lOMoARcPSD| 53331727
NGUN GC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG H CHÍ MINH
1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam như tinh
thần đoàn kết, lòng nhân ái, ý chí kiên cường trong dựng nước và giữ nước. Trong đó, chủ nghĩa
yêu nước là giá trị cốt lõi, xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước... Mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng mạnh mẽ, nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và cướp nước." Chính tinh thần yêu nước đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước vào năm
1911. Ban đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản, đã đưa Người
đến với Lênin và Quốc tế Cộng sản.
2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Bên cạnh truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của tinh hoa văn hóa
Đông - Tây:
Tư tưởng phương Đông: Người học chữ Nho, tiếp thu các giá trị tích cực của Nho giáo
như nhân nghĩa, tu thân, khiêm tốn, hòa nhã, lấy dân làm gốc. Tuy nhiên, Người cũng
phê phán những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu trong hệ thống Nho giáo phong kiến.
Tư tưởng phương Tây: Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng dân chủ, nhân văn của thời kỳ
Phục hưng, Khai sáng, các cuộc cách mạng tư sản Pháp, Mỹ với các lý tưởng Tự do,
Bình đẳng, Bác ái.
Ảnh hưởng từ cách mạng Trung Quốc: Hồ Chí Minh nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn, trong đó có tư tưởng "Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh
hạnh phúc".
Người không chỉ tiếp thu mà còn chọn lọc, phát triển các giá trị này để phù hợp với hoàn cảnh
và nhu cầu cách mạng Việt Nam.
3. Chủ nghĩa Mác - Lênin nền tảng tư tưởng quyết định
Từ năm 1911 đến 1917, Hồ Chí Minh đi qua nhiều nước tư bản và thuộc địa, nhận thấy bất công
xã hội vẫn tồn tại, ngay cả trong những quốc gia đề cao dân chủ và tự do. Đến năm 1919, Người
gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tham gia hoạt động chính trị.
Năm 1920, khi đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt tư tưởng, giúp Người
nhận ra rằng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới giải phóng triệt để dân tộc và giai cấp.
Tư tưởng Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa
học, từ đó phân tích, tổng hợp, vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác -
Lênin chính là cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh.
lOMoARcPSD| 53331727
4. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo
luận tư tưởng không phải tự nhiên mà có, mà phải qua quá trình thực tiễn và tư duy sáng tạo.
Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới. Những tố chất này giúp
Người vượt qua các thử thách, lựa chọn và phát triển con đường cách mạng phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
Nhờ hoạt động thực tiễn phong phú ở nhiều nước và sự phân tích, tổng hợp sâu sắc, Hồ Chí Minh
đã hình thành hệ thống tư tưởng cách mạng Việt Nam kết hợp giữa chủ nghĩa Mác -
Lênin, tinh thần yêu nước, truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Quá trình hình thành và phát trin tư tưởng H Chí Minh
1. Giai đoạn trước khi ra đi tìm đường cứu nước (trước 6/1911)
Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh nước mất, chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và
những thất bại của các phong trào yêu nước. Gia đình Người có truyền thống hiếu học, yêu nước,
cha là một nhà Nho làm quan nhưng từ quan vì bất mãn với thực dân. Những yếu tố này đã nuôi
dưỡng tinh thần yêu nước, thôi thúc Người tìm con đường cứu nước mới. Không đi theo các con
đường cũ như bạo động hay cải lương, Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
2. Giai đoạn tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1911 - 1920)
Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh rời bến Nhà Rồng, bắt đầu hành trình hơn 30 năm bôn ba khắp thế
giới. Người làm nhiều nghề, sống giữa công nhân, nông dân lao động, chứng kiến sự bất công
của chủ nghĩa tư bản và thực dân trên toàn cầu. Qua tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng, đặc biệt là
Cách mạng Tháng Mười Nga và Luận cương của Lênin (1920), Người xác định chủ nghĩa Mác -
Lênin là con đường giải phóng dân tộc, từ đó đi theo con đường cách mạng vô sản.
3. Giai đoạn hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh (1920-1930)
Người hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam. Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở lớp huấn luyện
chính trị, viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân PhápĐường Cách mệnh, định hướng phong
trào yêu nước. Đến năm 1930, Người triệu tập Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh đầu tiên, xác định đường lối cách mạng đúng
đắn: giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản.
4. Giai đoạn thử thách và khẳng định đường lối cách mạng (1930-1941)
Sau khi Đảng ra đời, phong trào cách mạng Việt Nam bị đàn áp dữ dội. Hồ Chí Minh bị Quốc tế
Cộng sản phê phán là "dân tộc chủ nghĩa" nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh
lOMoARcPSD| 53331727
đường lối của Người là đúng đắn. Trong thời gian này, Người bị bắt giam tại Hồng Kông, sau đó
tiếp tục hoạt động, tìm cách về nước. Đến năm 1941, Người trở lại Cao Bằng, trực tiếp lãnh đạo
cách mạng, thành lập Mặt trận Việt Minh, phát động cao trào giải phóng dân tộc, chuẩn bị tổng
khởi nghĩa.
5. Giai đoạn lãnh đạo cách mạng, phát triển tư tưởng (1941-1969)
Năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, tuyên bố độc lập, khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tư tưởng của Người tiếp tục được phát triển trong quá
trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), rồi chống Mỹ cứu nước
(1954-1975) . Người xác định hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại đã trở thành kim chỉ
nam cho cách mạng Việt Nam.
Vn dng tư tưởng H Chí Minh v giá tr ca quyn đc lp, t do đi
vi dân tc vào thc tin
Quyền thiêng liêng, tự nhiên và bất khả xâm phạm của dân tộc
Xuyên suốt lịch sử Việt Nam, quyền độc lập, tự do luôn là giá trị thiêng liêng và bất khả xâm
phạm. Điều này được khẳng định từ "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt đến "Bình Ngô đại
cáo" của Nguyễn Trãi. Khi trở về nước năm 1941, Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ giải phóng
dân tộc là ưu tiên hàng đầu: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.”
Năm 1945, Người khẳng định: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập.” Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuyên
ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 nhấn mạnh: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng.”
Trong kháng chiến, tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trở thành kim chỉ nam cho
toàn dân. Sau khi thống nhất đất nước, tinh thần này tiếp tục được duy trì theo phương châm “dĩ
bất biến, ứng vạn biến.”
