-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Nghiên cứu về cộng đồng LGBTQ+ trên toàn thế giới | Tiểu luận môn Kỹ năng mềm | Trường Đại học Văn Lang
Tiểu luận môn Kỹ năng mềm với đề tài: "Nghiên cứu về cộng đồng LGBTQ+ trên toàn thế giới" của các bạn sinh viên trường Đại học Văn Lang giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài của mình đạt kết quả cao.
Kỹ năng mềm 2 tài liệu
Đại học Văn Lang 741 tài liệu
Nghiên cứu về cộng đồng LGBTQ+ trên toàn thế giới | Tiểu luận môn Kỹ năng mềm | Trường Đại học Văn Lang
Tiểu luận môn Kỹ năng mềm với đề tài: "Nghiên cứu về cộng đồng LGBTQ+ trên toàn thế giới" của các bạn sinh viên trường Đại học Văn Lang giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài của mình đạt kết quả cao.
Môn: Kỹ năng mềm 2 tài liệu
Trường: Đại học Văn Lang 741 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Văn Lang
Preview text:
lOMoARcPSD| 27879799 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì 2 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì LỜI CẢM ƠN
Lời nói đầu tiên, chúng em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến Trường Đại
Học Văn Lang đã mở rộng và tạo điều kiện cho chúng em được sinh hoạt và cùng nhau
làm việc, học tập trong môi trường tốt nhất mặc dù tình trạng dịch bệnh vẫn còn đang
diễn ra phức tạp. Trường đã sắp xếp để khoa Quan Hệ Công Chúng – Truyền
Thông của chúng em được học môn Kỹ năng mềm. Riêng lớp em -
212_71SSK020003_52 được may mắn có sự dẫn dắt của thầy Thân Thế Tuyên. Mở đầu
cho bộ môn là chuỗi những tiết học online vì tình hình dịch bệnh, nhưng điều đó cũng
không gây ảnh hưởng gì đến chất lượng giảng dạy cũng như nội dung bài học mà ngược
lại còn tạo cảm giác cho chúng em được gần gũi và rất hào hứng khi tham dự tiết học
này. Tuy chúng em là những cô cậu sinh viên năm nhất lần đầu tiên đến với môi trường
Đại Học còn gặp nhiều bất cập và chưa làm quen được hết với việc học online nhưng
thay vào đó chúng em lại càng thêm phần may mắn khi được thầy truyền đạt những
kinh nghiệm mà thầy đã từng gặp trong cuộc sống, trong công việc cũng như ngành
nghề mà tụi em đang theo đuổi hay những bí kíp giúp tụi em khắc phục được bản thân
khiến cho bản thân ngày càng hoàn thiện và trở nên tốt đẹp hơn. Mỗi tiết học trôi qua
khiến chúng em càng thêm yêu thích bộ môn Kỹ năng mềm. Nhóm chúng em tin chắc
rằng mỗi thành viên trong nhóm em nói riêng và từng thành viên trong lớp nói chung
đều có riêng cho mình những bài học tâm đắc qua môn học cùng với sự dẫn dắt đầy
nhiệt huyết của thầy. Những kĩ năng này sẽ trở thành bước đệm và tiền đề để chúng em
có thể tiến xa, phát triển, hoàn thiện bản thân trong tương lai và mang đến những giá trị tích cực cho xã hội.
Kỹ năng mềm là một môn học- một kỹ năng vô cùng quan trọng trong cuộc sống
nói chung và ngành Quan hệ công chúng- Truyền thông nói riêng. Đây là một kĩ năng
không thể tự dưng có được mà cần trải qua quá trình học hỏi và áp dụng thực tế. Nghe
sơ qua thì có vẻ dễ, nhưng đến khi bắt tay vào học chính là cả một quá trình dài rèn
luyện và trau dồi hàng tỷ những kiến thức nhỏ đến lớn. Với bài tiểu luận, chúng em
mong thầy đọc và cảm nhận được đầy đủ sự tâm huyết, nhiệt tình, trân trọng qua từng
câu chữ mà mỗi thành viên trong nhóm chúng em gửi gắm đến bộ môn cũng như gửi
gắm đến thầy. Nhóm chúng em mong nhận được những lời nhận xét tận tình và góp ý
từ thầy để chúng em khắc phục được những khuyết điểm và rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn từng ngày.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy. Kính chúc thầy có nhiều sức khỏe! lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì MỤC LỤC
Lời Cảm Ơn. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 2
Lời Mở Đầu. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . 4
Chương 1: Lịch sử hình thành và khái niệm về cộng đồng LGBTQ+. . . . . . . . .5
1.1 Lịch sử hình thành. . .. . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . .5
1.2 Cơ sở lý luận,. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . .5
1.2.1 Khái niệm về LGBTQ+. . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . .5
1.2.2 Khái niệm về các thuật ngữ. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .6
1.2.3 Khái niệm về bảng dạng giới. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .6
1.2.4 Khái niệm xu hướng tính dục. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
Chương 2: Pháp luật đối với những người thuộc cộng đồng LGBTQ+. . . . . . . 9
2.1 Những quy định liên quan đến quyền của LGBTQ+ trong khuôn khổ liên hợp
quốc. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . .9
2.2 Tổng quan pháp luât quốc tế về bảo vê ṭ quyền của người đồng tính. . . . . . . . 9
2.2.1 Cơ sở hình thành. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . .9
2.2.2 Quá trình hình thành. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . 10
2.2.3 Quyền của cộng động LGBTQ+ trong khuôn khổ Liên hợp quốc. . . . . 10
2.3 Tại những nước không hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. . . . . . . . . . . . . . .13
2.4 Tại những nước hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .14
2.5 Tại Việt Nam. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . .15
2.6 Bất cập trong việc bảo vệ quyền. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . .17
Chương 3 : Thực trạng và thay đổi cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+. .17
3.1 Những nét văn hóa LGBTQ+. .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .17
3.2 Cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .19
3.2.1 Nguồn gốc của HIV và những bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục
khác :. . . . .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . . . .21
3.3 Các hoạt động, đề xuất để lấy lại quyền bình đẳng cho cộng đồng LGBTQ+22
3.3.1 Các hoạt động hiện có :. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 22
3.3.2 Các hoạt động, đề xuất trong tương lai :. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .24
3.4 Một số cá nhân nổi bật thuộc cộng đồng LGBTQ+. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .27
Kết luận. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . . . .31
Tài liệu tham khảo. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .32 4 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì LỜI MỞ ĐẦU
Các vấn đề liên quan đến cộng đồng LGBTQ+ từ lâu đã hiện hữu trong xã hội của
loài người nhưng trên thực tế sự kì thì dành cho những người thuộc cộng đồng này chỉ
càng ngày càng được thể hiện rõ hơn khi xã hội ngày càng phát triển và các vấn đề về
mối quan hệ dị tính được xem như là điều tự nhiên còn quan hệ đồng tính là một thứ gì
đó cần được bài trừ và cần phải có những cách xử lý có thể nằm ở mức độ vô cùng tàn bạo.
Từ đó, các vấn đề giành lại quyền dành cho các cá nhân thuộc cộng đồng LGBTQ+ đã
ngày càng được phát triển hơn, quyền bình đẳng cũng như sự hợp pháp hóa hôn nhân
đồng giới đã được thông qua ở nhiều nước phát triển. Tuy nhiên, đây vẫn còn là vấn đề
gây tranh cãi ở nhiều nước trên thế giới và nhiều người vẫn chưa có cái nhìn cởi mở về
cộng đồng và các nét văn hóa của cộng đồng.
Hiểu được vấn đề đó nhóm 04 của lớp KNM 212_71SSK020003_52 đã tiến hành
nghiên cứu cũng như đưa ra những giải pháp và hành động thiết thực nhất để hướng
đến một tương lai nơi các cá nhân thuộc cộng đồng LGBTQ+ có thể được là chính mình
mà không phải chịu đựng sự miệt thị, kì thị cũng như bị bài trừ bởi chính những người
xung quanh , bài nghiên cứu này sẽ giúp mọi người có thể hiểu được rằng việc cộng
đồng LGBTQ+ có mặt tốt và mặt xấu như mọi thứ khác, vấn đề chỉ là ta qua khắt khe
cho một thế giới theo khuôn mẫu mà ta được học từ lâu. Bài tiểu luận của nhóm đã đặt
ra hai tiêu chí rõ ràng trong số các mục tiêu hướng đến phát triển bền vừng bao gồm
sức khỏe cuộc sống tốt và bình đẳng giới. lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ KHÁI NIỆM VỀ CỘNG ĐỒNG LGBTQ+ 1.1 Lịch sử hình thành
Vào đầu thế kỉ XX, “homosexual” là một cụm từ được sử dụng phổ biến và rộng rãi
tại Mỹ để chỉ những người đồng tính với ý nghĩa tiêu cực. Đến thập niên 50 và 60, từ
nay dần được thay thế bởi từ “homophile”. Thập niên 70, từ “gay” được ra đời và được
chấp nhận sử dụng bởi chính cộng đồng người đồng tính.
Trong thời gian này, do vai trò của người phụ nữ trong xã hội không cho phép họ thể
hiện tính hướng của bản thân nên mối quan hệ đồng tính luyến ái nữ không được biết
đến nhiều. Sau sự xuất hiện của một vài tổ chức đấu tranh cho nữ quyền và quyền bình
đẳng cho đồng tính nữ, từ “lesbian” dùng để chỉ “người đồng tính luyến ái nữ” phân
biệt với “gay” – những người đồng tính luyến ái nam.
Hai thành phần khác của cộng đồng LGBT là những người Bisexual – Người song
tính và Transgender – Người chuyển giới có xung đột với những người đồng tính nam
và nữ về sự khác biệt trong khuôn mẫu định hình cộng đồng. Mặc dù những xung đột
giữa các nhóm này tới hiện nay đôi lúc vẫn còn xảy ra do bất đồng quan điểm nhưng
hiện tại họ đã hướng tới cùng một mục tiêu xây dựng một cộng đồng lớn với mục đích
thể hiện bản thân và giáo dục xã hội về những nhóm người có xu hướng đặc biệt. Với
tiền đề như vậy, thuật ngữ LGBT bắt đầu xuất hiện trong những phát ngôn của những
nhà hoạt động tại Mỹ vào năm 1988. Năm 1999 chứng kiến sự ra đời của Hiệp hội Lịch
sử LGBT. Sau một vài tranh cãi, cụm từ LGBT đã được chính thức công nhận bởi cộng
đồng. Hiện nay từ này không chỉ bao gồm những nhóm người được định danh trong tên
gọi mà còn cả những nhóm nhỏ hơn.
Năm 2016, một số nghiên cứu khảo sát của hãng truyền thống GLAAD, hiện nay thế
hệ trẻ đang ưa chuộng sử dụng từ LGBTQ hơn so với cụm từ nguyên gốc. Họ cho rằng
Queer với định nghĩa thể hiện tính khác biệt về xu hướng tính dục hay bản dạng giới.
