
Có bao giờ bạn tự hỏi, ranh giới giữa một người bảo vệ dân và một kẻ cướp mong manh
đến thế nào không? "Trong câu ca dao: 'Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan', tại sao dân
gian lại dùng từ 'cướp ngày'? Theo các bạn, hình thức 'cướp' này để lại nỗi đau gì khác biệt
so với những kẻ giặc ngoại bang?"
-Trả lời: Việc dùng từ "cướp ngày" nhằm tố cáo sự bóc lột công khai, trắng trợn của quan
lại dưới danh nghĩa phép nước , gây nên nỗi đau uất nghẹn hơn cả giặc ngoại bang vì đó là
sự phản bội của những kể đáng lẽ phải là chỗ dựa cho dân nay lại đẩy người dân vào cảnh bế
tắc "một cổ hai tròng" mà không thể kêu cầu hay trốn thoát.
Trong bức tranh hiện thực của ca dao xưa, hình ảnh người nông dân hiện lên đầy bi kịch dưới
ách áp bức của chế độ phong kiến, mà tiêu biểu là gánh nặng sưu thuế. Họ là những con người
"bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", chắt chiu từng hạt lúa củ khoai, nhưng thành quả lao
động ấy lại bị tước đoạt bởi những chính sách thuế khóa vô lý và tàn bạo. Ca dao đã ghi lại
tiếng kêu uất nghẹn của người dân đen khi bị dồn vào đường cùng, nơi mà quan lại – những
kẻ được xem là cha mẹ dân – lại hiện nguyên hình là kẻ bóc lột tàn nhẫn nhất,tiêu biểu như
trong câu "Con ơi nhớ lấy câu này / Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan" hay: Thẻ tôi
lĩnh có hai đồng,/Ông cai lĩnh hộ, trừ công năm hào.”
Nỗi ám ảnh về sưu cao thuế nặng lớn đến mức nó tước đi quyền được sống yên ổn, đẩy
người nông dân vào cảnh "một cổ hai tròng", khiến cái nghèo đói trở thành cái bóng ma đeo
bám dai dẳng qua nhiều thế hệ khiến dân gian phải thốt lên rằng: “Đã giàu thì lại giàu
thêm/Đã khó,lại khó cả đêm lẫn ngày”.
Qua đó, ca dao không chỉ là lời than thân mà còn là bản cáo trạng đanh thép tố cáo sự bất
công của xã hội cũ.

