lOMoARcPSD| 23136115
Người lái đò sông Đà
Vẻ đẹp trữ tình :
Nếu như đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà nhà văn đã sdụng rất nhiều những
kiến thức về quân sự hay cõ thuật, nhiều động từ mạnh thì ở đoạn văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình
của con sông, ông hoàn toàn sử dụng con mắt tinh tế quan sát và ngòi bút lãng mạn của mình
để vẽ lại con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà ở nhiều góc độ khác nhau
để có một cái nhìn toàn diện. Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn
ngèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người
thiếu nữ kiều diễm: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “ tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước
mắt người đọc sự tận của dòng sông. Phép so sánh nhưmột áng tóc trữ tìnhtạo nên vẻ
đẹp kiêu sa của sông Đà, nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng
này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm cho con sông trở nên hiểm. Đọc đoạn văn ta như đi vào
chốn bồng lai vừa thực vừa mộng. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông
là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân hóa đó làm cho con sông gần
gũi hơn. Tản Đà cũng đã từng viết:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà”
hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu nhìn xuống dòng nước ng Đà”, ông thấy dòng
sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao u sắc biến đổi diệu kì: “mùa
xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không phải con sông đen như
“thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào gọi bằng một cái tên Tây o
lếu”. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác
nhau. Mùa xuân, ớc sông Đà xanh ngọc ch “chứ không xanh màu xanh canh hến của
nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích xanh trong, xanh sáng, xanh biếc một sắc
màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của
núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép
so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn
lOMoARcPSD| 23136115
Tuân. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi.
Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.
Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện đôi bsông: “cảnh ven sông này cũng lặng tờ đến thế thôi”,
“bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, ơm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ mộng “Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ
đẹp nguyên của dòng sông. Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, c giả đã phát hiện được
thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với người nghệ là sự
tĩnh lặng nhẹ nhàng: “Hình như từ đời đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến
thế thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ của hiện tại, trôi ngược về quá khứ xa
xưa với sự so sánh, liên ởng đầy bất ngờ của c giả: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên ởng đến câu thơ của
Bạch Yên hoa tâm nguyệt Dương Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba,
mùa hoa khói).
Càng đọc, ta càng cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như
say sưa đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh
động: đó là “nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi đang ra những
nõn búp”, “một đàn ơu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Đằng sau những
dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, tươi mới,
trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động. Kì ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã
nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như
dòng sông “đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Và từ hiện tại, ông
ước đến tương lai nghe một “tiếng còi sương” hoặc “thèm được giật mình một tiếng còi
xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà
trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của
một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ,
linh hồn, giàu sức hút.
Bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng bất
ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca
để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông
Đà thơ mộng trữ tình. Một nhà thơ khác cũng từng viết về vẻ đẹp của con sông đầy lãng
mạn:
lOMoARcPSD| 23136115
Trên mặt Đà giang dưới bóng chiều
Trông qua Non Nước cảnh đìu hiu
Trời giăng hắc ám luồng mây kéo
Chuông giục hoàng hôn tiếng sóng reo
Theo nước vởn m lội Gọi
bầy inh ỏi giọng chim kêu
Thuyền ai thơ thẩn dòng sông đó?
Tìm bến cùng ta gấp mái chèo!
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét: “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo
ra một con Sông Đà không phải thiên nhiên vô tri, giác, một sinh thể hoạt động,
có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối
lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…” .Qua đoạn văn miêu tả vẻ đẹp trữ nh của
con sông Đà ta càng khâm phục tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân, ông quả là một người
suốt đời đi tìm cái đẹp, một cây bút độc đáo, đầy sáng tạo trong nền văn học Việt Nam.