Điều này sẽ giúp họ thể hiện bản thân một cách linh hoạt hơn. Một biến thể khác của
thuật ngữ này cũng được sử dụng phổ biến hơn là LGBTQ+ với ý nghĩa thể hiện được
đa dạng các thành phần của cộng đồng. Tuy nhiên, trong con mắt của thế hệ lớn tuổi
hơn thì Queer không phải là một từ mang ý nghĩa tích cực và có xu hướng bài xích thuật ngữ này.
Đến nay, có thêm nhiều chữ cái mới và vấn đề vị trí giữa các chữ cái vẫn chưa được
giải quyết. Nên nhiều người thường dùng LGBTQ+ để biểu thị rằng cộng đồng còn bao
gồm những nhóm khác 1.2 Cơ sở lý luận,
1.2.1 Khái niệm về LGBTQ+ 6 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
LGBTQ+ thể hiện sự đa dạng của các nền văn hóa nhân loại dựa trên xu hướng
tình dục (sexual orientation), bản dạng giới (gender identity), thể hiện giới
(gender expression), thiên hướng tình dục (sexual attraction). Xu hướng tình
dục có các nhóm phổ biến: dị tính luyến ái (heterosexual), đồng tính luyến ái
(homosexual), song tính luyến
ái (bisexual), toàn tính luyến ái
(pansexual), vô tính luyến ái
(asexual). . theo bản dạng giới
trái với giới tính sinh học
(biological sex) của mình là
người chuyển giới, ngược lại
người có bản dạng giới phù
hợp với giới tính sinh học là người hợp giới.
LGBTQ+ là các chữ cái viết tắt của Lesbian (đồng tính luyến ái nữ), Gay
(đồng tính luyến ái nam), Bisexual (song tính luyến ái), Transgender (chuyển
giới) và Queer (có xu hướng tính dụng và bản dạng giới khác biệt, hoặc không
nhận định mình theo bất kì nhãn nào) hoặc Questioning (đang trong giai đoạn tìm hiểu bản thân)
Dấu + thể hiện sự tồn tại đa dạng của các nhóm khác trong cộng đồng như:
Non-binary (phi nhị nguyên giới), intersex (liên giới tính). .
1.2.2 Khái niệm về các thuật ngữ
LGBTQ+ là các chữ cái viết tắt của một cộng đồng thuộc những người có
những giới tính khác nhau như: - Lesbian: đồng tính nữ - Gay: đồng tính nam - Bisexual: song tính
- Transgender: chuyển giới
- Q được chia thành hai nhóm
+ Queer: có xu hướng tình dục và bản dạng giới khác biệt hoặc không nhận
định mình theo kỳ nhãn nào.
+ Questioning: trong giai đoạn tìm hiểu bản thân
- “+” thể hiện sự tồn tại của các nhóm khác như: Non-binary (phi nhị nguyên giới),
intersex (liên giới tính). .
LGBTQ+ thể hiện sự đa dạng về văn hóa và được hình thành từ xu hướng tình
dục ( sexual orientation), bản dạng giới (gender identity), thể hiện giới (gender
expression) và thiên hướng tình dục (sexual attraction).
1.2.3 Khái niệm về bảng dạng giới
Thuật ngữ “bảng dạng giới” được Robert J. Stoller đặt ra vào năm 1964. Bản dạng
giới hay còn gọi là bản dạng giới là nhận thức chủ quan của một người về giới tính lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
của họ. Bản dạng giới của một người có thể được xác định hoặc không với giới tính
được chỉ định sau khi sinh dựa trên giới tính sinh học của họ. Bản dạng giới của một
người thường được phản ánh trong việc đại diện cho giới tính, nhưng nó không phải
lúc nào cũng phản ánh chính xác nhất mọi trường hợp. Mỗi người có thể có những
hành vi, thái độ và ngoại hình tương ứng với một vai trò giới cụ thể, nhưng cách họ
thể hiện chúng không nhất thiết phản ánh bản dạng giới của họ. Bảng nhận dạng
giới tính của một người có thể là nam hoặc nữ hoặc họ có thể thuộc nhóm giới tính
không kép, bao gồm các nhãn giới khác: vô tính, giới tính linh hoạt hoặc họ có thể
là lưỡng tính, bán giới tính . .
Trong hầu hết các xã hội, có sự phân chia các thuộc tính giới tính cho nam và nữ.
Nhị phân giới tính được hầu hết mọi người tuân theo và bao gồm các kỳ vọng về
nam tính cũng như nữ tính trong tất cả các khía cạnh của giới và giới tính: giới tính
sinh học, bản dạng giới và biểu hiện giới tính. Một số người không xác định được
một số hoặc tất cả các khía cạnh của giới tính được gán cho họ theo giới tính sinh
học; một trong những người này là người chuyển giới, không có giới tính hoặc đa
dạng về giới tính. Một số xã hội thừa nhận sự tồn tại của một hoặc nhiều giới tính không phải nam và nữ.
Các khái niệm về bản dạng giới và xu hướng tình dục là khác nhau. Ví dụ, khi
một người sinh ra là nam, họ tự xác định giới của mình là nữ ( bản dạng giới ), có
sức hấp dẫn tình dục và / hoặc tình yêu với nam, người đó không phải là đồng tính
luyến ái (đây là một người chuyển đổi giới tính khác giới). Mặt khác, một người
đồng tính sẽ luôn xem mình là đàn ông (giống giới tính của họ lúc mới sinh), chứ
không phải giới tính của mình là phụ nữ, và họ sẽ luôn có sự hấp dẫn về tình dục và
/ hoặc lãng mạn với những người đàn ông một cách dài lâu.
- Các loại bản dạng giới thường thấy:
• Chuyển giới: bản dạng giới khác với giới tính sinh học.
• Người chuyển giới: người chuyển giới không muốn xác định mình theo bất kỳ giới tính nào.
• Trans man: người chuyển giới xác định bản thân là nam.
• Người phụ nữ chuyển giới: người chuyển giới xác định bản thân là phụ nữ.
• Transfemale: người chuyển giới đã được chỉ định giới tính nam khi sinh ra
nhưng họ nhận dạng được nhiều dấu hiệu của nữ bên trong cơ thể nhiều hơn là nam.
• Transmasculine: người chuyển giới đã được chỉ định giới tính nữ khi sinh
ra họ nhận biết nhiều dấu hiệu của nam bên trong cơ thể nhiều hơn là nữ.
• Androgynous / gynoandros: người có danh tính là sự pha trộn ở các mức độ
khác nhau giữa nữ và nam giới. 8 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
• Giới tính trung tính / neutrois / giới tính trung lập: người ngăn chặn các
đặc điểm được gán cho truyền thống là nam tính hoặc nữ tính.
• Giới tính: người không tin vào giới tính và do đó không đồng nhất với bất kỳ.
• Biggenus: người xác định bản thân có hai giới tính (ví dụ: nam tính và bạch cầu trung tính).
• Đa giới / đa giới: người có nhiều hơn hai giới tính.
• Chuyển giới: giới tính được chỉ định cho những người giữa hai giới tính,
thường là giới tính nhị phân.
Ngoài ra có một thuật ngữ dành cho những người dị tính ủng hộ việc hợp pháp
hóa hôn nhân đồng giới và đấu tranh cho quyền của cộng đồng LGBTQ+. Những
người như thế thương được gọi là Straight ally.
Ngược lại những người có sự kiên quyết trong việc phản đối hôn nhân đồng giới
và bày tỏ sự kì thị sâu sắc được gọi là Homophobes.
1.2.3 Khái niệm xu hướng tính dục
Xu hướng tính dục của cộng đồng LGBTQ+
Xu hướng tính dục là sự hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc là mặt tình dục hoặc cũng có
thể là cả hai được diễn ra trong thời gian dài đối với những đối tượng thuộc giới tính
hoặc khác giới, cùng thuộc giới tính hoặc cùng thuộc giới, thuộc cả hai giới tính hoặc
có nhiều hơn 1 giới. Sự hấp dẫn này thường được bào gồm trong 5 giới: dị tính luyến
ái, đồng tính luyến ái song tính luyến ái, toàn tính luyến ái và vô tính luyến ái. Trong đó:
• Dị tính luyến ái là bị hấp dẫn về tình cảm và tình dục của người khác giới. Xu
hướng tình dục này được mọi người ủng hộ và đây cũng là xu hướng tính dục
phổ biến nhất hành tinh
• Đồng tính luyến ái hay còn gọi là đồng tính là bị hấp dẫn mặt tình cảm và mặt
tình dục của người cùng giới. Xu hướng tính dục đồng tính luyến ái được chia
làm 2 giới chính là đồng tính nam ( thường được gọi là “gay” ) và đồng tính nữ
( thường được gọi là les ). Hiện vẫn chưa thể xác định được chính xác số lượng
người theo xu hướng tính dục này nhưng vẫn có thể thấy họ chiếm một lượng
không hề nhỏ. Với việc xã hội ngày càng có nhiều hướng suy nghĩ hiện đại và
tích cực thì những người theo xu hướng tính dục này ngày càng tự tin công khai
thật giới tính của mình.
• Song tính luyến ái là người có tình cảm và ham muốn tình dục với cả nam và
nữ. Người có sở thích tình dục nghiêng về một giới tính nhất định hơn giới tính
còn lại nhưng lại không độc nhất cũng tự cho rằng họ là người song tính.
• Toàn tính luyến ái là chỉ sự hấp dẫn về mặt tình cảm và mặt tình dục với bất kì
một giới tình nào. Xu hướng tình dục này có thể nói là một nhánh nhỏ của “song tính luyến ái”. lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
• Vô tính luyến ái những người này không bị hấp dẫn bởi tình cảm hay tình dục.
Vô tính luyến ái khác hoàn toàn với kiêng tình dục và độc thân vì nó có chiều
hướng xuất phát bên trong cơ thể. Một số người vô tính vẫn có quan hệ tình dục
với người khác nhưng chỉ vì làm thỏa mãn cho đối phương chứ không hề có ham muốn.
Các nhà khoa học vẫn chưa giải thích được rõ nguyên nhân dẫn đến xu hướng tính
dục này nhưng họ đã đưa ra giả thuyết cho rằng xu hướng tính dục này được xuất hiện
bởi ba nguyên nhân chính đó là do di truyền, nội tiết tố và ảnh hưởng môi trường. Tuy
chưa có giả thuyết nào có thể giải thích được nguyên nhân của xu hướng tính dục nhưng
những các nhà khoa học vẫn ủng hộ các lý thuyết dựa trên cơ sở sinh học. không có
bằng chứng nào xác thực được việc nuôi dạy hoặc trải nghiệm tuổi thơ ấu có ảnh hưởng
đến xu hướng tính dục. Hiện nay ở tất cả các nền văn hóa trên thế giới xu hướng tính
dục dị tính luyến ái chiếm đa số còn lại là đồng tính luyến ái và song tính luyến ái
Chương 2: pháp luật đối với những người thuộc cộng đồng LQBTQw+ 2.1
Những quy định liên quan đến quyền của LGBTQ+ trong khuôn khổ liên hợp quốc
Ở những nền văn hóa, trong những giai đoạn lịch sử cũng như thái độ đối với ham
muốn tình dục, hành vi tình dục và các mối quan hệ nói chung ở mỗi quốc gia khác
nhau thì có những nhận thức, thái độ đối với cộng đồng LGBTQ+ là khác nhau. Mỗi
nền văn hóa có chuẩn mực riêng nên có nhiều nền văn hóa phản đối và có nền văn hóa
chấp nhận tình yêu và tình dục đồng tính. Dẫn đến việc có những thái độ, cách nhìn
khác nhau. Đó là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài, đồng thời, sự thay đổi nhận
thức, quan điểm, cách nhìn về người đồng tính, quan hệ giữa những người đồng tính
luôn gắn liền với sự thay đổi nhận thức về tình dục.
