân
Công giáo Từ quan điểm hôn nhân là một "bí tích" nên điều kiện lãnh nhận như sau: Tự do
• Tự do về tinh thần: tự do kết hôn, không chịu sức ép nào từ bên ngoài (gia đình, người thân, các
khoản khế ước, vay nợ...) —Giáo Luật, điều 1057
• Tự do về dân sự: không bị ràng buộc về mặt pháp lý hôn nhân dân sự (như đang có hôn thú với
người khác) và pháp lý về độ tuổi dân sự theo luật pháp quốc gia (ở Việt Nam, nam từ 20 tuổi trở
lên, nữ từ 18 tuổi trở lên).
Tôn giáo - đức tin
• Người nam và người nữ phải được rửa tội theo nghi thức Công giáo (đồng đạo).
• Người nam và người nữ chưa lãnh nhận bí tích hôn phối lần nào, hoặc không còn bị ràng buộc
bởi một bí tích hôn phối trước đó (khi chồng/vợ mình đã qua đời tự nhiên).
• Học qua lớp giáo lý của Giáo hội Công giáo thông qua giáo xứ hay giáo phận. Lớp giáo lý hôn
nhân được tổ chức vài tháng trước hôn lễ, để giúp cho người chuẩn bị kết hôn những kiến thức
cần thiết về đức tin, kỹ năng sống gia đình, sinh sản, giáo dục con cái.
• Không bị vướng vào một hay nhiều "ngăn trở" theo quy định của Giáo Luật (xem Những ngăn
trở tiêu hôn bên dưới). Tín đồ Công giáo bắt buộc phải cử hành hôn lễ theo nghi thức Công giáo,
nếu ai cử hành nghi thức không theo Công giáo sẽ bị phạt vạ (một kiểu chế tài tôn giáo), và
những người tham dự vào nghi thức đó cũng chịu hình phạt tương tự.
2. Điều kiện kết hôn với người công giáo
- Thứ nhất, người công giáo muốn kết hôn thì cần phải đáp ứng được những điều kiện về kết
hôn theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau:
Căn cứ theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thời kỳ hôn nhân
là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm
dứt hôn nhân. Đồng thời, quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập khi hai bên đăng ký kết hôn. Khi
đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 cụ thể:
(1) Nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, Nam từ đủ 20 tuổi trở lên;
(2) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
(3) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
(4) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định.
- Thứ hai, đối với việc kết hôn với người công giáo người ngoại đạo sẽ phải đáp ứng thêm những điều kiện sau:
Nghi thức làm phép chuẩn khác đạo Dưới đây là những gì cần chuẩn bị:
Chứng chỉ giáo lý hôn nhân Giấy đăng ký kết hôn Nhẫn cưới 2 người làm chứng Sổ gia đình công giáo (bản chính)
Bước 1: Học Chứng chỉ giáo lý hôn nhân Ở Sài Gòn có nhiều giáo xứ học giáo lý hôn nhân, hầu
hết các Giáo xứ lớn đều có. Thủ tục đăng ký thì đơn giản, bạn mang theo giấy giới thiệu từ Cha
xứ họ đạo của mình + 2 tấm hình thẻ đến xem lịch học và đăng ký lớp phù hợp. Thời gian học: ~3 tháng.
Bước 2. Đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Bước 3. Làm phép chuẩn tại Nhà Thờ
Sau buổi đến Nhà thờ làm đơn xin chuẩn khác đạo. Khi đó thông tin hai bạn chuẩn bị kết hôn sẽ
được rao ở nhà thờ trong ba Thánh lễ Chủ nhật liên tiếp, mục đích để ai có thấy sự ngăn trở nào
thì buộc phải trình nơi cha xứ. Cha sẽ sắp xếp thời gian để tiến hành làm Phép Chuẩn (ngoài Thánh lễ).
Trước Chúa, đôi bên thề hứa chung thủy, chăm sóc nhau bất kể khi gian nan, lúc bệnh hoạn,
đồng thời chấp nhận con cái Chúa ban. Bạn cần học thuộc những câu sau:
Anh (Tên thánh + họ tên) nhận em (Họ tên) làm vợ, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em, khi
thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn
trọng em mọi ngày suốt đời anh.
Em (Họ tên) nhận anh (Tên thánh + Họ tên) làm chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với anh,
khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và
tôn trọng anh mọi ngày suốt đời em.
Em (Họ tên) em hãy nhận chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và lòng trung thành của
anh. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Anh (Tên thánh + Họ tên) anh hãy nhận chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và lòng
trung thành của em. Sau buổi làm lễ ở Nhà thờ 2 bạn đã chính thức thành một Gia đình nhỏ rồi
đó. Sẽ được cấp một cuốn sổ Gia đình công giáo.