Vẻ dẹp hung bạo :
lOMoARcPSD| 23136115
lOMoARcPSD| 23136115
Hình tượng ông lái đò :
Nhắc đến Nguyễn Tn là nhắc đến một con người tài hoa, độc đáo trong trường văn trận bút
cũng như những nét tính cách trái ngược nhau. Ông được biết đến như một bậc thầy về ngôn
từ bởi sự am hiểu, uyên bác của mình. Nguyễn Tuân thường hướng ngòi bút tới cái đẹp về
phương diện thẩm mỹ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Hình tượng
ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một minh chứng cho phong cách sáng tác
của Nguyễn Tuân. Đây được xem là một tuyệt bút trong sự nghiệp văn chương của ông.
lOMoARcPSD| 23136115
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa
của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây. Không
phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân đặt tên cho tác phẩm của mình “Người lái đò sông Đà”
trong khi đang dựng n cảnh con sông hung bạo, dữ dội nhưng đầy chất trữ tình bởi lẽ
ông muốn tôn vinh nh ảnh con người lao động với sự tài hoa trong công việc của mình. Ông
cũng quan niệm rằng: “Lên Tây Bắc để đi tìm cái thứ vàng mười ca màu sắc sông núi
nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người đang nhiệt tình gắn
với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”. Ấy vậy
hình tượng người lái đò mưu sinh trên sông một cách đầy khâm phục.
Người lái đò hiện lên với ngoại hình của tuổi bảy mươi “đầu tóc bạc trắng” nhưng thân hình
ông vẫn “đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh anh, nhãn lực
nhìn xa vời vợi. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một
cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn
về một bến xa nào đó,…”. Trên ngực ông còn hiện lên một số “củ nâu” thương tích Nguyễn
Tuân cho đó “thứ Huân chương lao động trên miền sông nước”. ác sông Đà, nhãn giới
vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”. Ông lái đò hiện lên là một người giàu trải nghiệm,
ông hiểu sông Đà như hiểu chính mình, nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước
của những con thác hiểm trở. Hai vẻ đẹp nổi bật của người lái đò chính vẻ đẹp của một
người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày
viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ. Song còn
được coi là một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành
giật miếng cơm manh áo. Dù công việc vất vả nguy hiểm nthế nhưng ông vẫn luôn hăng
say, vẫn đam mê công việc lao động, đam mê mạo hiểm, thích được thử cảm giác mạnh. Bên
cạnh đó, ông n người rất dũng cảm, tâm hồn ơi trẻ, sôi động, bản tính hiếu chiến,
đam mê khám phá, chinh phục gian nan thử thách, chẳng bao giờ lùi bước.
Để làm nổi bật sự tài hoa trong lao động của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã đi sâu vào miêu tả
người lái đò trong cảnh vượt thác. Nhà văn gọi đây cuộc chiến đấu gian lao của người i
đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến mặt trận sông Đà. Đó chính
cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà
đối phương đã hiện ra diện mạo tâm địa của kẻ thù số một. Ông xung trận với kthế
nghênh chiến kẻ thù “thạch trận vừa bày xong thì cái thuyền vụt tới”. Trùng vi thứ nhất, sông
Đà mai phục “bốn cửa tử, một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Hàng tiền vệ, hai
hòn canh một cửa đã trông như hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào
tuyến giữa. Vừa o trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp "mặt nước vang dậy
lOMoARcPSD| 23136115
quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay nh...", "Nước bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận ớc vang trời thanh la não
bạt". Nguyễn Tuân đã miêu tả hình ảnh người lái đò điều khiển chiếc thuyền cứ như người
nghệ sĩ đang kéo đàn violong. Mặc dù bị đánh những đòn rất hiểm “hai chân ông vẫn kẹp lấy
cuống lái” mặt méo bệch đi đau đớn nhưng ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền
thoát khỏi nguy hiểm của con thủy quái. Để làm nổi bật hình tượng vẻ đẹp của người lái
đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến
đấu ác liệt giữa người lái đò với con sông đầy nham hiểm và xảo quyệt.
Sang đến trùng vây thứ hai độ khó càng tăng lên, sông Đà đã bố trí nhiều cửa tử hơn để đánh
lừa con thuyền bất cứ lúc nào, duy nhất chỉ có cửa sinh lệch ở phía hữu ngạn sông. Bọn tướng
đá đứng khiêu khích ngay giữa cửa vào, dựng đứng thành cửa ải. Ông lái đò vẫn không một
phút nghỉ tay, bắt đầu vượt thác bằng cách “gcương lái, miết một đường chéo về phía cửa
đá”. Tại trận chiến đánh giáp này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc
thuyền đã vượt qua, bọn sóng ớc cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng
đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Có được chiến thắng
đó là nhờ sự dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và
thứ hai là chiến thắng của tài trí con người, của sự hiểu biết và kinh nghiệm của những người
đã nhiều năm gắn với nghề sông nước. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự ngưỡng mộ trước sự
dũng cảm của ông lái đò khi đối mặt với nguy hiểm một cách đầy chân thực.