 !"#
Bên cạnh nỗi lo cơm áo gạo tiền trước cảnh sưu cao thuế nặng, người nông dân trong ca dao
còn là nạn nhân bi thảm của những cuộc chiến tranh phong kiến tranh giành quyền lực vô
nghĩa. Vốn là những con người thuần hậu, gắn bó máu thịt với ruộng đồng, họ bị thời cuộc tàn
nhẫn bứt ra khỏi lũy tre làng để trở thành những con tốt thí trên bàn cờ chính trị. Ca dao đã
khắc họa đầy ám ảnh tâm trạng miễn cưỡng, sợ hãi và uất ức của người lính thú khi phải dứt
áo ra đi,như trong câu:
22222 "Tùng tùng trống đánh ngũ liên
22222 Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa."
Hay:“Nhà vua bắt lính đàn ông,
2 2 Mười sáu tuổi rưỡi đứng trong công đường.
2 2 2 2 Ai trông thấy lính chả thương,
2 2 Đứng trong công đường nước mắt như mưa.”
Tiếng trống thúc quân dồn dập đối lập hoàn toàn với những giọt nước mắt lặng lẽ, cho thấy
họ dấn thân vào chốn sa trường không phải vì lý tưởng bảo vệ non sông, mà chỉ vì sự ép buộc
của cường quyền. Hệ quả của những cuộc chiến phi nghĩa ấy là ruộng nương bỏ hoang, xóm
làng xơ xác, và người nông dân phải đánh đổi mạng sống nơi đất khách quê người cho tham
vọng của vua chúa, cường quyền để lại sau lưng nỗi đau chia ly xé lòng của mẹ già, vợ ngóng,
con trông.
$%&'()*+ ,-.,/01
Và hình ảnh người nông dân trong ca dao không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của sự cần cù, nhẫn
nại mà còn kết tỉnh bởi bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời người nông dân đó chính là: sự
túng quẩn, bế tắc và thân phận nhỏ bé, thấp kém trong xã hội phong kiến.Bi kịch về thân phận
và địa vị của người nông dân Trong thế giới của ca dao than thân, người nông dân thường
hiện lên với những hình ảnh ẩn dụ đầy xót xa như "con cò," trong câu:” "Nước non lận đận
một mình/Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay./Ai làm cho bể kia đầy, /Cho ao kia cạn,
cho gầy cò con?" hay"con kiến," trong câu: “Con kiến mà leo cành đa,/Leo phải cành
cộc,leo ra leo vào./Con kiến mà leo cành đào,/Leo phải cành cộc, leo vào leo ra...” hoặc
"hạt mưa "trong câu: “Thân em như hạt mưa rào,/Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn
hoa./Thân em như hạt mưa sa,/Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”.Bi kịch lớn nhất của họ
không chỉ dừng lại ở cái đói, cái nghèo mà là sự mất quyền tự quyết và tiếng nói trước cường
quyền.
Trong cấu trúc xã hội cũ, họ là những kẻ "thấp cổ bé họng," bị coi rẻ và không có chỗ đứng.
Những câu ca bắt đầu bằng "Thân em..." hay "Thân tôi..." ví dụ như trong câu: “Thân em
như con hạc đầu đình,/ Muốn bay không cất nổi mình mà bay!” đó như một lời tự xưng
đầy đau đớn về một kiếp người vô định, nhỏ bé như hạt bụi, dễ dàng bị vùi dập bởi những bất
công xã hội. Họ vừa là nạn nhân của thực tại nghiệt ngã, vừa mang nỗi mặc cảm về vị thế
thấp kém của mình.
Thêm vào đó sự túng quẩn và bế tắc khi cuộc đời họ là một vòng lặp không lối thoát của
"nợ nần" và "sưu thuế". Dù đã "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời," nhưng thành quả lao
động ấy lại bị tước đoạt bởi thiên tai và sự bóc lột của giai cấp thống trị. Hình ảnh con cò "lặn
lội bờ ao" hay "gãy cành tre" chính là biểu tượng cho sự đơn độc, chênh vênh của người nông
dân lao động giữa những biến cố cuộc đời.
2345,63
Vượt lên trên những bi kịch, hình ảnh con cò hiện lên như một biểu tượng đẹp đẽ, thanh
thoát nhưng cũng đầy nhọc nhằn." Và theo các bạn tại sao dân gian lại chọn con cò – một
loài chim có dáng vẻ mảnh khảnh, gầy gò – để ẩn dụ cho người phụ nữ nông dân Việt Nam
mà không phải một hình ảnh nào khác?"
Những câu ca dao bắt đầu bằng con cò đã đi vào tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời nay.
Con cò là một hình ảnh rất gần gũi và thân quen với người nông dân.Con cò là hình tượng đẹp
trong ca dao. Và mỗi khi nhắc đến con cò với những phẩm chất của nó gợi ta liên tưởng đến
hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, tận tụy suốt đời vì chồng vì
con.Tiêu biểu như các câu: Cái cò lặn lội bờ sông,/Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ
non.”, “Trời mưa quả dưa vẹo vọ, con ốc nằm co,/Con tôm đánh đáo, con cò kiếm ăn.”,
“Cái cò lặn lội bờ sông,/Cổ dài mỏ cứng, cánh cong lưng gù./Bãi xa, bãi rộng, gió to,/Vì lo
cái bụng, đi mò cái ăn.”
Người nông dân Việt Nam rất gần gũi và gắn bó với con cò. Dáng cò mảnh khảnh, thân cò
gầy gầy, bộ lông- cò trắng muốt. Cò mang một vẻ đẹp thanh thoát,nhìn cò đứng bên bờ ruộng
rỉa lông, cò chao liệng trên bầu trời lộng gió ta chợt liên tưởng đến dáng vẻ của người phụ nữ.
Cũng cái dáng mảnh khảnh ấy, cũng cái thân gảy gầy ấy, ta bắt gặp ở người phụ nữ nông dân
Việt Nam, người mẹ, người vợ của nông thôn ngày xưa nét dịu hiền đằm thắm, thanh thoát
nhẹ nhàng mà tần tảo,chịu khó.