Xuất phát từ quan niệm nam là phải cưới vợ, nữ thì phải lấy chồng hay trong thế
giới này, nhắc đến “cặp đôi” đồng nghĩa hiểu luôn là một người nam và một người nữ
nên khi xuất hiện cặp đôi giữa hai người cùng giới tính, giữa người thường với người
chuyển giới hoặc các nhóm giới tính đa dạng khác. Họ cho rằng điều này đi ngược lại
với quy luật tự nhiên, cách nghĩ thông thường của xã hội, nên gán ghép cho những
người cộng đồng LGBTQ+ là “bệnh hoạn”, “biến thái”, “xấu xa” hoặc “bẩn thỉu” “kì
dị”,. Chính quan niệm này dẫn đến nhiều người từ chối tiếp xúc, giao tiếp với những
người trong cộng động LGBTQ+ cũng như từ chối đọc, nghiên cứu các tài liệu khoa
học về đồng tính vì cho rằng đó là những tài liệu có nội dung lệch lạc và đồi trụy. Do
đó, xảy ra tình trạng các bạn trong cộng đồng LGBTQ+ bị kì thị, xa lánh, chửi bới và
tệ hơn đó là bạo hành bởi gia đình, bạn bè, xã hội. 10 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
2.2 Tổng quan pháp luât quốc tế về bảo vê ṭquyền của người đồng tínhṭ 2.2.1 Cơ sở hình thành
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về quyền và nhân phẩm. Mọi người
đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần
bác ái. Đây chính là Điều 1 của Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền năm 1948.
Nguyên tắc này dựa trên nguyên tắc đạo đức xã hội mà bất kỳ quốc gia nào trong quá
khứ, hiện tại và tương lai đều phải thừa nhận và tôn trọng, đó là “quyền tự nhiên” là
tổng thể những quyền mà mỗi người khi sinh ra đã được hưởng. Nền tảng của quyền tự
nhiên là các chuẩn mực về sự công bằng và nguyên tắc tự do của con người. Trong đó,
người đồng tính, song tính, dị tính cũng như các chủ thể khác trong xã hội, có các quyền
cơ bản gồm quyền được sống, được tự do và được mưu cầu hạnh phúc.
2.2.2 Quá trình hình thành.
Từ đầu thập kỷ 1980, Châu Âu là một trong những nơi đầu tiên nỗ lực thúc đẩy, xây
dựng quyền của cộng động LGBT cũng như cộng đồng mở rộng LGBTQ+ sau đó được
mở rộng sang các châu lục khác và trên diễn đàn toàn cầu của Liên hợp quốc. Sự phát
triển về quyền của người đồng tính trong hệ thống pháp luật ở châu Âu đã đặt nền tảng
cho cuộc vận động trên diễn đàn Liên hợp quốc và ở những khu vực khác.
2.2.3 Quyền của cộng động LGBTQ+ trong khuôn khổ Liên hợp quốc.
Bắt đầu từ năm 1993, vấn đề quyền của người đồng tính đã được nhắc đến trong Hội
nghị nhân quyền thế giới lần thứ hai họp tại Viên (Áo) và trong các sự kiện quốc tế lớn
về nhân quyền do Liên hợp quốc bảo trợ những năm sau đó. Trên diễn đàn Liên hợp
quốc, bên cạnh những quốc gia ủng hộ, khá nhiều quốc gia đã công khai bày tỏ sự phản
đối vấn đề quyền của người đồng tính, chủ yếu xuất phát từ những định kiến về văn hóa
và tôn giáo. Đây chính là lý do chính khiến cho khuôn khổ pháp luật quốc tế về quyền
của đồng tính phát triển một cách chậm chạp và hiện vẫn còn lạc hậu khá xa so với
quyền của nhiều nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác. Sở dĩ, những quyền này cần được
công nhận bởi luật pháp vì pháp luật là sự cụ thể hóa các quyền tự nhiên của con người
vào một cơ chế rõ ràng và được đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà nước. Thông qua
pháp luật các nghĩa vụ sẽ được tôn trọng và thực thi, các quyền trở thành quy tắc ứng
xử bắt buộc và thống nhất chung trong xã hội. Có thể thấy việc thừa nhận và bảo vệ
quyền của người đồng tính, một phạm trù của quyền tự nhiên chỉ mang tính khả thi khi
được pháp luật chính thức hóa và pháp lý hóa. Nhắc đến luật pháp, các văn kiện, hiến
chương đặt nền tảng cho việc xây dựng quyền của cộng đồng LGBTQ+ thì không thể không nhắc đến:
• Hiến chương Liên Hợp Quốc
Hiến chương Liên hơp quốc về quyền bình đẳng con người đã trở thành môtṭ
trongṭ những văn kiện quốc tế tạo bước tiền đề để nâng cao quyền của cộng đồng
LGBTQ+ trong hệ thống luật pháp quốc tế. Các quyền con người được thể hiện ngay
trong lời nói đầu của Hiến chương: “Tuyên ngôn một lần nữa tin tưởng vào những
quyền cở bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ”. lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
Không những vậy, tại khoản 3, Điều 1, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng “khuyến
khích phát triển sự tôn trọng trong các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất
cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo” [ Điều 1].
Một trong những nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt của hiến chương là bình đẳng, không
có sự phân biệt giữa mọi cá nhân xuất phát từ việc phân biệt đối xử về giới tính giữa
nam và nữ. Mục đích đưa ra các nguyên tắc này nhằm yêu cầu có sự đối xử công bằng
không dựa vào giới tính, dân tộc, tôn giáo và khẳng định các quyền tự do và bình đẳng
giữa mọi cá nhân trong xã hội. Là cơ sở để tạo tiền đề xây dựng và bảo vệ các quyền
con người và quyền của người đồng tính.
Mặc dù Hiến chương Liên Hợp Quốc là văn kiện quan trọng trong việc khẳng định,
bảo vệ và nâng cao các quyền con người, nhưng hiến chương chỉ nêu ra các nguyên tắc,
nội dung chung về quyền của con người mà chưa đề cập rõ ràng đến cộng đồng
LGBTQ+ và chưa có quy định cụ thể để bảo vệ người đồng tính khỏi sự phân biệt, đối xử này.
Về sau, sự ra đời của văn kiện Tuyên bố của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc
(Commission on Human Rights, nay đã được thay thế bởi Hội đồng Nhân quyền Liên
hợp quốc) về “Xu hướng tính dục và quyền con người” (Sexual Orientation & Human
Rights- một trong những văn kiện quốc tế đầu tiên của hệ thống Liên hợp quốc đề cập
trực tiếp đến quyền của LGBTQ+. Văn kiện này được thông qua vào tháng 3/2005, do
New Zealand đề xướng và nhận được sự ủng hộ của 32 quốc gia thành viên Ủy ban.
• Một số văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc về quyền của LGBTQ+. Truớc
đây, mặc dù Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định quyền con
người nói chung (trong đó có quyền của người đồng tính nói riêng) cũng như sự ra
đời của nhiều văn kiện khẳng định quyền của cộng đồng LGBTQ+ nhưng sự phân
biệt đối xử, bạo lực đối với người đồng tính vẫn tiếp tục xảy ra trong xã hội. Thậm
chí nhiều quốc gia vẫn đang hình sự hóa và xem đồng tính như là một loại tội phạm.
Tình trạng này đã kéo dài trong nhiều năm qua và trở thành một trong những vấn đề
nhân quyền được Liên Hơp Quốc đặc biệt quan tâm. Những lo ngại về vi phạm nhân
quyền trong một thời gian dài đã khiến Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp Quốc
xem đây như là vấn đề cần được ưu tiên thảo luận để đưa ra những tuyên bố chung
không chỉ về quyền của người đồng tính mà cả quyền của người song tính, vô tính
và cả người chuyển giới.
Trong những cuộc họp của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc năm 2006 và
2008, những tuyên bố chung về quyền của người đồng tính, xu hướng tính dục và bản
dạng giới đã được chính thức đề xuất và thảo luận xoay quanh mối quan tâm về luật
phân biệt đối xử và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc thực thi nhân quyền quốc tế.
12 Và đến ngày 26 tháng 3 năm 2007 Bộ ngu y ê n tắc Yogyakarta đã ra mắt như một Hiến Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
chương toàn cầu về quyền của người đồng tính tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
ở Geneva, Thụy Sĩ. Bộ nguyên tắc được coi là một trong những văn bản pháp lý đầu
tiên về quyền của người đồng tính, áp dụng các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế có tính ràng
buộc, đóng vai trò diễn giải của các Hiệp ước quốc tế về quyền con người. Bộ nguyên
tắc Yogyakarta đưa ra các quy định về nội dung các quyền mà người đồng tính đương
nhiên được hưởng thụ, ngăn cấm sự phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục, ngăn
cấm sự xâm phạm trái pháp luật đến đời sống riêng tư, gia đình của người đồng tính,
xóa bỏ những rào cản ngăn những người đồng tính tiếp cận, hưởng thụ các quyền.
Những người đồng tính sẽ được quan tâm chăm sóc sức khỏe, được hưởng thụ các
quyền giáo dục, được pháp luật bảo vệ. .và được tham gia một cách bình đẳng vào đời
sống chính trị - xã hội.
Ra đời ngay vào thời điểm mà vấn đề về quan hệ đồng tính, người đồng tính và
quyền của người đồng tính đang tranh cãi diễn ra trên rất nhiều mặt của đời sống xã
hội. Khi các kết quả của nghiên cứu khoa học về sự xuất hiện của hiện tượng đồng tính
còn chưa có câu trả lời chính thức, nhưng cũng là cơ sở để chúng ta biết rằng đồng tính
không như mọi người vẫn nghĩ là bệnh hoạn, là đua đòi, là tệ nạn xã hội, tình dục là thứ
mà những người đồng tính quan tâm. .Có thể nói, sự ra đời của Bộ nguyên tắc đã đánh
dấu một mốc son trong Lịch sử Nhân quyền của nhân loại.
Sự ra đời của Nguyên tắc đã trở thành một trong những động lực thúc đẩy mạnh mẽ
hơn nữa sự nỗ lực đấu tranh của Liên hợp quốc cho những quyền cơ bản của con người
nói chung, trong đó có người đồng tính. Và đối với các quốc gia của thế giới tự do thì
Bộ nguyên tắc cũng trở thành điều kiện đủ để vận động đưa các Nguyên tắc Yogyakarta
vào trong pháp luật của mỗi quốc gia.