Bị thua ông đò hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên
cuồng, dữ dội. Chính giữa ranh giới của sự sống cái chết, người đọc càng thấy tài ngh
chèo đò vượt thác của ông lái thật tuyệt vời. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa
giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi
chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông
lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh phía sau lưng. Một loạt các động từ lại được Nguyễn
Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh,
lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp
người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sông Đà, từ
sự bình dị của những người lái đò sau chiến thắng, thể thấy Nguyễn Tuân đã khẳng định
ngợi ca về vẽ đẹp của những người lao động bình thường, âm thầm giản dị nhưng đã và đang
làm nên những kỳ tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ.
lOMoARcPSD| 23136115
Qua cảnh vượt thác sông Đà của người lái đò ta thấy được nghệ thuật miêu tả nhân vật của
Nguyễn Tn rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò, cô lái
đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật. Một loạt các hình ảnh nhân hóa,
liên tưởng, các kiến thức về điện ảnh, quân sự… được nhà văn vận dụng một cách tài tình,
độc đáo để làm nổi bật lên sự tài hoa trong công việc của người lái đò. Nếu như khi xây dựng
nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân sử dụng tri thức nghệ thuật thì xây dựng nhân vật ông lái
đò nhà văn lại vận dụng nhiều vốn tri thức đời sống.Nếu như Chữ người tử tù” ca ngợi cái
đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực
dân phong kiến trước Cách mạng thì “Người i đò sông Đà” lại ca ngợi con sông Đà và người
lái đò sông Đà, y tỏ niềm yêu mến thiết tha thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống
mới, con người mới.
“Tùy bút Người lái đò sông Đà là vẻ đẹp và sức sống của Tây Bắc, con người Tây Bắc được
tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân.” Quả thật như vậy, qua việc khắc
họa thành công hình tưởng dũng cảm, tài hoa trong công việc mưu sinh của người lái đò, ta
thấy được phần nào sự sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật của ông. Đồng thời đây cũng sự
mến mộ, khâm phục của Nguyễn Tuân đối với những con người lao động trong công cuộc
xây dựng đất nước, họ những người quả cảm, đầy tài hoa, hăng say trong công việc của
mình.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23136115 Người lái đò sông Đà Vẻ đẹp trữ tình :
Nếu như ở đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà nhà văn đã sử dụng rất nhiều những
kiến thức về quân sự hay cõ thuật, nhiều động từ mạnh thì ở đoạn văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình
của con sông, ông hoàn toàn sử dụng con mắt tinh tế quan sát và ngòi bút lãng mạn của mình
để vẽ lại con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà ở nhiều góc độ khác nhau
để có một cái nhìn toàn diện. Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn
ngèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người
thiếu nữ kiều diễm: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “ tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước
mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh như “một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ
đẹp kiêu sa của sông Đà, nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng
này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm cho con sông trở nên bí hiểm. Đọc đoạn văn ta như đi vào
chốn bồng lai vừa thực vừa mộng. Không chỉ vậy, Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông
là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân hóa đó làm cho con sông gần
gũi hơn. Tản Đà cũng đã từng viết:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà”
hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”, ông thấy dòng
sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi diệu kì: “mùa
xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không phải là con sông đen như
“thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo
lếu”. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác
nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của
nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc
màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của
núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép
so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn lOMoAR cPSD| 23136115
Tuân. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi.
Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.
Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện ở đôi bờ sông: “cảnh ven sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”,
“bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ mộng “Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ
đẹp nguyên sơ của dòng sông. Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả đã phát hiện được
thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với người nghệ sĩ là sự
tĩnh lặng nhẹ nhàng: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến
thế mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa
xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Lý
Bạch “ Yên hoa tâm nguyệt há Dương Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
Càng đọc, ta càng có cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như
say sưa mê đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh
động: đó là “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi đang ra những
nõn búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Đằng sau những
dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, tươi mới,
trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động. Kì ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã
nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như
dòng sông “đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Và từ hiện tại, ông mơ
ước đến tương lai nghe một “tiếng còi sương” hoặc “thèm được giật mình vì một tiếng còi
xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà
trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của
một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng bất
ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca
để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông
Đà thơ mộng và trữ tình. Một nhà thơ khác cũng từng viết về vẻ đẹp của con sông đầy lãng mạn: lOMoAR cPSD| 23136115
Trên mặt Đà giang dưới bóng chiều
Trông qua Non Nước cảnh đìu hiu
Trời giăng hắc ám luồng mây kéo
Chuông giục hoàng hôn tiếng sóng reo
Theo nước vởn vơ tăm cá lội Gọi
bầy inh ỏi giọng chim kêu
Thuyền ai thơ thẩn dòng sông đó?
Tìm bến cùng ta gấp mái chèo!
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét: “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo
ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động,
có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối
lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…” .Qua đoạn văn miêu tả vẻ đẹp trữ tình của
con sông Đà ta càng khâm phục tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân, ông quả là một người
suốt đời đi tìm cái đẹp, một cây bút độc đáo, đầy sáng tạo trong nền văn học Việt Nam. Vẻ dẹp hung bạo : lOMoAR cPSD| 23136115 lOMoAR cPSD| 23136115
Hình tượng ông lái đò :
Nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến một con người tài hoa, độc đáo trong trường văn trận bút
cũng như những nét tính cách trái ngược nhau. Ông được biết đến như một bậc thầy về ngôn
từ bởi sự am hiểu, uyên bác của mình. Nguyễn Tuân thường hướng ngòi bút tới cái đẹp về
phương diện thẩm mỹ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Hình tượng
ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một minh chứng cho phong cách sáng tác
của Nguyễn Tuân. Đây được xem là một tuyệt bút trong sự nghiệp văn chương của ông. lOMoAR cPSD| 23136115
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa
của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây. Không
phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đặt tên cho tác phẩm của mình là “Người lái đò sông Đà”
trong khi đang dựng lên cảnh con sông hung bạo, dữ dội nhưng đầy chất trữ tình mà bởi lẽ
ông muốn tôn vinh hình ảnh con người lao động với sự tài hoa trong công việc của mình. Ông
cũng quan niệm rằng: “Lên Tây Bắc là để đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc sông núi và
nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người đang nhiệt tình gắn
bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững”. Ấy vậy mà
hình tượng người lái đò mưu sinh trên sông một cách đầy khâm phục.
Người lái đò hiện lên với ngoại hình của tuổi bảy mươi “đầu tóc bạc trắng” nhưng thân hình
ông vẫn “đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch” cùng cặp mắt tinh anh, nhãn lực
nhìn xa vời vợi. “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một
cuống lái trong tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn
về một bến xa nào đó,…”. Trên ngực ông còn hiện lên một số “củ nâu” thương tích mà Nguyễn
Tuân cho đó là “thứ Huân chương lao động trên miền sông nước”. ác lũ sông Đà, nhãn giới
vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”. Ông lái đò hiện lên là một người giàu trải nghiệm,
ông hiểu sông Đà như hiểu chính mình, nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả những luồng nước
của những con thác hiểm trở. Hai vẻ đẹp nổi bật của người lái đò chính là vẻ đẹp của một
người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày
viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ. Song còn
được coi là một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành
giật miếng cơm manh áo. Dù công việc vất vả và nguy hiểm như thế nhưng ông vẫn luôn hăng
say, vẫn đam mê công việc lao động, đam mê mạo hiểm, thích được thử cảm giác mạnh. Bên
cạnh đó, ông còn là người rất dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động, bản tính hiếu chiến,
đam mê khám phá, chinh phục gian nan thử thách, chẳng bao giờ lùi bước.