Preview text:

2. Người nông dân phải chịu sưu cao thuế nặng.

Có bao giờ bạn tự hỏi, ranh giới giữa một người bảo vệ dân và một kẻ cướp mong manh đến thế nào không? "Trong câu ca dao: 'Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan', tại sao dân gian lại dùng từ 'cướp ngày'? Theo các bạn, hình thức 'cướp' này để lại nỗi đau gì khác biệt so với những kẻ giặc ngoại bang?"

-Trả lời: Việc dùng từ "cướp ngày" nhằm tố cáo sự bóc lột công khai, trắng trợn của quan lại dưới danh nghĩa phép nước , gây nên nỗi đau uất nghẹn hơn cả giặc ngoại bang vì đó là sự phản bội của những kể đáng lẽ phải là chỗ dựa cho dân nay lại đẩy người dân vào cảnh bế tắc "một cổ hai tròng" mà không thể kêu cầu hay trốn thoát.

Trong bức tranh hiện thực của ca dao xưa, hình ảnh người nông dân hiện lên đầy bi kịch dưới ách áp bức của chế độ phong kiến, mà tiêu biểu là gánh nặng sưu thuế. Họ là những con người "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", chắt chiu từng hạt lúa củ khoai, nhưng thành quả lao động ấy lại bị tước đoạt bởi những chính sách thuế khóa vô lý và tàn bạo. Ca dao đã ghi lại tiếng kêu uất nghẹn của người dân đen khi bị dồn vào đường cùng, nơi mà quan lại – những kẻ được xem là cha mẹ dân – lại hiện nguyên hình là kẻ bóc lột tàn nhẫn nhất,tiêu biểu như trong câu "Con ơi nhớ lấy câu này / Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan" hay: Thẻ tôi lĩnh có hai đồng,/Ông cai lĩnh hộ, trừ công năm hào.”

Nỗi ám ảnh về sưu cao thuế nặng lớn đến mức nó tước đi quyền được sống yên ổn, đẩy người nông dân vào cảnh "một cổ hai tròng", khiến cái nghèo đói trở thành cái bóng ma đeo bám dai dẳng qua nhiều thế hệ khiến dân gian phải thốt lên rằng: “Đã giàu thì lại giàu thêm/Đã khó,lại khó cả đêm lẫn ngày”.

Qua đó, ca dao không chỉ là lời than thân mà còn là bản cáo trạng đanh thép tố cáo sự bất công của xã hội cũ.

3.Bi kịch của người nông dân.

3.1 Nạn nhân của các cuộc chiến tranh phi nghĩa

Bên cạnh nỗi lo cơm áo gạo tiền trước cảnh sưu cao thuế nặng, người nông dân trong ca dao còn là nạn nhân bi thảm của những cuộc chiến tranh phong kiến tranh giành quyền lực vô nghĩa. Vốn là những con người thuần hậu, gắn bó máu thịt với ruộng đồng, họ bị thời cuộc tàn nhẫn bứt ra khỏi lũy tre làng để trở thành những con tốt thí trên bàn cờ chính trị. Ca dao đã khắc họa đầy ám ảnh tâm trạng miễn cưỡng, sợ hãi và uất ức của người lính thú khi phải dứt áo ra đi,như trong câu:

"Tùng tùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa."

Hay:“Nhà vua bắt lính đàn ông,
Mười sáu tuổi rưỡi đứng trong công đường.
Ai trông thấy lính chả thương,
Đứng trong công đường nước mắt như mưa.”

Tiếng trống thúc quân dồn dập đối lập hoàn toàn với những giọt nước mắt lặng lẽ, cho thấy họ dấn thân vào chốn sa trường không phải vì lý tưởng bảo vệ non sông, mà chỉ vì sự ép buộc của cường quyền. Hệ quả của những cuộc chiến phi nghĩa ấy là ruộng nương bỏ hoang, xóm làng xơ xác, và người nông dân phải đánh đổi mạng sống nơi đất khách quê người cho tham vọng của vua chúa, cường quyền để lại sau lưng nỗi đau chia ly xé lòng của mẹ già, vợ ngóng, con trông.