Bên cạnh các văn kiện và ấn phẩm kể trên, vấn đề quyền của người đồng tính còn
được đề cập trong một loạt phát biểu của Tổng thư ký Liên hợp quốc và Cao ủy Nhân
quyền Liên hợp quốc trong khoảng một thập kỷ gần đây. Những phát biểu đó đã nêu rõ
tính chất, yêu cầu bảo vệ nhân phẩm, tính mạng và các quyền bình đẳng của người đồng
tính, cũng như sự cần thiết phải có những hành động phối hợp cả ở cấp độ quốc gia và
quốc tế trong vấn đề này. Cụ thể, trong Phiên họp thứ 19 của Hội đồng Nhân quyền
Liên hợp quốc vào tháng 3/2012, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon đã có bài
phát biểu trong đó mô tả những hành vi bạo lực và phân biệt đối xử với những thành
viên của cộng đồng người đồng tính, song tính, chuyển giới là “tấn bi kịch lớn đối với
những ai có lương tri và là vết nhơ đối với lương tâm của chúng ta”. Đây là những phát
biểu thể hiện rất rõ ràng và mạnh mẽ quan điểm của Liên hợp quốc là ủng hộ các quyền
của người đồng tính, song tính và chuyển giới. Mặc dù trong những năm gần đây diễn
biến về sự nhận thức và hành động thúc đẩy quyền của người đồng tính đã phát triển
nhanh chóng nhưng vẫn chưa có một điều ước riêng, rõ ràng về quyền của người đồng
tính, song tính, chuyển giới nói chung và quyền của người đồng tính nói riêng. Tuy
nhiên, có thể thấy được sự nỗ lực của Liên hợp quốc trong việc chống lại hành vi vi
phạm nhân quyền đối với người đồng tính. lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
Qua đó ta thấy, những văn kiện pháp lý quốc tế có ý nghĩa toàn cầu là sơ sở pháp
lý quan trọng trong việc thúc đẩy thực hiện và bảo vệ các quyền con người nói chung
và quyền của người đồng tính nói riêng. Đó chính là cơ sở cho việc xoá bỏ các hành
động kì thị, phân biệt giới tính và cơ sở này chỉ mang tính khả thi khi được pháp luật
chính thức hóa và pháp lý hóa. 14 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
2.3 Tại những nước không hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới
Hiện nay trên thế giới vẫn còn khá nhiều quốc gia không đồng ý hợp pháp hóa hôn
nhân đồng giới ( chỉ 34 quốc gia hợp pháp hóa tính đến năm 2021 ), ở các quốc gia này
bản thân hành vi đồng tính luyến ái sẽ bị coi là hành vi tội phạm. Có tới 80 quốc gia/các
vùng lãnh thổ xem hành vi này như là tội phạm, có nơi còn áp dụng hình thức tử hình
đối với những người có hành vi đồng tính luyến ái. Một số quốc gia khác không coi
đồng tính luyến ái là tội phạm, nhưng họ cũng không công nhận hôn nhân đồng giới.
Đối với những quốc gia không hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, có nhiều quan điểm cho rằng:
Hành vi này đi ngược lại chuẩn mực của xã hội vốn có, làm mất đi truyền
thống hòa thuận gia đình, nối dõi tông đường
Quyền bảo vệ người đồng tính trong quan hệ đạo đức gia đình và quan niệm hôn nhân
của người Trung Quốc, bên nào nặng, bên nào nhẹ? Từ quan điểm của các tiêu chuẩn
đánh giá lợi ích, nó chắc chắn quan trọng hơn đạo đức của hôn nhân. Bởi lẽ, quyền của
tình yêu đồng giới không nhất thiết phải thông qua sự bảo vệ của pháp luật. Nhưng nếu
phủ nhận luân lý truyền thống về hôn nhân thì sẽ làm xáo trộn sự cân bằng nam nữ, vi
phạm quy luật sinh sản tự nhiên của con người, làm mất đi sự quân bình "âm dương
trung hòa" trong quan niệm truyền thống, từ đó ảnh hưởng đến tính bổ sung, hòa hợp. .
của gia đình truyền thống Trung Quốc, hậu quả thật khó tưởng tượng.
• Việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới không có lợi cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em:
Nếu tình yêu, hôn nhân đồng tính có thể được hợp pháp hóa, thì con cái của họ sẽ bị
vây quanh bởi những tin tức về đồng tính, cũng như khuyến khích trẻ em lựa chọn đồng
tính như một người bạn đời còn lại, điều này sẽ làm thay đổi xu hướng tính dục của con
cái họ. Chúng ta không thể để cho những đứa trẻ ngày nay được bình thường, nhưng
sau này, vì ảnh hưởng của “tình yêu đồng giới”, bị “tẩy não” bởi quan niệm về tình yêu
đồng giới, khiến chúng không thể đưa ra những quyết định đúng đắn.
• Hôn nhân không phải là quyền tự do của mỗi cá nhân mà còn là bằng
chứng quan trọng của nền văn minh nhân loại:
Nếu hôn nhân đồng giới được pháp luật cho phép thì có nên cho phép chế độ đa thê
(một nam và một nữ có thể có nhiều hơn một vợ chồng) không? Hôn nhân hợp pháp là
một vấn đề cần hết sức thận trọng mỗi chúng ta phải tính đến điều này trong nền văn
minh mà chúng ta đang sống.
Nếu một xã hội thoát khỏi những khái niệm lý thuyết đạo đức niềm tin quan niệm
gia đình và hình thức sống đã được kế thừa lâu đời này thì xã hội đó chắc chắn sẽ rơi
vào hỗn loạn. Hôn nhân và gia đình sẽ gắn liền với kết cấu được thiết lập của nền văn
minh xã hội loài người. Do đó càng có nhiều lý do để cống hiến cho việc duy trì sự tôn kính cơ bản này. lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
2.4 Tại những nước hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới
Tính đến nay số lượng các quốc gia đã hợp pháp hóa vấn đề hôn nhân đồng giới trên
thế giới vẫn còn là thiểu số trên tổng số các quốc gia trên thế giới. Các nước có thể kể
đến như : Mỹ, Hà Lan, Anh, Bỉ . . và gần đây nhất là Đài Loan.
Tại các nước đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, ta có thể thấy rất rõ việc các cặp
đôi thuộc cộng đồng LGBTQ+. Họ được là chính mình, họ được kết hôn, có quyền
được nhận nuôi hoặc sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để có thể có con và trên
hết đứa trẻ vẫn phát triển bình thường và có thể nói rằng có phần tốt hơn so với cách
các cặp đôi dị tính nuôi dạy trẻ nhỏ. Theo nghiên cứu mới của một số nhà kinh tế học
châu Âu, con cái của các cặp vợ chồng đồng tính có thành tích ở trường tốt hơn so với
những đứa trẻ được nuôi dạy bởi một người mẹ và một người cha.
Một cuộc nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà kinh tế học Deni Mazrekaj, Kristof
de Witte và Sofie Cabus trực thuộc trường đại học KU Leuven của Bỉ. Họ đã sử dụng
dữ liệu của chính phủ để theo dõi và đánh giá tất cả trẻ em được sinh ra tại Hà Lan từ
năm 1995. Lý do vì Hà Lan là quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân
đồng giới vào năm 2001 và có nhiều chính sách hỗ trợ cho các cặp đôi đồng tính.
Kết quả cho thấy những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi các cặp đôi đồng tính có điểm
kiểm tra cao hơn ở cấp tiểu học và trung học. Chưa hết, chúng còn có khả năng tốt
nghiệp phổ thông cao hơn khoảng 7% so với trẻ em được nuôi bởi các cặp vợ chồng khác giới.
Điểm độc đáo của nghiên cứu này là nó theo dõi việc giáo dục xuyên suốt của hàng
ngàn trẻ em sinh ra tại Hà Lan từ năm 1995 đến năm 2005. Dữ liệu thu thập được bao
gồm thông tin về hiệu suất giáo dục của con cái cũng như dữ liệu về thu nhập của cha
mẹ và gia đình. Các nghiên cứu tương tự trước đây thường có cỡ mẫu nhỏ, chỉ vài chục
trẻ em hoặc sử dụng dữ liệu của Cục điều tra dân số Mỹ vốn không đáng tin cậy. Ngoài
ra Hà Lan cũng được biết đến là một trong những nước đi đầu trong việc hợp pháp hóa
hôn nhân đồng giới, và việc giáo dục cho trẻ nhỏ từ rất sớm về vấn đề này thực tế không
làm ảnh hưởng xấu tới cách các con nhìn nhận về thế giới cũng như là chuyện xu hướng
tính dục của một người mà còn giúp các bé có cái nhìn màu sắc hơn về cuộc sống và
hiểu được rằng ta cần phải chấp nhận sự khác biệt của nhau để có thể cùng nhau đi lên. 2.5 Tại Việt Nam
Ở Việt Nam từ trước đến nay chưa ghi nhận luật cấm quan hệ tình dục đồng tính.
Pháp luật Việt Nam chưa bao giờ đưa ra luật cấm đối với người đồng tính, luật Hồng
Đức cũng không nhắc đến đồng tính. Khi pháp xâm chiếm nước ta họ cũng không cấm
đoán việc đồng tính trên thuộc địa của họ. Mại dâm nữ là điều vi phạm pháp luật nhưng
luật pháp lại không nói gì với mại dâm nam. Tuy nhiên những hành vi đồng tính có thể 16 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
bị khởi tố dưới các tội danh như “vi phạm luân lý”. Có những trường hợp hiếm hoi mà
hành vi đông tính bị trừng phạt trước pháp luật đó là “ngoại tính” và “hãm hiếp”. Hôn nhân đồng giới
Trước đây vào khoảng năm 1990, đã có một vài đám cưới đồng tính xuất hiện tại các
tỉnh thành. Ngày 7 tháng 4 năm 1997 tại thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện đám cưới
đồng tính đầu tiên là một cặp đông tính nam. Khi được báo đài đưa tin thì đã bị nhiều
người dân phản đối. Đến ngày 7 tháng 3 năm 1998 đã có một cặp đồng tính nữ tổ chức
đám cưới tại Vĩnh Long, nhưng xin giấy kết hôn thì không được chính quyền chấp nhận.
Sau đám cưới này chính phủ đã ban hành lệnh cấm đối với hôn nhân đồng tính vào tháng 6 năm 1998.
Vào năm 2002 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đồng tính luyến ái được xem là vi
phạm pháp luật cần phải bài trừ như “mại dâm” và “ma túy”.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 điều 36 khoản 1 đã
quy định hôn nhân là “một vợ- một chồng, vợ chồng bình đẳng”, do vậy nếu quy định
về kết hợp dân sự (chung sống đồng giới) là việc sai trái với hiến pháp Việt Nam. Vì
nếu chung sống như vậy thì sẽ không có ai là vợ hoặc là chồng. Theo nguyên tắc các
bộ luật phải tuân theo hiến pháp, vì vậy mọi bộ luật tại Việt Nam không được phép công
nhận hôn nhân đông giới. Nhưng năm 2014 Luật hôn nhân và gia đình đã được sửa đổi
Pháp luật Việt Nam đã bỏ lệnh cấm hôn nhân đông giới nhưng cũng không thừa nhạn
hôn nhân đông giới tức là mọi cặp đồng tính đều có thể sống chung với nhau như vợ
chông nhưng không được chấp nhận và khi có mâu thuẫn gì xảy ra họ không được áp
dụng Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết mà sẽ áp dụng Luật dân sự để giải quyết
trước pháp luật. Như vậy ở Việt Nam hôn nhân đồng giới không bị cấm cản và cũng
không được chấp nhận.