Để làm nổi bật sự tài hoa trong lao động của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã đi sâu vào miêu tả
người lái đò trong cảnh vượt thác. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái
đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là
cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà
đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một. Ông xung trận với khí thế
nghênh chiến kẻ thù “thạch trận vừa bày xong thì cái thuyền vụt tới”. Trùng vi thứ nhất, sông
Đà mai phục “bốn cửa tử, một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Hàng tiền vệ, có hai
hòn canh một cửa đã trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào
tuyến giữa. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp "mặt nước hò vang dậy lOMoAR cPSD| 23136115
quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình...", "Nước bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não
bạt". Nguyễn Tuân đã miêu tả hình ảnh người lái đò điều khiển chiếc thuyền cứ như người
nghệ sĩ đang kéo đàn violong. Mặc dù bị đánh những đòn rất hiểm “hai chân ông vẫn kẹp lấy
cuống lái” và mặt méo bệch đi vì đau đớn nhưng ông vẫn sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền
thoát khỏi nguy hiểm của con thủy quái. Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái
đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến
đấu ác liệt giữa người lái đò với con sông đầy nham hiểm và xảo quyệt.
Sang đến trùng vây thứ hai độ khó càng tăng lên, sông Đà đã bố trí nhiều cửa tử hơn để đánh
lừa con thuyền bất cứ lúc nào, duy nhất chỉ có cửa sinh lệch ở phía hữu ngạn sông. Bọn tướng
đá đứng khiêu khích ngay giữa cửa vào, dựng đứng thành cửa ải. Ông lái đò vẫn không một
phút nghỉ tay, bắt đầu vượt thác bằng cách “ghì cương lái, miết một đường chéo về phía cửa
đá”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc
thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng
đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Có được chiến thắng
đó là nhờ sự dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và
thứ hai là chiến thắng của tài trí con người, của sự hiểu biết và kinh nghiệm của những người
đã nhiều năm gắn bó với nghề sông nước. Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự ngưỡng mộ trước sự
dũng cảm của ông lái đò khi đối mặt với nguy hiểm một cách đầy chân thực.
Bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên
cuồng, dữ dội. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ
chèo đò vượt thác của ông lái thật tuyệt vời. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa
giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi
chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông
lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng. Một loạt các động từ lại được Nguyễn
Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh,
lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp
người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Từ cuộc chiến đấu ác liệt với thác dữ sông Đà, từ
sự bình dị của những người lái đò sau chiến thắng, có thể thấy Nguyễn Tuân đã khẳng định
ngợi ca về vẽ đẹp của những người lao động bình thường, âm thầm giản dị nhưng đã và đang
làm nên những kỳ tích lớn lao trong cuộc chiến với thiên nhiên hung dữ. lOMoAR cPSD| 23136115
Qua cảnh vượt thác sông Đà của người lái đò ta thấy được nghệ thuật miêu tả nhân vật của
Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò, cô lái
đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật. Một loạt các hình ảnh nhân hóa,
liên tưởng, các kiến thức về điện ảnh, quân sự… được nhà văn vận dụng một cách tài tình,
độc đáo để làm nổi bật lên sự tài hoa trong công việc của người lái đò. Nếu như khi xây dựng
nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân sử dụng tri thức nghệ thuật thì xây dựng nhân vật ông lái
đò nhà văn lại vận dụng nhiều vốn tri thức đời sống.Nếu như “ Chữ người tử tù” ca ngợi cái
đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực
dân phong kiến trước Cách mạng thì “Người lái đò sông Đà” lại ca ngợi con sông Đà và người
lái đò sông Đà, bày tỏ niềm yêu mến thiết tha thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống mới, con người mới.
“Tùy bút Người lái đò sông Đà là vẻ đẹp và sức sống của Tây Bắc, con người Tây Bắc được
tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân.” Quả thật như vậy, qua việc khắc
họa thành công hình tưởng dũng cảm, tài hoa trong công việc mưu sinh của người lái đò, ta
thấy được phần nào sự sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật của ông. Đồng thời đây cũng là sự
mến mộ, khâm phục của Nguyễn Tuân đối với những con người lao động trong công cuộc
xây dựng đất nước, họ là những người quả cảm, đầy tài hoa, hăng say trong công việc của mình.