Quyền độc lập, tự do là tiền đề mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no,
mặc đủ.” Người cho rằng cách mạng không chỉ giành độc lập mà còn phải đảm bảo cuộc sống tốt
đẹp cho nhân dân: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh dặn dò Đảng quan tâm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân
dân. Đây là định hướng xuyên suốt trong công cuộc xây dựng đất nước.
Nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
lOMoARcPSD| 53331727
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới đặt mục tiêu phát triển gắn liền với bảo vệ quyền độc lập, tự
do. Đại hội VI của Đảng khẳng định đổi mới phải kiên định chủ nghĩa Mác - -nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nguyên tắc bất biến là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.”
Trong hội nhập quốc tế, Đảng ta quán triệt “hòa nhập nhưng không hòa tan,” kiên quyết bảo vệ
chủ quyền quốc gia. Đại hội VII (1991) nhấn mạnh xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006) tiếp tục khẳng định đổi mới phải dựa trên nền tảng
tưởng Hồ Chí Minh.
Hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam vượt qua nhiều thách thức, phát triển mạnh mẽ và nâng cao vị
thế quốc tế. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế như ngày nay.” Điều này minh chứng cho giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh
về quyền độc lập, tự do – nền tảng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Quan đim ca Ch tch H Chí Minh v quyn đc lp, t do
ca dân tc
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã lãnh đạo nhân dân ta
giành độc lập và xây dựng đất nước trên nền tảng tự do, hạnh phúc. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Người luôn coi quyền độc lập, tự do là giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm
và đấu tranh không ngừng nghỉ để bảo vệ, phát triển quyền này.
1. Quyền độc lập, tự do phải toàn diện và triệt để
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng độc lập không chỉ đơn thuần là tách khỏi ách đô hộ của thực dân,
đế quốc mà còn phải là một nền độc lập thực sự, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Người khẳng định:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập."
Theo Người, một dân tộc dù có tuyên bố độc lập nhưng vẫn bị phụ thuộc vào các thế lực bên
ngoài, không làm chủ được vận mệnh của mình, thì đó chưa phải là một nền độc lập thực sự. Vì
vậy, quyền tự do phải bao gồm việc làm chủ đất nước, quyết định con đường phát triển của dân
tộc, không bị lệ thuộc hay chi phối bởi bất kỳ thế lực nào.
2. Quyền độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh giành độc lập mà còn luôn trăn trở về việc xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn cho nhân dân. Theo Người, độc lập, tự do không có ý nghĩa nếu nhân dân vẫn đói
nghèo, lầm than. Người khẳng định:
lOMoARcPSD| 53331727
"Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý
gì."
Người nhấn mạnh rằng độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới có thể đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đưa đất nước phát triển bền
vững. Đây cũng chính là con đường mà Việt Nam đã kiên định theo đuổi từ khi giành được độc
lập.
3. Độc lập, tự do gắn với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng nền độc lập, tự do của Việt Nam phải bao trùm toàn bộ lãnh
thổ, không thể chấp nhận bất kỳ sự chia cắt nào. Người tuyên bố:
"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
ấy không bao giờ thay đổi."
Tư tưởng này đã trở thành kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh giành lại thống nhất đất nước trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính nhờ tinh thần này mà Việt Nam đã kiên
trì chiến đấu, giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975, đưa đất nước về một mối.
4. Độc lập, tự do phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật
Hồ Chí Minh không chỉ nêu cao tư tưởng về độc lập, tự do mà còn chỉ đạo đưa tư tưởng đó vào
thực tiễn thông qua các văn bản pháp luật. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã chỉ đạo
soạn thảo Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
trong đó nhấn mạnh quyền tự quyết của dân tộc và quyền làm chủ của nhân dân.
Người cho rằng nền độc lập, tự do chỉ thực sự vững chắc khi được đảm bảo bằng hệ thống luật
pháp tiến bộ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân. Vì vậy, trong các bản Hiến pháp sau
này, tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền độc lập, tự do vẫn luôn được kế thừa và phát triển.
5. Đấu tranh vì độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc
khác
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam mà còn hết lòng ủng hộ phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Người khẳng định:
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do."
Tư tưởng này thể hiện sự đoàn kết quốc tế, tinh thần tương trợ giữa các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới. Trong suốt quá trình hoạt động, Người luôn kêu gọi nhân dân Việt Nam đoàn kết
với các phong trào cách mạng ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin, đồng thời kiên quyết phản đối
mọi hành động xâm lược, áp bức của các thế lực thực dân, đế quốc.
Kết luận
lOMoARcPSD| 53331727
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền độc lập, tự do của dân tộc không chỉ có ý nghĩa
sâu sắc đối với Việt Nam mà còn là một nguồn cảm hứng lớn cho các dân tộc bị áp bức trên thế
giới. Người đã khẳng định rằng độc lập, tự do là điều kiện tiên quyết để xây dựng một đất nước
giàu mạnh, hạnh phúc, và nền độc lập ấy chỉ có giá trị thực sự khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
với đời sống ấm no của nhân dân.
Ngày nay, tư tưởng đó vẫn tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng
định quyết tâm gìn giữ chủ quyền dân tộc và phát triển đất nước theo con đường mà Hồ Chí
Minh đã lựa chọn.
Phân tích quan đim ca H Chí Minh v vai trò, v trí ca Đo đc
Quan niệm về vai trò ,vị chí của đạo đức cách mạng:
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu, phải tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên. Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cho thanh niên, đào tạo họ thành những người kế
thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức được xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Vai trò của đạo đức cách
mạng là to lớn, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm
vụ cách mạng. Bởi lẽ con đường đi đến độc lập dân tộc và CNXH là con đường dài, đòi hỏi sự
phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc,
cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình
và mỗi người trong xã hội ta.
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì nó liên quan tới Đảng cầm quyền. Nguy cơ của đảng cầm quyền
đó là sự sai lầm về đường lối, suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm
quyền lãnh đạo xã hội, nếu cán bộ đảng viên không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực
có thể làm tha hoá con người. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng “Đảng là đạo đức, là văn minh”.
Vai trò của đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con người. Mỗi người có công việc,
tài năng, vị trí khác nhau… nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng thì là người cao thượng.