Ngoài ra các cặp vợ chồng đồng tính không được nhận con nuôi thành con riêng của
cặp vợ chồng đồng tính. Bên cạnh đó việc mang thai hộ cho cặp đôi đồng tính nam là
hoàn toàn không được vì đây được coi như là một việc buôn bán mại dâm.
Hiện tại về vấn đề sức khỏe của những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ đã có những
cơ sở khám bệnh có cả dành cho những người thuộc cộng đồng này cho thấy việc Việt
Nam có thể không cấm hôn nhân hay quan hệ đồng giới nhưng cũng không hợp pháp
hóa nó nhưng vẫn có thể khiến cho đất nước giúp cho những người thuộc cộng đồng
LGBTQ+ có được cho bản thân họ một môi trường thoải mái nhất có thể, việc Việt Nam
chưa hợp pháp hóa cũng có thể hiểu được vì nếu điều này được thông qua thì sẽ gây ra
nhiều xung đột trong xã hội vì nước ta vừa là một nước Á Đông đồng thời cũng đã có
những suy nghĩ đã ăn sâu vào tiềm thức con người nơi đây nên sẽ khó thay đổi được trong thời gian sớm.
Quyền của người chuyển giới lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
Năm 2005 pháp luật Việt Nam ban hành lệnh cấm cho cho việc chuyển đổi giới tính.
Theo đó, người được phép chuyển đổi giới tính là người được yêu cầu xác nhận lại giới
tính của mình khi họ bị khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc một giới chưa được xác
định chính xác. Bên cạnh đó chính phủ ban lệnh cấm đối với hành vi chuyển đổi giới
tính khi cơ thể hoàn thiện không bị dị tật và đã xác định rõ được giới tính của mình.
Nhưng vào năm 2015, bộ Luật dân sự 2015 đã thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính tại
điều 37 đây là điều nổi bật nhất văn bản. Như vậy việc chuyển đổi giới tính là quyền
quyết định của cá nhân và không còn ai có thể cấm cản được nữa.
Năm 2017 pháp luật ban hành văn bản nói rằng người chuyển đổi giới tính có nghĩa vụ
phải đi thay đổi đăng kí hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Điều này sẽ
mang lại nhiều quyền lợi ích đối với người chuyển đổi giới tính.
Như vậy pháp luật Việt Nam đã cho phép việc chuyển đổi giới tính.
Những quyền vẫn chưa được pháp luật bảo vệ cho cộng đồng LGBTQ+
Tuy là đã được pháp luật chấp nhận giới tính và chấp nhận việc chuyển đổi giới tính
nhưng pháp luật Việt Nam vẫn chưa có nhiều quyền lợi đến với người thuộc cộng đồng LGBTQ+ như:
• Luật chống đối xử trong việc làm: hiện nay còn khá nhiều người kì thị cộng đồng
LGBTQ+ và những ai thuộc cộng đồng LGBTQ+ sẽ được họ giao cho những
công việc nặng nhọc và trả lương không thích đáng
• Luật chống phân biệt đối xử trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ: có những
nơi kì thị cộng đồng LGBTQ+ sẽ mang đến dịch vụ thấp hơn số tiền những người
thuộc cộng đồng LGBTQ+ trả cho họ. Ví dụ như cùng là một số tiền cùng một
dịch vụ nhưng người thuộc cộng đồng LGBTQ+ sẽ không được chăm sốc chu
đáo hơn người bình thường.
• Luật chống phân biệt đối xử trong tất cả các lĩnh vực khác: những người miệt thị
cộng đồng LGBTQ+ họ sẽ thường chế diễu chê bai coi thường người đồng tính
đôi khi là dùng bạo lực.
Vì thế, pháp luật cần ban hành những bộ luật bảo vệ những người đồng tính để mang
lại một xã hội văn minh và công bằng.
2.6 Bất cập trong việc bảo vệ quyền
Mặc dù đồng tính luyến ái đã không còn bị coi là phạm pháp tại nhiều nơi ở phương
Tây, nhiều nước phát triển đã hợp pháp hóa đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người đồng
tính trong công việc, cư trú và dịch vụ. Tính tới năm 2015, đã có hơn 20 quốc gia công
nhận hôn nhân đồng tính. Ngoài ra, nhiều quốc gia khác hiện đã công nhận quyền kết
18 hôn của người đồng tính dưới hình thức kế t h ợp dân sự hoặc đăng ký chung sống, một Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
hình thức để những cặp đôi đồng giới hợp pháp hóa việc chung sống với nhau và hưởng
một số quyền, nghĩa vụ giống như như hôn nhân của các cặp khác giới.
Tuy nhiên, tính đến tháng 7 năm 2015, vẫn có 72 nước có luật hình sự hóa đồng tính
luyến ái, hầu hết số đó nằm ở châu Á và châu Phi. Trong số trên có 7 nước hồi giáo có
hình phạt tử hình với người đồng tính luyến ái. Quyền của cộng đồng LGBTQ+ vẫn
chưa được công nhận ở nhiều nước. Ở những quốc gia Hồi giáo như Indonesia đã ban
hành luật cấm nghiêm khắc chống lại người đồng tính. Quan hệ tình dục đồng tính có
thể bị phạt 20 năm tù và bị đánh roi ở Malaysia. Năm 2003 ở Đài Loan, một dự luật
được đưa ra để công nhận hôn nhân đồng tính đã không đạt đủ số phiếu để thông qua.
Ở Nhật Bản, văn hóa và những tôn giáo lớn không có thái độ thù ghét những cá nhân
đồng tính, nước này không có luật nào chống lại đồng tính luyến ái nhưng hôn nhân
đồng tính thì không được công nhận. Điều này có thể là do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố
như: quan niệm truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo.
Chương 3 : Thực trạng và thay đổi cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+ 3.1 Những nét văn hóa LGBTQ+
* Nghê thuâṭt giả gáiṭ
Giả gái, tên tiếng Anh là “Drag” (Dress
Resembling A Girl – tức là ăn măc giống như môṭ
tṭ cô gái), được khởi nguồn do tình trạng thiếu hụt
diễn viên nữ ở phương Tây nửa cuối thế kỉ XIX,
cho đến hiên nay đã trở thành môṭ t nét đẹp văn
hóaṭ quen thuôc trong côṭ ng đồng người LGBTQ+.ṭ
Nghê sĩ giả gái thường được gọi bằng cái tênṭ
“Drag Queen”. Họ có các buổi trình diễn cũng
như các cuôc thi riêng dưới nhiều hình thức hấp dẫn. Nổi tiếng nhất có thể kể đếnṭ
chương trình thực tế mang tên “RuPaul’s Drag Race”, tạm dịch “Cuôc đua giả gái củaṭ
RuPaul”, được công chiếu trên sóng truyền hình nước Mỹ.
* Nghề làm “đồng cô” lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
Vốn có vẻ ngoài hệt như nam giới, ở từng nghi lễ tôn giáo, lại sẵn lòng hóa thân thành
nữ. Họ trang điểm nổi bật, duyên dáng khi vận lễ phục truyền thống. Số đông ‘đồng cô’
nam tự nguyện sống suốt đời với bản chất nữ tính. * Thời trang Unisex
Hiểu môt cách đơn giản thì đây là phong cách thời trang không phân biêṭ t giới
tính.ṭ Đây hoàn toàn chẳng phải style nam măc đồ nữ, nữ măṭ c đồ nam như nhiều
ngườiṭ nhầm tưởng – Unisex chỉ đơn giản là môt kiểu diêṭ n đồ mà ở đó người măṭ c
xóa nhòaṭ hoàn toàn ranh giới giữa nam và nữ.
Với phong cách thời trang này, sẽ không còn kiểu quần áo gì được định nghĩa môtṭ
cách chính xác nữa. Áo bèo nhún không còn là môt loại áo nữ, áo vest cũng khôngṭ còn
là đồ nam. Các chàng trai và cô gái chỉ cần phát triển môt gu ăn măṭ c riêng biêṭ t, cáṭ
tính từ nền tảng là những món đồ mà mình thích nhất. Hiên nay Unisex đã phát triểnṭ
trở thành môt phong cách đôṭ c lâṭ p, có thị trường riêng, nhà sản xuất riêng, dòng sảnṭ phẩm riêng. * Những t� lóng
Cũng do đăc thù phải sống trong môi trường nhiều sự kì thị, phân biêṭ t nên
ngườiṭ LGBTQ+ sử dụng nhiều từ lóng hơn bất cứ đối tượng nào khác trong xã hôi. Có
cácṭ từ lóng dùng để tự châm biếm, trào phúng; cũng có các từ lóng dùng với ý nghĩa
tốt đẹp là đề cao, trân trọng. Ví dụ, nhiều người LGBTQ+ khi trò chuyên hay tự gọi
mìnhṭ là “bóng” hay “bê đê” để tạo tiếng cười. Còn các từ lóng không mang ý xấu thì
thường chỉ có các từ gốc Anh, tiêu biểu nhất là “bi” (viết tắt của Bisexual chỉ người song tính).