3.2 Bi kịch của sự túng quẩn,không có lối thoát và địa vị thấp kém

Và hình ảnh người nông dân trong ca dao không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của sự cần cù, nhẫn nại mà còn kết tỉnh bởi bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời người nông dân đó chính là: sự túng quẩn, bế tắc và thân phận nhỏ bé, thấp kém trong xã hội phong kiến.Bi kịch về thân phận và địa vị của người nông dân Trong thế giới của ca dao than thân, người nông dân thường hiện lên với những hình ảnh ẩn dụ đầy xót xa như "con cò," trong câu:” "Nước non lận đận một mình/Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay./Ai làm cho bể kia đầy, /Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?" hay"con kiến," trong câu: “Con kiến mà leo cành đa,/Leo phải cành cộc,leo ra leo vào./Con kiến mà leo cành đào,/Leo phải cành cộc, leo vào leo ra...” hoặc "hạt mưa "trong câu: “Thân em như hạt mưa rào,/Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa./Thân em như hạt mưa sa,/Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”.Bi kịch lớn nhất của họ không chỉ dừng lại ở cái đói, cái nghèo mà là sự mất quyền tự quyết và tiếng nói trước cường quyền.

Trong cấu trúc xã hội cũ, họ là những kẻ "thấp cổ bé họng," bị coi rẻ và không có chỗ đứng. Những câu ca bắt đầu bằng "Thân em..." hay "Thân tôi..." ví dụ như trong câu: “Thân em như con hạc đầu đình,/ Muốn bay không cất nổi mình mà bay!” đó như một lời tự xưng đầy đau đớn về một kiếp người vô định, nhỏ bé như hạt bụi, dễ dàng bị vùi dập bởi những bất công xã hội. Họ vừa là nạn nhân của thực tại nghiệt ngã, vừa mang nỗi mặc cảm về vị thế thấp kém của mình.

Thêm vào đó sự túng quẩn và bế tắc khi cuộc đời họ là một vòng lặp không lối thoát của "nợ nần" và "sưu thuế". Dù đã "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời," nhưng thành quả lao động ấy lại bị tước đoạt bởi thiên tai và sự bóc lột của giai cấp thống trị. Hình ảnh con cò "lặn lội bờ ao" hay "gãy cành tre" chính là biểu tượng cho sự đơn độc, chênh vênh của người nông dân lao động giữa những biến cố cuộc đời.

3.3 hình ảnh con cò gắn với hình ảnh người nông dân

Vượt lên trên những bi kịch, hình ảnh con cò hiện lên như một biểu tượng đẹp đẽ, thanh thoát nhưng cũng đầy nhọc nhằn." Và theo các bạn tại sao dân gian lại chọn con cò – một loài chim có dáng vẻ mảnh khảnh, gầy gò – để ẩn dụ cho người phụ nữ nông dân Việt Nam mà không phải một hình ảnh nào khác?"

Những câu ca dao bắt đầu bằng con cò đã đi vào tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời nay. Con cò là một hình ảnh rất gần gũi và thân quen với người nông dân.Con cò là hình tượng đẹp trong ca dao. Và mỗi khi nhắc đến con cò với những phẩm chất của nó gợi ta liên tưởng đến hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, tận tụy suốt đời vì chồng vì con.Tiêu biểu như các câu: Cái cò lặn lội bờ sông,/Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.”, “Trời mưa quả dưa vẹo vọ, con ốc nằm co,/Con tôm đánh đáo, con cò kiếm ăn.”, “Cái cò lặn lội bờ sông,/Cổ dài mỏ cứng, cánh cong lưng gù./Bãi xa, bãi rộng, gió to,/Vì lo cái bụng, đi mò cái ăn.”

Người nông dân Việt Nam rất gần gũi và gắn bó với con cò. Dáng cò mảnh khảnh, thân cò gầy gầy, bộ lông- cò trắng muốt. Cò mang một vẻ đẹp thanh thoát,nhìn cò đứng bên bờ ruộng rỉa lông, cò chao liệng trên bầu trời lộng gió ta chợt liên tưởng đến dáng vẻ của người phụ nữ. Cũng cái dáng mảnh khảnh ấy, cũng cái thân gảy gầy ấy, ta bắt gặp ở người phụ nữ nông dân Việt Nam, người mẹ, người vợ của nông thôn ngày xưa nét dịu hiền đằm thắm, thanh thoát nhẹ nhàng mà tần tảo,chịu khó.