- Các thế hệ người Việt Nam phấn đấu cho độc lập dân tộc đến với Hồ Chí Minh trước hết
là đến với tư tưởng đạo đức của Người. “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ
vĩ đại” là khẩu hiệu chung của người Việt Nam
- Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của Hồ Chí Minh là kết tinh đạo đức của dân tộc,
của nhân loại. Hồ Chí Minh là điểm rực sáng về đạo đức đối với thế giới và đối với Việt Nam.
Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên
truyền”.
lOMoARcPSD| 53331727
Theo Lênin, “đạo đức là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn
kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của
những người cộng sản.”
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng “là đạo đức, là văn minh”, thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ
vang của mình. Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình
và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của nhân loại, thực
tiễn Việt Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết
để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con người cần có để
tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH. Muốn làm cách mạng thì con người
cần có tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả
dân tộc. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hằng ngày với dân, với nước, với
đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ được
CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân lao
động. Tuỳ theo từng thời kỳ cách mạng mà Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi
người cùng phấn đấu. Trong cuốn Đường Kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách
mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi có trí thì
cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, chấp
nhận, đi theo. Có đức nhưng phải có tài, đức và tài quan hệ mật thiết với nhau. Có đức nhưng
phải có tài,hồng và chuyên phải kết hợp, tài càng lớn thì đức càng phải cao, vì đức tài nhằm
phục vụ nhân dân. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và
CNXH.
LÒNG YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI PHM CHT CAO ĐP
TRONG TƯ TƯỞNG ĐO ĐC H CHÍ MINH
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, nhiều học thuyết đề cập đến số phận con người, phản ánh ước
mơ về một xã hội tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chỉ những học thuyết mang tính cách mạng và khoa
học mới có thể biến những ước mơ đó thành hiện thực. Chủ nghĩa Mác là một học thuyết như
vậy, bởi nó không chỉ mang tính nhân văn mà còn chỉ ra con đường đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất
công, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống bền vững vì thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả, đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và nhân loại.
1. Lòng yêu thương con người phm cht cao đẹp ca H Chí Minh
Tình yêu thương con người của Bác không phải là sự thương hại hay trắc ẩn từ xa mà là sự đồng
cảm sâu sắc với những người bị áp bức, bóc lột. Bác từng khẳng định:
lOMoARcPSD| 53331727
“Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân
loại đau khổ bị áp bức.”
Tình yêu thương ấy thúc đẩy Bác không ngừng đấu tranh để giải phóng con người. Mong muốn
lớn nhất của Bác là:
“Nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành.”
2. Lòng yêu thương con người đi đôi với công bằng, chí công vô tư
Bác yêu cầu cán bộ phải công bằng trong đối xử với nhân dân, không thiên vị tầng lớp nào.
Người dạy:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.”
Bác tin vào phẩm giá tốt đẹp của con người, cho rằng thiện – ác không phải do bản chất mà phần
nhiều do giáo dục. Vì vậy, Người nhấn mạnh:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà ra.”
Bác chủ trương khoan dung, độ lượng, cảm hóa những người lầm đường lạc lối, lấy nhân ái làm
phương châm đối xử với mọi người.
3. Lòng yêu thương con người vượt qua ranh gii dân tc
Không chỉ yêu thương nhân dân Việt Nam, Bác còn trân trọng con người trên toàn thế giới.
Người từng nói:
“Sinh mệnh của một người Pháp hay một người Việt Nam đều đáng quý như nhau.”
Trong chiến tranh, dù đấu tranh chống Mỹ, Bác vẫn bày tỏ sự đau lòng khi lính Mỹ bị giết, cảm
thông với nỗi đau của cha mẹ họ. Bác tin tưởng vào tương lai hòa bình, nơi nhân dân các nước
đến với nhau không phải bằng vũ khí mà bằng tình hữu nghị.
4. Hc tập tư tưởng yêu thương con ngưi ca Bác
Bác Hồ suốt đời quan tâm đến con người, lo cho nhân dân từ lúc gian khó đến khi đất nước giành
thắng lợi. Học tập tư tưởng của Bác, cán bộ, đảng viên ngày nay cần gần gũi dân, quan tâm đến
đời sống nhân dân, tích cực chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu. Chỉ khi thực sự tận tâm
phục vụ nhân dân, chúng ta mới xứng đáng với lời dạy của Bác.
lOMoARcPSD| 53331727
Trong lch s tư tưởng ca nhân loi, t xưa đến nay đã có nhiều hc thuyết, tư tưởng đề cập đến
s phận con người, phản ánh tâm tư, nguyện vng của con ngưi, th hin mức độ, giác độ tiếp
cận khác nhau. Nhưng đa phần ch dng li s phn ánh nhng nguyn vọng, ước mơ của con
ngưi v một tương lai, về nhng quan h giữa người và người tt đẹp hơn. Tuy nhiên, chỉ có hc
thuyết nào mang tính cách mng và khoa hc mi có th biến những ước mơ, nguyện vng chân
chính của con người tr thành hin thc.
Hc thuyết Mác s dĩ là một hc thuyết đy sc sống, đã chinh phục trái tim, khi óc ca hàng triu
con người gia thế k XIX đến nay, trước hết vì ch nghĩa Mác là lý tưởng mang tính nhân văn cao
cả. Nhưng quan trọng hơn là nó đã vạch ra con đường đ đi đến xóa b mi áp bc, bóc lt, bt
công trên trái đt, đ xây dng mt chế độ xã hi tt đẹp hơn theo những quy lut phát trin khách
quan ca xã hi.
Tư tưởng H Chí Minh trong thời đi ngày nay có sc sng bn vng và ảnh hưởng sâu sc
đến tư tưởng tình cm ca nhân dân Vit Nam và ca nhân dân nhiu dân tc trên Thế gii, chính
vì tư tưởng ca Bác thấm đượm ch nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng nhng yêu cu, nguyn vng
cháy bng và sâu xa ca dân tc và nhân loi.
Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng H Chí Minh trước hết biu hin tấm lòng yêu thương
con người, yêu thương nhân dân hết sc bao la, sâu sắc. Bác đã từng khái quát v triết lý cuc
sống: “ Nghĩ cho cùng, mi vấn đề … ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân,
thương nhân lọai đau khổ b áp bức”. Đó không phải là lòng thương hại của “bề trên” nhìn xuống,
cũng không phải là s động lòng trc n ca người “đứng ngoài” nhìn vào mà là sự đng cm ca
những con người cùng cnh ng vi thân phn nô lệ, người dân mất nước mà Bác đã từng tri qua
và tng chng kiến biết bao cảnh đau thương, ngang trái, bất công t khi người lớn lên cho đến lúc
bôn ba tìm đường cứu nưc. Bác khẳng định: “lòng yêu thương của tôi đi vi nhân dân và nhân
loi không bao gi thay đổi.”