*Ngày hôi Tự hào Đồng tínhṭ
Có thể nói đây là thành tựu đăc biêṭ t nhất trong công cuôṭ c kiến tạo môṭ t nền văn
hóaṭ đâm đăṭ c "chất" riêng của người LGBTQ+. Trước khi hình thành hẳn môṭ t
20 ngày hôṭ i choṭ riêng mình, người LGBTQ + đã có định nghĩa riêng chỉ niềm tự hào về Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
nhân thực giớiṭ tính và thiên hướng tình dục của riêng mình. Họ dùng các cụm từ "gay
pride" hay "LGBTQ+ pride" để đăc biêṭ t nói lên điều đó.ṭ
Sau cuôc bạo đôṭ ng Stonewall, môṭ t dấu mốc quan trọng trong lịch sử đấu tranh vìṭ
quyền LGBTQ+, môt lễ hôṭ i mang tên "Pride Parade" ra đời với mục đích kỉ niêṭ m.ṭ
Dần dần nó trở thành hoạt đông thường niên được côṭ ng đồng LGBTQ+ tổ chức ở rấtṭ
nhiều nước trên thế giới. Người LGBTQ+ sẽ diễu hành, ca hát, biểu diễn để bày tỏ sự
tự hào, niềm tin của mình. Các cuôc diễu hành tự hào thường rất sôi đôṭ ng, rực rỡ, đầyṭ
ắp sắc màu, chứng tỏ người LGBTQ+ đã ý thức được sâu sắc về giá trị bản thân. Đây
cũng là môt hoạt đôṭ ng văn hóa đăṭ c biêṭ t có khả năng gắn kết to lớn, đem đến choṭ
người đồng tính cơ hôi được giao lưu, tiếp xúc với nhiều người giống mình.ṭ
3.2 Cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+Q+
Cách nhìn nhận cộng đồng LGBTQ+ ở thế giới và Việt Nam: Thế giới
Cách nhìn nhận về cộng đồng LGBTQ+ rất đa dạng và mỗi nước mỗi lãnh thổ sẽ
có cách nhìn khác nhau. Quyền lợi ở mọi nơi cũng rất khác nhau. Cách suy nghĩ của
người châu âu và châu mỹ rất khác với người châu á. Người châu âu và châu mỹ sẽ theo
xu hướng hiện đại luôn tìm hiểu và thực hiện những thứ mới mẻ còn ở châu á con người
sẽ có chiều hướng hoài niệm, muốn gìn giữ phong tục tạp quán, suy nghĩ sẽ lạc hậu hơn
người phương tây. Vì vậy cộng đồng LGBTQ+ tại các quốc gia phương đông sẽ được
tự do và ít bị kì thị hơn. Còn tại châu á cộng đồng người LGBTQ+ sẽ bị kiềm chế và bị
kì thị nhiều hơn, thậm chí có những nước tử hình những người công khai mình thuộc
cộng đồng LGBTQ+ như Ả Rập Xê-út, các tiểu vương quốc Ả Rập,…
Trên thế giới có rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng “come out” công khai rằng họ là người
thuộc cộng đồng LGBTQ+ như: Lil Nas X, Lilly Singh, Sam Smith,… khi mới công
khai giới tính thật của mình họ nhận lại rất nhiều sự chỉ trích, gạch đá nhưng sau đó họ
đã chứng minh rằng người đồng tính không hề kém cỏi thậm chí họ còn giỏi hơn rất nhiều.
Đã có rất nhiều đám cưới của các cặp hôn nhân đồng tính diễn ra trên thế giới, tróng
đó có rất nhiều cặp nổi tiếng như: Both và Newyear, Quintus và Kenny, Nate Berkus và
Jeremiah Brent,… trong số đó cũng có những người là tỉ phú, ca sĩ, diễn viên. Những
cặp đôi này được các bạn trẻ ủng hộ và chúc phúc cho họ.
Bên cạnh những người ủng hộ cộng đồng LGBTQ+ thì rất nhiều người đã có thái độ
kì thị, chê bai cộng đồng LGBTQ+. Theo như thống kê của Mỹ thì trong 4 người thì có
1 người bị phân biệt đối xử trong công việc. họ thường được giao những công việc nặng
nhọc hơn nhưng vẫn được trả lương với số tiền bình thường thậm chí còn thấp hơn.
Ngay cả một nền văn minh phóng thoáng như Mỹ vẫn có những sự kì thị đối với người
đồng tính như vậy thì ở các nước không phát triển bằng sẽ cư xử với họ như thế nào?
Ngoài việc bị phân biệt đối xử trong công việc thì ngay cả các dịch vụ mà người của
cộng đồng LGBTQ+ sử dụng vẫn có sự phân biệt chẳng hạn như không được chăm sóc lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
đúng với giá cả dịch vụ, lấy giá dịch vụ cao hơn người bình thường, nhân viên luôn tỏ
thái độ khi chăm sóc cho họ,… thậm chí có những nơi tác động tay chân và tác động
vào tâm lý của người đồng tính.
Cộng đồng người LGBTQ+ cần được đối xử như những người khác, họ cũng à con
người, họ lao động bằng chính sức lực của họ. Cần cho họ một sự bình đẳng và công
bằng như những giới tính khác. Việt Nam
Tại Việt Nam vào những năm trước 2000 sự phân biệt đối xử đối với người đồng
tính là rất nhiều. Hầu như người nào cũng phân biệt kì thị họ nhưng từ khi suy nghĩ của
người phương tây du nhập vào Việt Nam sự phân biệt đó ngày càng ít đi. Suy nghĩ của
người Việt Nam dần phóng thoáng và thoải mái hơn. Trước đây khi có người tự nhận
mình là người đồng tính thì ai cũng xa lánh tránh né họ nhưng bây giờ cộng đồng người
đồng tính dường nhưu không thể thiếu trong cuộc sống của người Việt Nam vì họ luôn
chứng mình rằng người đồng tính rất thông minh và rất giỏi. Ví dụ như: Thái Công, BB
Trần, Link Lee,… có rất nhiều người nổi tiếng đã công khai giới tính của họ và người
Việt Nam cảm thấy chuyện đó rất bình thường.
Ngoài những biểu hiện tốt của người Việt Nam đối với cộng đồng LGBTQ+ thì cũng
có rất nhiều gameshow tổ chức ra chỉ để cho cộng đồng người đồng giới tham sự như
Come out - bước ra ánh sáng, Người ấy là ai,… là những gameshow rất “hot” tổ chức
ra để cho những bạn trẻ muốn cho gia đình biết nhưng không dám nói thì các chương
trình này sẽ tạo cơ hội cho họ dám khẳng định mình nhằm tạo cho họ một cuộc sống là
chính mình mà không cần phải che đậy.
Không chỉ thế Việt Nam có rất nhiều người thuộc cộng đồng LGBTQ+ mà cả thế
giới biết đến. Hoa hậu chuyển giới Hương Giang là một ví dụ, cô từng tham gia cuộc
thi hoa hậu chuyển giới tại thái lan và nhận được giải “hoa hậu tài năng” và “người đẹp
truyền thông”. Cô cũng tham gia nhiều chương trình với nhiều vai trò như huấn luyện
viên, người mẫu, ban giám khảo,… Nhà thiết kế Thái công cũng là một ví dụ mình
chứng cho việc người thuộc cộng đồng LGBTQ+ rất giỏi khi ông đã tạo ra nhũng mẫu
thiết kế nội thất hàng nghìn đô. Ông cũng từng thiết kế nội thất không gian cho rất nhiều
ngôi nhà của những người nổi tiếng như: Wladimir Klitschko, Barbara Schöneberger,
Rafal van der Vaart. Và nhiều khách sạn cao cấp như: The George, tòa Marco Polo
Tower, và phố Sophienterrasse ở Hamburg. Có thể thấy cộng đồng LGBTQ+ vô cùng
vững mạnh và thông minh tại Việt Nam, họ đạt được nhiều thành tựu, nhiều giải thưởng
của nước ngoài. Từ đó khiến cho suy nghĩ của những người chưa biết gì về LGBTQ+
sẽ thấy họ là một người không hề tầm thường. 22 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
Tóm lại tình hình phân biệt đối xử với cộng đồng LGBTQ+ tại Việt Nam đã và đang
ngày càng giảm đi thay vào đó là sự thân thiện của mọi người đến với người đồng giới.
Những suy nghĩ hiện đại này khiến cho Việt Nam trở nên là một đất nước văn minh và phát triển.
3.2.1 Nguồn gốc của HIV và những bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục khác :
Hiện tại các nghiên cứu đã chỉ ra việc người dị tính hiện đang có số lượng người
nhiễm HIV cao hơn so với người đồng tính nhưng vì những ca nhiễm đầu tiên của căn
bệnh thế kỉ này là những người có quan hệ đồng tính nên nhiều người vẫn còn đỗ lỗi
cộng đồng LGBTQ+Q+ vì vấn đề trên. Nguồn gốc của HIV :
Nguồn gốc của AIDS và HIV đã làm đau đầu các nhà khoa học từ khi phát hiện được
những ca bệnh đầu tiên vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Cách đây 35 năm, các
bác sĩ Mỹ lần đầu chạm trán với virus đáng sợ và bí ẩn mang tên HIV, thủ phạm cướp
đi sinh mạng những thanh niên trẻ tuổi, sung sức bằng cách phá hoại hệ miễn dịch vốn
đang khỏe mạnh của họ.
Khi đó, HIV dường như là một thảm họa đáng sợ, xuất hiện bất ngờ và không rõ
nguồn gốc. Tiến bộ khoa học ngày nay đưa ra cái nhìn cặn kẽ hơn về cách thức và
nguyên nhân virus HIV gây bệnh AIDS trở thành đại dịch toàn cầu.
Mại dâm đã vô tình tiếp tay cho đại dịch hiểm nghèo này lan khắp thế giới. Vai trò
của giao thương, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân và những chuyển biến chính trị xã
hội trong thế kỷ 20 cũng góp phần không nhỏ vào sự bùng phát của AIDS.
HIV, theo nghiên cứu của giới khoa học, có thể bắt nguồn từ virus SIV gây chứng
suy giảm miễn dịch trên khỉ và khỉ không đuôi ở miền tây Trung Phi. Từ các loài linh
trưởng này, virus lây sang người qua nhiều hình thức, một trong số này có thể là món
thịt thú rừng mà người châu Phi vẫn săn bắn làm thức ăn.
Theo quan sát của giới nghiên cứu, một số bệnh nhân mang chủng HIV có họ hàng
với virus tìm thấy trên loài khỉ nhỏ sooty manabey sống ở châu Phi. Song chủng virus
xuất hiện ở loài khỉ này không trở thành vấn nạn toàn cầu.
Có họ hàng gần gũi hơn với con người là khỉ không đuôi như gorilla hoặc vượn,
nhưng ngay cả khi HIV có nguồn gốc từ chúng truyền sang người cũng không gây thành
đại dịch mà nhân loại đối mặt vào thế kỷ 20. Chủng HIV xuất phát từ khỉ không đuôi
thuộc tuýp HIV-1. Trong đó, các ca nhiễm HIV-1 nhóm O chỉ giới hạn ở vùng Tây Phi.
Ngoài ra những người đồng tính khi quan hệ vẫn có thể nhiễm một số bệnh khác như: Bệnh lậu .
Bệnh nhiễm chlamydia đường sinh dục
Bệnh trùng roi đường sinh dục lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì Bệnh hạ cam mềm Bệnh giang mai
Bệnh mụn rộp sinh dục (herpes sinh dục ) Bệnh viêm gan B
3.3 Các hoạt động, đề xuất để lấy lại quyền bình đẳng cho cộng đồng LGBTQ+
3.3.1 Các hoạt động hiện có :
- Tháng tự hào (Pride Month): được bắt đầu vào tháng 6 cụ thể là vào ngày 28.6.1970
tại New York đã diễn ra cuộc diễu hành về sự tự hào, bình đẳng của những người
thuộc cộng đồng LGBTQ+. Sự kiện này đã trở thành truyền thống hằng năm và
được liên tục tổ chức cho đến nay.
- Cuộc thi sắc đẹp là nơi tôn vinh nét đẹp của người chuyển giới hoặc đồng tínhđược
các quốc gia tổ chức và phát triển đến nay:
+ Miss International Queen (hoa hậu chuyển giới Quốc tế) – Thái Lan.
+ Mr Gay World (hoa vương Đồng tính thế giới) – Úc.
+ Mister Gay World (Nam vương Đồng tính Thế giới) – Úc.
+ Queen of the Universe Pageant (Cuộc thi Nữ hoàng Vũ trụ) – Hoa Kỳ.
+ Miss Trans Star International (Hoa hậu Ngôi sao Chuyển giới Quốc tế) – Tây Ban Nha.
+ Mister Gay Eupore (Nam vương Đồng tính Châu Âu) – Anh Quốc.
+ Miss Trans Star (Hoa hậu chuyển giới Toàn cầu) – Anh Quốc.
- Cờ lục sắc là biểu tượng cho niềm kiêu hãnh của cộng đồng LGBTQ+ và được sử
dụng từ thập niên 1970. Mỗi màu trên lá cờ cũng mang một ý nghĩa riêng như:
+ Màu đỏ tượng trưng dũng khí.
+ Màu cam tượng trưng nhận thức và khả năng.
+ Màu vàng tượng trưng sự thử thách.
+ Màu xanh lá cây tượng trưng sự khích lệ và phấn đấu.
+ Màu xanh dương tượng trưng sự hi vọng, sẻ chia, đấu tranh và giúp đỡ nhau.
+ Màu tím tượng trưng sự hòa hợp, thống nhất và đoàn kết.
Bên cạnh đó có những lá cờ thể hiện một nhóm giới tính trong cộng động lớn.
- Cờ của người đồng tính nữ (Lesbian): 7 vạch thể hiện 7 màu son khác nhau, được xuất hiện từ năm 2010.
- Cờ của người song tính (Bisexual): màu hồng thể hiện cho sự hấp dẫn với người
cùng giới, màu xanh thể hiện sự cho hấp dẫn với người khác giới, màu tím thể hiện
cho sự hấp dẫn với cả hai giới và lá cờ được thiết kết bởi Michael Page vào năm 1998.
- Cờ của người toàn tính (Pansexual): lá cờ được xuất hiện vào giữa năm 2010 với
những màu sắc tượng trưng khác nhau: màu hồng thể hiện cho người phụ nữ đã 24 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
xác định giới tính; màu vàng thể hiện cho người khác giới, không có giới tính hoặc
người thuộc giới tính thứ 3; màu xanh thể hiện cho sự thu hút với đàn ông.
- Cờ của người vô tính (Asexual) với ý nghĩa của từng sọc màu là: + Sọc đen là song tính.
+ Sọc xám được chia làm 2 nhóm:
+ Grey-asexual: những người hứng thú với tình dục nhưng không thường xuyên
hoặc chỉ ở mức tối thiểu.
+ Demisexual: những người chỉ cảm thấy hứng thú tình dục với những người có mối
liên kết cảm xúc chặt chẽ.
+ Sọc trắng đại diện cho những người ủng hộ.
+ Sọc tím thể hiện cộng đồng vô tính như một thể hoàn chỉnh.
- Cờ của người chuyển giới (Transgender) gồm màu hồng đại hiện cho người chuyển
giới nữ, màu xanh đại diện cho người chuyển giới nam còn khoảng trắng đại diện
cho những người không muốm dán nhãn chính mình.
- Cờ của cộng đồng GenderQueer là những người cảm nhận về giới của bản thân
không phù hợp với bất kì những khái niệm truyền thống nào về giới của xã hội.
3.3.2 Các hoạt động, đề xuất trong tương lai :
- Những vấn đề về LGBTQ+ nên được lồng ghép trong các chương trình giáo dục
giớitính hiện nay. Tổ chức các dự án, hội thảo, talkshow về LGBTQ+ để nâng cao
nhận thức cho giáo viên, phụ huynh, học sinh”, thúc đẩy sự kết nối, giao lưu và chia
sẻ với Cộng đồng LGBTQ+. Với các chuyên gia cần nghiên cứu sâu về vấn đề
LGBTQ+, để tạo sự thấu hiểu, cảm thông, thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền
cho các đối tượng yếu thế trong xã hội, trong đó có Cộng đồng LGBTQ+.
- Truyền thông, báo chí có trách nhiệm góp phần xóa bỏ kỳ thị với đa dạng giới
tính.Phương tiện truyền thông giữ vai trò quan trọng và tiên phong trong xóa bỏ
những định kiến của xã hội đối với người đồng tính. Việc thông tin chân thật, chính
xác, khoa học và khách quan về người đồng tính trên báo chí sẽ giúp cộng đồng biết,
hiểu hơn về người đồng tính, giúp họ an tâm sống, học tập, làm việc đóng góp tích
cực để xây dựng xã hội phát triển”.
- Khuyến nghị, mở rộng nguyên tắc bình đẳng về giới trong Hiến pháp và các đạo
luậtcó liên quan để bảo đảm ngăn ngừa sự phân biệt đối xử không chỉ về giới mà
còn về bản dạng giới và xu hướng tính dục. Cụ thể, nên mở rộng quy định “Cấm
mọi hành động phân biệt đối xử về giới” trong khoản 3, Điều 26 Hiến pháp 1992
sửa đổi, bổ sung năm 2013, thành “Nghiêm cấm mọi hành động phân biệt đối xử về
giới, bản dạng giới và xu hướng tính dục”. Theo hướng đó, cần sửa đổi Luật Bình
đẳng giới 2006 để mở rộng phạm vi điều chỉnh, hoặc xây dựng một đạo luật riêng
về chống phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, trong đó có phân biệt đối xử về giới,
bản dạng giới và xu hướng tính dục. Để có thể ngăn chặn các tình trạng kì thị, bạo
hành, phân biệt đối với cộng đồng LGBTQ+. lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
- Khuyến nghị sửa đổi Luật Bình đẳng giới. Với quy định hiện hành của Luật
Bìnhđẳng giới, các khái niệm mới chỉ dừng lại ở “giới” và “giới tính”. Trong khi đó,
các khái niệm mới như “xu hướng tính dục” hay “bản dạng giới” ngày càng trở nên
phổ biến và đang có nhiều cách hiểu đa dạng trong xã hội. Có quan điểm cho rằng
cần luật hóa các khái niệm mới này và bổ sung quy định bình đẳng giới phải thể
hiện cả quan điểm không phân biệt đối xử vì xu hướng tính dục và bản dạng giới,
không chỉ đơn thuần vì các khác biệt về “giới” hay “giới tính” (giới tính sinh học).
Bình đẳng giới cũng cần được hiểu không chỉ là bình đẳng giữa hai giới mà cần
được hiểu là bình đẳng giữa tất cả mọi người mà giới tính không đóng vai trò như
một “cột mốc” hay một tiêu chí dùng để phân chia quyền. Như vậy cũng loại bỏ
được định kiến của xã hội về giới và hệ nhị phân giới (chỉ có hai giới nam và nữ).
- Khuyến nghị sửa đổi Luật Hộ tịch, nên cho phép xác định một giới tính “khác” vàsửa
đổi các mẫu giấy tờ nhân thân (chứng minh thư, lý lịch cá nhân, sổ hộ khẩu,. .) để
có thêm mục giới tính “Khác” bên cạnh hai giới tính “nam”, “nữ”. Bởi theo quy
định hiện nay tại Điều 36 Bộ Luật Dân sự và Nghị định 88/2008/NĐ-CP về xác định
lại giới tính, người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định
hình chính xác dựa trên những tiêu chuẩn về y tế nhất định (người liên giới tính)
được quyền “xác định lại giới tính” và thực hiện các thủ tục về điều chỉnh các thông
tin hộ tịch cho đúng với thông tin về giới tính đã được xác định lại. Còn với người
chuyển giới, do việc thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính là không được pháp
luật cho phép nên giới tính sau chuyển đổi của nhóm đối tượng này sẽ không được
ghi nhận trong các văn bản như Chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân,
Giấy đăng ký khai sinh. Việc sửa đổi này là vô cùng quan trọng nhằm nhấn mạnh,
xác định sự vững chắc hơn quyền bình đẳng của cộng đồng đồng LGBTQ+ trong
các quan hệ dân sự. nhằm ghi nhận và thực thi các quyền mà không bị phân biệt đối
xử trên cơ sở xu hướng tính dục và bản dạng giới, dưới góc độ bảo đảm quyền con
người mà Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế.
- Các phương tiện thông tin đại chúng không được phép dùng những từ ngữ phản
cảmđối với cộng đồng LGBTQ+ và có những bài viết phiến diện, miệt thị người
đồng tính. Truyền thông nên tìm hiểu và đưa tin có khoa học để bản thân người viết
và dân chúng hiểu biết đúng về người đồng tính. Bên cạnh đó, ngành y tế cần có
những chính sách dành cho người đồng tính để hướng dẫn người đồng tính có lối
sống lành mạnh và biết cách bảo vệ chính bản thân và người xung quanh mình.
- Nên mở những lớp học về quan hệ tình dục an toàn và đặc biệt về việc quan hệ
đồnggiới vì hiện tại có một thực trạng đáng quan ngại rằng người Việt Nam gần như
không quan tâm đến sức khỏe của mình trong các vấn đề về tình dục và dần phải
chịu đựng những tác hại từ nó. Nếu có đủ sự sáng tạo có thể lồng ghép việc này vào 26 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
trong chương trình giảng dạy dành cho các học sinh ở mọi lứa tuổi để các em có thể
hiểu rõ được vấn đề này và khi tiếp cận sẽ thấy được sự thông minh và hiểu biết về
vấn đề chứ không phải là sự ngại ngùng, né tránh.
- Mở những talk show hoặc các phim tài liệu lấy những cá nhân nổi bật trong
cộngđồng LGBTQ+ ( thường nên bắt đầu từ cộng đồng Transgender) để ta có thể
hiểu hơn những gì họ đã trải qua, những thành tựu của họ sau khi đi đến quyết định
đánh đổi cả mạng sống của mình để có thể có được hình ảnh hiển diện trước gương
là một người nam hay nữ như ý họ mong muốn.
- Có những bộ phim truyền hình thực tế để có thể giáo dục giới tính tốt nhất như
bộphim “Sex education” của Netflix, qua đó sẽ có cái nhìn thực tế hơn về những gì
cộng đồng LGBTQ+ phải trải qua tại một môi trường là một nước Châu Á.
- Có những danh xưng nhất định cho các giới tính. Đối với gay hoặc les thì tại
nướcngoài danh xưng của học vẫn là He/She ( anh ta / cô ta) nhưng những người là
nonbinary lại dùng là They, nên đối với các nước như Việt Nam dùng từ “họ” để nói
1 người duy nhất nghe có vẻ không thuận tai thì các tốt nhất là chúng ta nên thử làm
quen với suy nghĩ trên hoặc một cách lịch sự hơn để ta có thể cho họ thấy rằng ta có
quan tâm đến họ và việc họ muốn mình được gọi như thế nào thì ta có thể hỏi trực
tiếp hoặc đơn giản là kêu thân mật bằng tên của họ. Khi thực hiện khảo sát, có
615/615 người đồng ý với đề xuất nên cho cộng đồng LGBTQ+ được quyết định
danh xưng của mình nhằm tạo sự bình đẳng giữa các giới.
- Nhiều phụ huynh có tư tưởng rằng việc cho con cái tiếp xúc với những kiến thức
liênquan tới đồng giới sẽ khiến con họ trở thành như vậy. Điều này là hoàn toàn sai.