Có th nói, phm chất cao đẹp trong tư tưởng H Chí Minh chính là lòng yêu thương vô hạn
đối với con người. T đó, Bác đòi hỏi mi cán b đảng viên phải có ý chí đấu tranh không mt mi
để giải phóng con người. Lúc sinh thi, Bác ch có mt ham mun tt bt làm sao “nước ta được
độc lập, dân ta được t do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng phải được học hành”.
V phn mình Bác ch mơ ước mt mái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để trng rau, sm
chiu làm bn cùng vi các c già hái ci và các em bé chăn trâu. T lòng yêu thương con người,
Bác đã không ngại bôn ba tìm đường cu nước và họat động không mt mỏi để lo cho nước, cho
dân. Trước khi đi gặp c Mác, c Lênin và các v cách mạng đàn anh khác, Bác vẫn luôn nghĩ đến
con người và s nghip gii phóng ca h. Tht sâu sc và cảm động biết bao khi thy nhng gì
Bác dặn chúng ta trong di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”, Bác yêu cầu Đảng, Chính
ph phải có thái độ, chính sách đối vi các tng lớp để đồng bào ta ai ai cũng mát d, mát lòng,
thêm nhiu phn khởi, đy mnh sn xut.
T lòng yêu thương con người, Bác cho rng phải đem lòng chí công vô tư trong đối x vi
người “phải biết làm cho các tng lớp nhân dân đoàn kết lại, không được bênh vc tng lp này,
chng li tng lp khác. Trong gii quyết nhng vấn đề phi nh câu không s thiếu ch s không
công bằng”.
T lòng yêu thương con người phi có nim tin mãnh lit vào phm giá tt đp ca con
người. Ngưi vạch rõ: “Người ta ai cũng có tính tốt và tính xu. Mỗi người đều có thin - ác trong
lòng”. Tuy nhiên, “tốt - xu, thin - ác không phi t nhiên mà có, phn nhiu do giáo dc mà ra”:
Ng thì ai cũng như lương thiện
Tnh dy phân ra k d hin
Hin d phải đâu là tính sẵn
Phn nhiu do giáo dc mà ra.
lOMoARcPSD| 53331727
Vì vy, Bác yêu cầu thái độ ca người Cách mng phi có lòng tin trong vic giáo dục đi vi
con người, “phải biết làm cho lòng tt trong mỗi con người ny n như hoa mùa xuân và phần xu
mt dần đi”. Kể c những người lầm đường lc li cng tác với địch, Bác cũng có thái đ bao dung.
“Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng dài ngắn đều đưc hp lại nơi bàn tay. Trong
my triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi ca t
tiên ta. Vy ta phi khoan hồng đại lượng, ta phi nhn rng con Lc cháu Hồng thì ai cũng ít nhiều
có lòng ái quốc. Đối vi những đồng bào lc li lm đường, ta phi ly tinh thn nhân ái mà cm hóa
h”.
Không nhng thế, tấm lòng bao dung và đại lượng ca Bác còn th hiện rõ hơn khi xử lý mi
quan h ta địch, bn thù. Tháng 9/1946, tr lời thư bà Chossie trong Hội liên hip Ph n Pháp,
Bác viết: “Theo tinh thần bn b đều là anh em, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến
thanh niênViệt Nam. Đối vi tôi, sinh mnh ca một ngưi Pháp hay sinh mnh ca một người Vit
Nam đều đáng quý như nhau… Tôi nghiêng mình trước linh hn nhng chiến sĩ và đồng bào Vit
Nam, đã vì Tổ quc mà hy sinh tính mệnh. Tôi cũng ngậm ngùi thương xót những người Pháp đã tử
vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay
ngưi Việt cũng đều là người…. Người Pháp hay người Việt cũng đều tin tưởng vào đạo đức: T
do, bình đẳng, bác ái, độc lập”.
Khi cuc chiến gia Vit Nam và M vào giai đoạn quyết lit, trong bui tiếp các nhà khoa
hc, các nhà báo M và Mexico Bác đã nói: “Đối với các ông, các ông khó mà tin được tôi ly làm
đau lòng không những khi nhân dân Vit Nam b giết hại, mà tôi cũng rất bun phin khi lính M b
giết. Tôi thông cm vi ni đau buồn ca cha m h. Vì vy, chúng tôi nói vi nhân dân chúng tôi
rng ta phi sn sàng hoan nghênh nhân dân M không phi h đến đây như hiện nay vi nhng
người lính mang vũ khí, mà khi họ đến mt ln nữa trong tương lai để giúp đỡ xây dựng đất nước
ta”.
Còn có th nêu lên nhiều hơn nữa nhng li nói, nhng mu chuyn th hin s rng m bao
dung v ng yêu thương con người trong tư tưởng ca Bác. Có l vì thế mà Burchett nhà báo
Australia ni tiếng đã nhận xét: “Nói tới một người mà c cuộc đời mình đã để li ân tình sâu nng
trong nhân dân thì không có mt ai khác ngòai Ch tch H Chí Minh”. Riêng bà Indira Gandi thì phát
biểu: “Tính độ ng, tính gin d, tình yêu nhân loi s tn tụy hy sinh và lòng dũng cảm của người
s c các thế h mai sau”.
Như vậy, chúng ta d dàng nhn ra rng trong mi hoàn cnh, lúc chiến tranh cũng như lúc
đã giành thắng lợi….. Bác đều luôn quan tâm đến con người, đến mi tng lp Nhân dân, th hin
tư tưởng và tm lòng rng mở, chu đáo, bao dung.
Hc tập tư tưởng, đạo đức của Bác trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi mi cán b, đng viên, dù
bt c cương v nào cũng phải tht gn dân, hc dân, có trách nhim vi nhân dân, quan tâm gii
quyết những khó khăn, bức xúc chính đáng của dân. Phải trăn trở và thy trách nhim ca mình khi
dân còn khó khăn, nghèo đói. Không chỉ chia s đồng cam cng kh vi dân mà còn phi biết tp
hp, t chc, động viên phát huy sc mnh của nhân dân, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khi
đói nghèo, đồng thi tích cực đấu tranh chng t tham nhũng, lãng phí và thói quan liêu, vô cảm, coi
thường qun chúng. Đó mới là hành động c th để thc hin li Bác dy
lOMoARcPSD| 53331727

Preview text:

lOMoAR cPSD| 53331727
NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam như tinh
thần đoàn kết, lòng nhân ái, ý chí kiên cường trong dựng nước và giữ nước. Trong đó, chủ nghĩa
yêu nước
là giá trị cốt lõi, xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước... Mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng mạnh mẽ, nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và cướp nước." Chính tinh thần yêu nước đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước vào năm
1911. Ban đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản, đã đưa Người
đến với Lênin và Quốc tế Cộng sản.
2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Bên cạnh truyền thống dân tộc, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của tinh hoa văn hóa Đông - Tây: •
Tư tưởng phương Đông: Người học chữ Nho, tiếp thu các giá trị tích cực của Nho giáo
như nhân nghĩa, tu thân, khiêm tốn, hòa nhã, lấy dân làm gốc. Tuy nhiên, Người cũng
phê phán những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu trong hệ thống Nho giáo phong kiến. •
Tư tưởng phương Tây: Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng dân chủ, nhân văn của thời kỳ
Phục hưng, Khai sáng, các cuộc cách mạng tư sản Pháp, Mỹ với các lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. •
Ảnh hưởng từ cách mạng Trung Quốc: Hồ Chí Minh nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn, trong đó có tư tưởng "Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc".
Người không chỉ tiếp thu mà còn chọn lọc, phát triển các giá trị này để phù hợp với hoàn cảnh
và nhu cầu cách mạng Việt Nam.
3. Chủ nghĩa Mác - Lênin – nền tảng tư tưởng quyết định
Từ năm 1911 đến 1917, Hồ Chí Minh đi qua nhiều nước tư bản và thuộc địa, nhận thấy bất công
xã hội vẫn tồn tại, ngay cả trong những quốc gia đề cao dân chủ và tự do. Đến năm 1919, Người
gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tham gia hoạt động chính trị.
Năm 1920, khi đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt tư tưởng, giúp Người
nhận ra rằng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới giải phóng triệt để dân tộc và giai cấp.
Tư tưởng Mác - Lênin giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa
học, từ đó phân tích, tổng hợp, vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác -
Lênin chính là cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 53331727
4. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo
Lý luận tư tưởng không phải tự nhiên mà có, mà phải qua quá trình thực tiễn và tư duy sáng tạo.
Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới. Những tố chất này giúp
Người vượt qua các thử thách, lựa chọn và phát triển con đường cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhờ hoạt động thực tiễn phong phú ở nhiều nước và sự phân tích, tổng hợp sâu sắc, Hồ Chí Minh
đã hình thành hệ thống tư tưởng cách mạng Việt Nam – kết hợp giữa chủ nghĩa Mác -
Lênin, tinh thần yêu nước, truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại
.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Giai đoạn trước khi ra đi tìm đường cứu nước (trước 6/1911)
Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh nước mất, chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và
những thất bại của các phong trào yêu nước. Gia đình Người có truyền thống hiếu học, yêu nước,
cha là một nhà Nho làm quan nhưng từ quan vì bất mãn với thực dân. Những yếu tố này đã nuôi
dưỡng tinh thần yêu nước, thôi thúc Người tìm con đường cứu nước mới. Không đi theo các con
đường cũ như bạo động hay cải lương, Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
2. Giai đoạn tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1911 - 1920)
Ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh rời bến Nhà Rồng, bắt đầu hành trình hơn 30 năm bôn ba khắp thế
giới. Người làm nhiều nghề, sống giữa công nhân, nông dân lao động, chứng kiến sự bất công
của chủ nghĩa tư bản và thực dân trên toàn cầu. Qua tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng, đặc biệt là
Cách mạng Tháng Mười Nga và Luận cương của Lênin (1920), Người xác định chủ nghĩa Mác -
Lênin là con đường giải phóng dân tộc, từ đó đi theo con đường cách mạng vô sản.
3. Giai đoạn hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh (1920-1930)
Người hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam. Năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, mở lớp huấn luyện
chính trị, viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân PhápĐường Cách mệnh, định hướng phong
trào yêu nước. Đến năm 1930, Người triệu tập Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh đầu tiên, xác định đường lối cách mạng đúng
đắn: giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản.
4. Giai đoạn thử thách và khẳng định đường lối cách mạng (1930-1941)
Sau khi Đảng ra đời, phong trào cách mạng Việt Nam bị đàn áp dữ dội. Hồ Chí Minh bị Quốc tế
Cộng sản phê phán là "dân tộc chủ nghĩa" nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh lOMoAR cPSD| 53331727
đường lối của Người là đúng đắn. Trong thời gian này, Người bị bắt giam tại Hồng Kông, sau đó
tiếp tục hoạt động, tìm cách về nước. Đến năm 1941, Người trở lại Cao Bằng, trực tiếp lãnh đạo
cách mạng, thành lập Mặt trận Việt Minh, phát động cao trào giải phóng dân tộc, chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
5. Giai đoạn lãnh đạo cách mạng, phát triển tư tưởng (1941-1969)
Năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, tuyên bố độc lập, khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tư tưởng của Người tiếp tục được phát triển trong quá
trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), rồi chống Mỹ cứu nước
(1954-1975) . Người xác định hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại đã trở thành kim chỉ
nam cho cách mạng Việt Nam.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị của quyền độc lập, tự do đối
với dân tộc vào thực tiễn
Quyền thiêng liêng, tự nhiên và bất khả xâm phạm của dân tộc
Xuyên suốt lịch sử Việt Nam, quyền độc lập, tự do luôn là giá trị thiêng liêng và bất khả xâm
phạm. Điều này được khẳng định từ "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt đến "Bình Ngô đại
cáo" của Nguyễn Trãi. Khi trở về nước năm 1941, Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ giải phóng
dân tộc là ưu tiên hàng đầu: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.”
Năm 1945, Người khẳng định: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập.” Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuyên
ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 nhấn mạnh: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng.”
Trong kháng chiến, tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trở thành kim chỉ nam cho
toàn dân. Sau khi thống nhất đất nước, tinh thần này tiếp tục được duy trì theo phương châm “dĩ
bất biến, ứng vạn biến.”