Ta có thể cho trẻ nhỏ có cái nhìn sáng tạo hơn về cộng đồng LGBTQ+ bằng cách
lồng ghép các kiến thức vào các bộ phim hoạt hình trẻ em hay xem. Một ví dụ điển
hình cho việc này có thể kể đến đó là bộ phim Steven Universe. Chính tác giả
Rebecca Sugar cũng đã xác nhận việc bộ phim có những yếu tố ủng hộ cộng đồng
LGBTQ+ và bộ phim không chỉ dành cho trẻ nhỏ mà những thông điệp phim đem
lại vô cùng phù hợp cho cả người lớn. Các nhân vật đá quý trong phim tuy có ngoại
hình nữ tính đa phần nhưng về cơ bản họ đều không có giới tính. Nhân vật Garnet
là sự “dung hợp” giữa 2 đá quý khác là “Ruby” và “Sapphire” nhìn bề ngoài gần lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
như sẽ không đánh giá được việc gì cho đến khi thấy được tập phim về lễ cưới của hai nhân vật này.
Và khi tham gia khảo sát trong tổng số 615 người ngẫu nhiên thì 100% người đồng
ý với việc nên giáo dục trẻ em từ nhỏ về các vấn đề giới tính, cũng như việc bình đẳng
giữa các giới nhằm nâng cao nhận thức, cũng như loại bỏ các vấn nạn kì thị ngừoi đồng tính trong tương lai.
3.4 Một số cá nhân nổi bật thuộc cộng đồng LGBTQ+
Những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ luôn cố gắng hết mình để có thể tạo nên sự
khác biệt, tạo những giá trị tốt cho xã hội để mọi người có cái nhìn khác đi về cộng
đồng LGBTQ+. Trong đó có thể kể đến một số gương mặt như : 28 -BB Trần: Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
BB Trần là một trong những nghệ sĩ Việt Nam, là một người hết lòng ủng hộ giới đồng
tính nói chung và cộng đồng LGBTQ+ nói riêng, BB Trần không ngại ông khai giới
tính của mình từ rất sớm, không ngần ngại tham gia các chương trình ủng hộ LGBTQ+.
BB Trần cũng nói rằng: “LGBTQ+ cũng như những người bình thường, cũng sống cũng
làm việc cũng cống hiến cho xã hội, tất nhiên sẽ có những thành phần xấu nhưng đừng
vì vậy mà đánh đồng cả cộng đồng LGBTQ+… Việc đem cả động đồng ra soi mói có
phải là quá bất công không? Thà mọi người nói BB sao cũng được, nhưng đừng đụng tới LGBTQ+."
- Hương Giang: Là một trong những hoa hậu chuyển giới nổi tiếng, với sự tài năng
cùng với tên tuổi, Hương Giang ngày càng được công chúng biết đến nhiều hơn.
Hương Giang là đại diện Việt Nam bước vào vòng chung kết và giành được vị trí cao
nhất của cuộc thi Hoa hậu chuyển giới quốc tế 2018. Chiến thắng này không chỉ có ý
nghĩa đối với Hương Giang mà còn là một cột mốc quan trọng trên con đường khẳng
định bản thân của cộng đồng LGBTQ+ Việt Nam. Sau khi giành được vị trí cao nhất
tại cuộc thi Hoa hậu chuyển giới quốc tế 2018, Hương Giang đã khởi động chiến dịch
ủng hộ Luật chuyển đổi giới tại Việt Nam, chiến dịch này như một “phát súng” đầu
tiên trên con đường giành lấy quyền lợi cho cộng đồng LGBTQ+. Với danh hiệu mà
bản thân đã đạt được, cô đã giữ đúng lời hứa của mình, lấy đó làm bàn đẩy để bảo vệ
cộng đồng LGBTQ+ tại Việt Nam và thực hiện vô số dự án khác cho cộng đồng LGBTQ+. lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
- “Come out” là một cụm từ phổ biến trong cộng đồng LGBTQ+ nó được xem là
mộtcụm từ mang ý nghĩa công khai xu hướng tình dục của mình cho gia đình, xã hội
nên đặc biệt quan trọng trong cộng đồng LGBTQ+. Thậm chí nó còn được xem là đại
ngôn cho cả cộng đồng. Mang ý nghĩa cho sự kết thúc quá trình nhận thức, chấp thuận,
chuẩn bị đến khi cởi mở chia sẻ nó cho người khác
- Việc dám “Come out” là một việc rất khó khăn cho đa số các bạn thuộc cộng
đồngLGBTQ+ nhưng ngày nay một số người nổi tiếng, có sức ảnh hưởng đã dám
đứng ra “Come out”. Điều này đã cổ vũ, động viên, tạo sức mạnh cho các bạn khác trong cộng đồng
- Điển hình là những gương mặt: • Lil Nas X
Lil Nas X là một nghệ sĩ rapper người Mĩ, đồng thời cũng là chủ của hit “Old Town
Road” đã thông báo với công chúng mình là người đồng tính qua mạng xã hội Twitter 30 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
vào tháng 6 năm 2021 bằng cách đăng tải bìa single “Panini” của mình với hình ảnh
cầu vồng để xác nhận với người hâm mộ mình là người đồng tính. Trước đó nam ca sĩ
cũng đã nhiều lần đăng bài ủng hộ cộng đồng LGBTQ+ • Sam Smith
Sam Smith là một ca sĩ – nhạc sĩ người Anh, anh đã thừa nhận mình là một
“nonbinary” (người không cảm nhận rõ rằng mình là nam hay nữ) trong một chương
trình có tên là “I Weigh Interviews” với người dẫn chương trình Jameela Jamil. Nam ca
sĩ còn nhiều lần được phóng viên bắt gặp hạnh phúc với bạn trai trên phố.
Ở Việt Nam cũng có nhiều ca sĩ, nghệ sĩ “come out” mình là người thuộc cộng đồng LGBTQ+. Điển hình: • Đào Bá Lộc
Đào Bá Lộc debut từ thời điểm tham gia Giọng hát Việt,
nam ca sĩ theo đuổi style unisex thời gian dài trước khi
chính thức come-out với báo giới vào năm 2018. Đào Bá
Lộc công khai chuyện mình thuộc giới tính thứ 3 và từng
yêu 15 người đàn ông. Với những phát ngôn thẳng thắn
về chuyện tình cảm, người hâm mộ cho rằng Đào Bá Lộc
rất phóng thoáng trong chuyện tình yêu và chỉ mới 26 tuổi
đã có danh sách tình trường hoành tráng. • Lynk Lee Thời gian gần đây, Lynk Lee khiến
người hâm mộ phải bàng hoàng khi chính
thức công khai loạt ảnh mới với diện mạo
đầy nữ tính trên mạng xã hội. Chia sẻ về điều
này, nam ca sĩ thừa nhận rằng với ngoại hình
nữ tính như hiện tại, Lynk Lee cảm thấy thoải mái hơn khi được sống lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì
đúng với bản thân chứ không phải gồng lên như ngày trước.
Việc "come out" đối với cộng đồng LGBTQ+ chưa bao giờ là một chuyện dễ dàng. Điều
này càng là một thử thách lớn đối với các nghệ sĩ, những người luôn sống dưới áp lực
cùng lời nhận xét từ phía công chúng. Vậy nhưng, vẫn có những ngôi sao vô cùng can
đảm khi không chỉ "come out" với xã hội mà họ còn dùng sức ảnh hưởng và độ nổi
tiếng của mình để xây dựng nên hình ảnh tốt đẹp cho cộng đồng LGBTQ+ 32 Nhóm thực hiện:04 lOMoAR cPSD| 27879799 Tiểu luận cuối kì KẾT LUẬN
Nhìn chung việc hợp pháp hóa tại Việt Nam ngay lập tức là điều bất khả thi do sẽ gặp
rất nhiều ý kiến khác nhau và dễ dẫn đến sự phản động hay những lời ác ý như là học
từ nước ngoài làm mất đi giá trị của đất nước hay thậm chí bán nước. Trên thực tế việc
này không hề làm mất đi giá trị của con người Việt Nam và càng không hề làm suy
thoái nòi giống của người Việt. Các cá nhân thuộc cộng đồng đã và đang cố gắng để
được công nhận trong xã hội này vì nước ta vẫn đang khá trung lập trong vấn đề trên.
Nếu ta cố gắng một thì họ phải cố gắng mười và áp lực họ phải chịu đựng trong cuộc
sống cũng tương tự. Các câu nói như “Trong giới này không có tình yêu đích thực”,
việc phải cố gắng chứng tỏ để được xã hội công nhận giá trị của mình rằng cho dù mình
là ai, giới tính nào mình cũng đang đóng góp và cống hiến hết sức mình cho đời, việc
phải giấu giếm gia đình về việc mình là ai và phải làm thế nào để có được sự chấp nhận
từ chính những người trong gia đình cũng là một thử thách. Việc ta cho những người
thuộc cộng đồng LGBTQ+ một môi trường thoải mái cũng chính là ta đang giúp nước
ta đi lên, như cách ta áp dụng công nghệ vào sản xuất đây chính cách là ta áp dụng
những suy nghĩ mới, phá đi những định kiến cũ không còn phù hợp với đời sống của
con người hiện đại. Duy trì nòi giống không nên là cái cớ để ngăn cản các mối quan hệ
đồng tính, nếu lấy việc không thể sinh con và việc duy trì nòi giống để làm cái cớ không
khác gì đang đồng thời công kích các cặp đôi dị tính bị vô sinh. Vì thế, việc hiện tại ta
nên làm là không ngừng đấu tranh dần dần giúp mọi người có cái nhìn cởi mở hơn về cộng đồng LGBTQ+. Tài liệu tham khảo
https://www.slideshare.net/trongthuy1/luan-van-quyen-cua-nguoi-dong-tinh- chuyen-gioi-theo-phap-luat
https://thosuaxe.info/LGBTQ+-la-gi/
https://vi.wikipedia.org/wiki/LGBTQ+#Lu%E1%BA%ADt_ph%C3%A1
Tháng tự hào: https://baophapluat.vn/ban-da-biet-gi-ve-thang-tu-haoLGBTQ+- post397942.html
Những cuộc thi sắc đẹp về người chuyển giới và đồng tính:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_c%C3%A1c_cu%E1%BB
%99c_thi_s%E1%BA%AFc_%C4%91%E1%BA%B9p
Cờ lục sắc: https://meta.vn/hotro/co-LGBTQ+-8877
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B4n_nh%C3%A2n_%C4%91%E1%BB %93ng_gi%E1%BB%9Bi
https://trainghiemsong.vn/hon-nhan-dong-gioi-co-nen-hop-phap-hoa-hay- khong/
https://ladigi.vn/ban-dang-gioi-la-gi-chi-tiet-ve-ban-dang-gioi-moi-nhat-2021
https://thanhnien.vn/bb-tran-noi-toi-sao-cung-duoc-nhung-dung-dong-den-
cong-dong-LGBTQ+-post813519.html
https://www.yan.vn/viec-lam-y-nghia-dau-tien-cua-hoa-hau-huong-giang-cho- cong-dong-LGBTQ+-170926.html