Quyền độc lập, tự do là tiền đề mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no,
mặc đủ.” Người cho rằng cách mạng không chỉ giành độc lập mà còn phải đảm bảo cuộc sống tốt
đẹp cho nhân dân: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh dặn dò Đảng quan tâm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân
dân. Đây là định hướng xuyên suốt trong công cuộc xây dựng đất nước.
Nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lOMoAR cPSD| 53331727
Từ năm 1986, công cuộc đổi mới đặt mục tiêu phát triển gắn liền với bảo vệ quyền độc lập, tự
do. Đại hội VI của Đảng khẳng định đổi mới phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nguyên tắc bất biến là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.”
Trong hội nhập quốc tế, Đảng ta quán triệt “hòa nhập nhưng không hòa tan,” kiên quyết bảo vệ
chủ quyền quốc gia. Đại hội VII (1991) nhấn mạnh xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006) tiếp tục khẳng định đổi mới phải dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam vượt qua nhiều thách thức, phát triển mạnh mẽ và nâng cao vị
thế quốc tế. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế như ngày nay.” Điều này minh chứng cho giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh
về quyền độc lập, tự do – nền tảng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền độc lập, tự do của dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã lãnh đạo nhân dân ta
giành độc lập và xây dựng đất nước trên nền tảng tự do, hạnh phúc. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Người luôn coi quyền độc lập, tự do là giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm
và đấu tranh không ngừng nghỉ để bảo vệ, phát triển quyền này.
1. Quyền độc lập, tự do phải toàn diện và triệt để
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng độc lập không chỉ đơn thuần là tách khỏi ách đô hộ của thực dân,
đế quốc mà còn phải là một nền độc lập thực sự, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Người khẳng định:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập."
Theo Người, một dân tộc dù có tuyên bố độc lập nhưng vẫn bị phụ thuộc vào các thế lực bên
ngoài, không làm chủ được vận mệnh của mình, thì đó chưa phải là một nền độc lập thực sự. Vì
vậy, quyền tự do phải bao gồm việc làm chủ đất nước, quyết định con đường phát triển của dân
tộc, không bị lệ thuộc hay chi phối bởi bất kỳ thế lực nào.
2. Quyền độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh giành độc lập mà còn luôn trăn trở về việc xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn cho nhân dân. Theo Người, độc lập, tự do không có ý nghĩa nếu nhân dân vẫn đói
nghèo, lầm than. Người khẳng định: lOMoAR cPSD| 53331727
"Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì."
Người nhấn mạnh rằng độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới có thể đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đưa đất nước phát triển bền
vững. Đây cũng chính là con đường mà Việt Nam đã kiên định theo đuổi từ khi giành được độc lập.
3. Độc lập, tự do gắn với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng nền độc lập, tự do của Việt Nam phải bao trùm toàn bộ lãnh
thổ, không thể chấp nhận bất kỳ sự chia cắt nào. Người tuyên bố:
"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
ấy không bao giờ thay đổi."
Tư tưởng này đã trở thành kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh giành lại thống nhất đất nước trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính nhờ tinh thần này mà Việt Nam đã kiên
trì chiến đấu, giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975, đưa đất nước về một mối.
4. Độc lập, tự do phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật
Hồ Chí Minh không chỉ nêu cao tư tưởng về độc lập, tự do mà còn chỉ đạo đưa tư tưởng đó vào
thực tiễn thông qua các văn bản pháp luật. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã chỉ đạo
soạn thảo Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
trong đó nhấn mạnh quyền tự quyết của dân tộc và quyền làm chủ của nhân dân.
Người cho rằng nền độc lập, tự do chỉ thực sự vững chắc khi được đảm bảo bằng hệ thống luật
pháp tiến bộ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân. Vì vậy, trong các bản Hiến pháp sau
này, tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền độc lập, tự do vẫn luôn được kế thừa và phát triển.
5. Đấu tranh vì độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân tộc khác
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam mà còn hết lòng ủng hộ phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Người khẳng định:
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do."
Tư tưởng này thể hiện sự đoàn kết quốc tế, tinh thần tương trợ giữa các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới. Trong suốt quá trình hoạt động, Người luôn kêu gọi nhân dân Việt Nam đoàn kết
với các phong trào cách mạng ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin, đồng thời kiên quyết phản đối
mọi hành động xâm lược, áp bức của các thế lực thực dân, đế quốc. Kết luận lOMoAR cPSD| 53331727
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền độc lập, tự do của dân tộc không chỉ có ý nghĩa
sâu sắc đối với Việt Nam mà còn là một nguồn cảm hứng lớn cho các dân tộc bị áp bức trên thế
giới. Người đã khẳng định rằng độc lập, tự do là điều kiện tiên quyết để xây dựng một đất nước
giàu mạnh, hạnh phúc, và nền độc lập ấy chỉ có giá trị thực sự khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
với đời sống ấm no của nhân dân.
Ngày nay, tư tưởng đó vẫn tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng
định quyết tâm gìn giữ chủ quyền dân tộc và phát triển đất nước theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của Đạo đức
Quan niệm về vai trò ,vị chí của đạo đức cách mạng:
Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, chúng ta phải đem hết tinh thần và lực lượng ra phấn đấu, phải tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên. Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cho thanh niên, đào tạo họ thành những người kế
thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức được xem xét trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Vai trò của đạo đức cách
mạng là to lớn, Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như đối với con người, sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm
vụ cách mạng. Bởi lẽ con đường đi đến độc lập dân tộc và CNXH là con đường dài, đòi hỏi sự
phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc,
cái nguồn, cái nền tảng ấy là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình
và mỗi người trong xã hội ta.
Đạo đức là gốc, là nền tảng vì nó liên quan tới Đảng cầm quyền. Nguy cơ của đảng cầm quyền
đó là sự sai lầm về đường lối, suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm
quyền lãnh đạo xã hội, nếu cán bộ đảng viên không tu dưỡng đạo đức thì mặt trái của quyền lực
có thể làm tha hoá con người. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng “Đảng là đạo đức, là văn minh”.
Vai trò của đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con người. Mỗi người có công việc,
tài năng, vị trí khác nhau… nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng thì là người cao thượng. -
Các thế hệ người Việt Nam phấn đấu cho độc lập dân tộc đến với Hồ Chí Minh trước hết
là đến với tư tưởng đạo đức của Người. “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ
vĩ đại” là khẩu hiệu chung của người Việt Nam -
Tư tưởng đạo đức và bản thân đạo đức của Hồ Chí Minh là kết tinh đạo đức của dân tộc,
của nhân loại. Hồ Chí Minh là điểm rực sáng về đạo đức đối với thế giới và đối với Việt Nam.
Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”. lOMoAR cPSD| 53331727
Theo Lênin, “đạo đức là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn
kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của
những người cộng sản.”
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng “là đạo đức, là văn minh”, thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ
vang của mình. Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình
và của thời đại. Trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về CNMLN, tri thức hiện đại của nhân loại, thực
tiễn Việt Nam và thế giới, những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết
để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đạo đức là những phẩm chất mà con người cần có để
tham gia vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH. Muốn làm cách mạng thì con người
cần có tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, với cả
dân tộc. Cái tâm ấy phải thể hiện trong các mối quan hệ xã hội hằng ngày với dân, với nước, với
đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình. Phải có tâm, có đức mới giữ được
CNMLN và đưa chủ nghĩa MLN vào trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh cũng quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân lao
động. Tuỳ theo từng thời kỳ cách mạng mà Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi
người cùng phấn đấu. Trong cuốn Đường Kách mệnh, bài đầu tiên nói về tư cách người cách
mệnh, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí, và khi có trí thì
cái đức đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, chấp
nhận, đi theo. Có đức nhưng phải có tài, đức và tài quan hệ mật thiết với nhau. Có đức nhưng
phải có tài,hồng và chuyên phải kết hợp, tài càng lớn thì đức càng phải cao, vì đức – tài nhằm
phục vụ nhân dân. Đạo đức là gốc, là vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
LÒNG YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI – PHẨM CHẤT CAO ĐẸP
TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, nhiều học thuyết đề cập đến số phận con người, phản ánh ước
mơ về một xã hội tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chỉ những học thuyết mang tính cách mạng và khoa
học mới có thể biến những ước mơ đó thành hiện thực. Chủ nghĩa Mác là một học thuyết như
vậy, bởi nó không chỉ mang tính nhân văn mà còn chỉ ra con đường đấu tranh xóa bỏ áp bức, bất
công, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống bền vững vì thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả, đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam và nhân loại.
1. Lòng yêu thương con người – phẩm chất cao đẹp của Hồ Chí Minh
Tình yêu thương con người của Bác không phải là sự thương hại hay trắc ẩn từ xa mà là sự đồng
cảm sâu sắc với những người bị áp bức, bóc lột. Bác từng khẳng định: lOMoAR cPSD| 53331727
“Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân
loại đau khổ bị áp bức.”
Tình yêu thương ấy thúc đẩy Bác không ngừng đấu tranh để giải phóng con người. Mong muốn lớn nhất của Bác là:
“Nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.”
2. Lòng yêu thương con người đi đôi với công bằng, chí công vô tư
Bác yêu cầu cán bộ phải công bằng trong đối xử với nhân dân, không thiên vị tầng lớp nào. Người dạy:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.”
Bác tin vào phẩm giá tốt đẹp của con người, cho rằng thiện – ác không phải do bản chất mà phần
nhiều do giáo dục. Vì vậy, Người nhấn mạnh:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà ra.”
Bác chủ trương khoan dung, độ lượng, cảm hóa những người lầm đường lạc lối, lấy nhân ái làm
phương châm đối xử với mọi người.
3. Lòng yêu thương con người vượt qua ranh giới dân tộc
Không chỉ yêu thương nhân dân Việt Nam, Bác còn trân trọng con người trên toàn thế giới. Người từng nói:
“Sinh mệnh của một người Pháp hay một người Việt Nam đều đáng quý như nhau.”
Trong chiến tranh, dù đấu tranh chống Mỹ, Bác vẫn bày tỏ sự đau lòng khi lính Mỹ bị giết, cảm
thông với nỗi đau của cha mẹ họ. Bác tin tưởng vào tương lai hòa bình, nơi nhân dân các nước
đến với nhau không phải bằng vũ khí mà bằng tình hữu nghị.
4. Học tập tư tưởng yêu thương con người của Bác
Bác Hồ suốt đời quan tâm đến con người, lo cho nhân dân từ lúc gian khó đến khi đất nước giành
thắng lợi. Học tập tư tưởng của Bác, cán bộ, đảng viên ngày nay cần gần gũi dân, quan tâm đến
đời sống nhân dân, tích cực chống tham nhũng, lãng phí và quan liêu. Chỉ khi thực sự tận tâm
phục vụ nhân dân, chúng ta mới xứng đáng với lời dạy của Bác. lOMoAR cPSD| 53331727
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, từ xưa đến nay đã có nhiều học thuyết, tư tưởng đề cập đến
số phận con người, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của con người, thể hiện ở mức độ, giác độ tiếp
cận khác nhau. Nhưng đa phần chỉ dừng lại ở sự phản ánh những nguyện vọng, ước mơ của con
người về một tương lai, về những quan hệ giữa người và người tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, chỉ có học
thuyết nào mang tính cách mạng và khoa học mới có thể biến những ước mơ, nguyện vọng chân
chính của con người trở thành hiện thực.
Học thuyết Mác sở dĩ là một học thuyết đầy sức sống, đã chinh phục trái tim, khối óc của hàng triệu
con người giữa thế kỷ XIX đến nay, trước hết vì chủ nghĩa Mác là lý tưởng mang tính nhân văn cao
cả. Nhưng quan trọng hơn là nó đã vạch ra con đường để đi đến xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất
công trên trái đất, để xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn theo những quy luật phát triển khách quan của xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay có sức sống bền vững và ảnh hưởng sâu sắc
đến tư tưởng tình cảm của nhân dân Việt Nam và của nhân dân nhiều dân tộc trên Thế giới, chính
vì tư tưởng của Bác thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng
cháy bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân loại.
Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết biểu hiện ở tấm lòng yêu thương
con người, yêu thương nhân dân hết sức bao la, sâu sắc. Bác đã từng khái quát về triết lý cuộc
sống: “ Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề … ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân,
thương nhân lọai đau khổ bị áp bức”. Đó không phải là lòng thương hại của “bề trên” nhìn xuống,
cũng không phải là sự động lòng trắc ẩn của người “đứng ngoài” nhìn vào mà là sự đồng cảm của
những con người cùng cảnh ngộ với thân phận nô lệ, người dân mất nước mà Bác đã từng trải qua
và từng chứng kiến biết bao cảnh đau thương, ngang trái, bất công từ khi người lớn lên cho đến lúc
bôn ba tìm đường cứu nước. Bác khẳng định: “lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân
loại không bao giờ thay đổi.”
Có thể nói, phẩm chất cao đẹp trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là lòng yêu thương vô hạn
đối với con người. Từ đó, Bác đòi hỏi mọi cán bộ đảng viên phải có ý chí đấu tranh không mệt mỏi
để giải phóng con người. Lúc sinh thời, Bác chỉ có một ham muốn tột bật là làm sao “nước ta được
độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng phải được học hành”.
Về phần mình Bác chỉ mơ ước một mái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để trồng rau, sớm
chiều làm bạn cùng với các cụ già hái củi và các em bé chăn trâu. Từ lòng yêu thương con người,
Bác đã không ngại bôn ba tìm đường cứu nước và họat động không mệt mỏi để lo cho nước, cho
dân. Trước khi đi gặp cụ Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, Bác vẫn luôn nghĩ đến
con người và sự nghiệp giải phóng của họ. Thật sâu sắc và cảm động biết bao khi thấy những gì
Bác dặn chúng ta trong di chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người”, Bác yêu cầu Đảng, Chính
phủ phải có thái độ, chính sách đối với các tầng lớp để đồng bào ta ai ai cũng mát dạ, mát lòng,
thêm nhiều phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Từ lòng yêu thương con người, Bác cho rằng phải đem lòng chí công vô tư trong đối xử với
người “phải biết làm cho các tầng lớp nhân dân đoàn kết lại, không được bênh vực tầng lớp này,
chống lại tầng lớp khác. Trong giải quyết những vấn đề phải nhớ câu không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”.
Từ lòng yêu thương con người phải có niềm tin mãnh liệt vào phẩm giá tốt đẹp của con
người. Người vạch rõ: “Người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu. Mỗi người đều có thiện - ác trong
lòng”. Tuy nhiên, “tốt - xấu, thiện - ác không phải tự nhiên mà có, phần nhiều do giáo dục mà ra”:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà ra. lOMoAR cPSD| 53331727
Vì vậy, Bác yêu cầu thái độ của người Cách mạng phải có lòng tin trong việc giáo dục đối với
con người, “phải biết làm cho lòng tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu
mất dần đi”. Kể cả những người lầm đường lạc lối cộng tác với địch, Bác cũng có thái độ bao dung.
“Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng dài ngắn đều được hợp lại nơi bàn tay. Trong
mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ
tiên ta. Vậy ta phải khoan hồng đại lượng, ta phải nhận rằng con Lạc cháu Hồng thì ai cũng ít nhiều
có lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tinh thần nhân ái mà cảm hóa họ”.
Không những thế, tấm lòng bao dung và đại lượng của Bác còn thể hiện rõ hơn khi xử lý mối
quan hệ ta – địch, bạn – thù. Tháng 9/1946, trả lời thư bà Chossie trong Hội liên hiệp Phụ nữ Pháp,
Bác viết: “Theo tinh thần bốn bể đều là anh em, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến
thanh niênViệt Nam. Đối với tôi, sinh mệnh của một người Pháp hay sinh mệnh của một người Việt
Nam đều đáng quý như nhau… Tôi nghiêng mình trước linh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt
Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mệnh. Tôi cũng ngậm ngùi thương xót những người Pháp đã tử
vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay
người Việt cũng đều là người…. Người Pháp hay người Việt cũng đều tin tưởng vào đạo đức: Tự
do, bình đẳng, bác ái, độc lập”.
Khi cuộc chiến giữa Việt Nam và Mỹ vào giai đoạn quyết liệt, trong buổi tiếp các nhà khoa
học, các nhà báo Mỹ và Mexico Bác đã nói: “Đối với các ông, các ông khó mà tin được tôi lấy làm
đau lòng không những khi nhân dân Việt Nam bị giết hại, mà tôi cũng rất buồn phiền khi lính Mỹ bị
giết. Tôi thông cảm với nỗi đau buồn của cha mẹ họ. Vì vậy, chúng tôi nói với nhân dân chúng tôi
rằng ta phải sẳn sàng hoan nghênh nhân dân Mỹ không phải họ đến đây như hiện nay với những
người lính mang vũ khí, mà khi họ đến một lần nữa trong tương lai để giúp đỡ xây dựng đất nước ta”.
Còn có thể nêu lên nhiều hơn nữa những lời nói, những mẩu chuyện thể hiện sự rộng mở bao
dung về lòng yêu thương con người trong tư tưởng của Bác. Có lẽ vì thế mà Burchett – nhà báo
Australia nổi tiếng đã nhận xét: “Nói tới một người mà cả cuộc đời mình đã để lại ân tình sâu nặng
trong nhân dân thì không có một ai khác ngòai Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Riêng bà Indira Gandi thì phát
biểu: “Tính độ lượng, tính giản dị, tình yêu nhân loại sự tận tụy hy sinh và lòng dũng cảm của người
sẽ cổ vũ các thế hệ mai sau”.
Như vậy, chúng ta dể dàng nhận ra rằng trong mỗi hoàn cảnh, lúc chiến tranh cũng như lúc
đã giành thắng lợi….. Bác đều luôn quan tâm đến con người, đến mọi tầng lớp Nhân dân, thể hiện
tư tưởng và tấm lòng rộng mở, chu đáo, bao dung.
Học tập tư tưởng, đạo đức của Bác trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên, dù
ở bất cứ cương vị nào cũng phải thật gần dân, học dân, có trách nhiệm với nhân dân, quan tâm giải
quyết những khó khăn, bức xúc chính đáng của dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi
dân còn khó khăn, nghèo đói. Không chỉ chia sẽ và đồng cam cộng khổ với dân mà còn phải biết tập
hợp, tổ chức, động viên phát huy sức mạnh của nhân dân, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khỏi
đói nghèo, đồng thời tích cực đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí và thói quan liêu, vô cảm, coi
thường quần chúng. Đó mới là hành động cụ thể để thực hiện lời Bác dạy lOMoAR cPSD| 53331727