Nguyên tắc Pacta sunt servanda học phần Xã hội học pháp luật của trường đại học Luật Hà Nội

Nguyên tắc Pacta sunt servanda học phần Xã hội học pháp luật của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem! 

lOMoARcPSD|27879 799
Nguyên tắc Pacta sunt servanda
I. Khái quát về nguyên tắc Pacta sunt servanda
1. Khái niệm:
Nguyên tắc Pacta sunt Servanda hay còn gọi là nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết
quốc tế được xuất hiện từ rất sớm. "Pacta" có nghĩa là thỏa thuận, điều ước cũng như hợp đồng,
theo từ ngữ La Tinh. Thiện c là các chủ thể khi tham gia vào các quan hquốc tế, thực hiện
các điều ước quốc tế phải vì mục đích tốt đẹp, vì lợi ích của tất cảc bên tham gia, kí kết. Việc
thực hiện các cam kết phải trên cơ sở tự nguyện, không chịu sự ép buc từ bất kì yếu tố nào
khác. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế đưc hiểu khi các bên chủ thể
trong quan hệ quc tế tham gia vàokết các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) thì phải dựa trên cơ sở
của sự thỏa thuận và tự nguyện, bình đng. Đồng thời, khi đã tham gia vào ĐƯQT đó c quốc
gia phải có nghĩa vụ tuân thnội dung mà mình đã cam kết.
2. Nguồn gốc:
Trong hệ thống các quy phạm pháp luật của mỗi một ngành hay một hệ thống pháp luật, đều có
một số các quy phạm được gọi là nguyên tắc ca ngành hay hệ thống pháp luật ấy. Trong luật
quốc tế, nguyên tắc cơ bản ca ngành luật này thực hiện hai chức năng quan trọngổn định
quan hquốc tế và ấn định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hquốc tế, tạo điều
kiện cho quan hệ quốc tế phát triển. Bảy nguyên tắc của luật quốc tế bao gồm:
(i) Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ lực
(ii) Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình
(iii) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
(iv) Nguyên tắc hợp tác với các quc gia khác
(v) Nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc
(vi) Nguyên tắc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ
Trong tổng cộng bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện
cam kết quốc tế hay còn gọi là nguyên tắc Pacta sunt servanda là nguyên tắc có lịch sử lâu đời
nhất và đưc công nhận rộng rãi. Tiền thân của nguyên tắc này là nguyên tắc tuân thủ các điều
ước xuất hiện từ thời La Mã cổ đại và tồn tại hàng nghìn năm dưới dạng tập quán pháp lý quốc
tế trước khi được ghi nhận chính thức. Một trong những nguyên tắc cơ bản điều chỉnh việc xác
lập và thực thi các nghĩa vụ pháp lý, bất kthuộc nguồn nào, là nguyên tắc thiện chí. Sự tin
tưởng, tin cậy là bản chất của hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong thời đại mà hợp tác trong nhiều
lĩnh vực đang trthành một phần thiết yếu.
3. Cơ sở pháp lý:
lOMoARcPSD|27879 799
Khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc: "Tất cả các thành viên đều phải thực hiện một
cách có thiện ý nhng nga vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này, nhằm đảm bảo
hưởng toàn b các quyn và ưu đãi do tư cách thành viên có."
Cùng với đó, Điều 26 Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế chỉ ra rằng: "Mọi
điều ưc đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện
chí". Ngoài các văn bản trên, nguyên tắc này còn được ghi nhận một ch chính thức trong
Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bn của luật quốc tế. Có phạm vi áp dụng cho tất cả
các nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh t tất cả cam kết quốc tế (bao gồm cả điều ước quốc tế,
tập quán quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung hay nh vi pháp lý đơn phương).
4. Ý nghĩa của nguyên tắc Pacta sunt servanda:
Với nguyên tắc Pacta sunt servanda tận tâm, thiện chí sẽ đảm bảo việc thực hiện các cam kết đã
kết giữa các quốc gia, đảm bảo đưc sự tự nguyện khi tham gia ký kết điều ước quốc tế hoặc
quyết định các điều khoản trong hiệp ước của mình. đảm bảo trật tự pháp lý quốc tế. Ngoài ra,
đây n là căn cứ giải quyết tranh chấp quốc tế, khi có sự phát sinh và có hiệu lực của điều ước
quốc tế. II. Ni dung:
Thnhất, các điều ước quốc tế đang có hiệu lực đối với c bên kết thì đều ràng buộc
(binding) đối với các bên đó, bất kể chính điều ước quốc tế có ghi nhận trong điều khon về
nguyên tắc pacta sunt servanda hay không. Một điều ước quốc tế đang có hiệu lực thì sẽ tạo ra
ràng buộc pháp lý đối với quốc gia thành viên. Nội dung này có tính chất đương nhiên, minh
thị, và không thể phủ nhận, và cũng không cần thiết chứng minh thêm.
Ở đây, nguyên tắc pacta sunt servanda có hai điều kiện để có thể áp dụng: văn kiện liên quan
phải là điu ước quốc tế và đã bắt đầu có hiệu lực đối với quốc gia thành viên. Điều ước "đang
có hiệu lực" cũng bao gồm cả trưng hợp áp dụng tạm thời điều ước theo Điều 25 của Công
ước Viên 1969 (provisional application). Điều ưc "đang có hiệu lực" bao gồm điều ước chưa
có hiệu lực, điều ước bị vô hiệu, và điều ước đã bị đình chỉ thi hành hay hủy bỏ. n cạnh đó,
mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế, tuân thủ mt
cách triệt để, không do dự và không phụ thuộc vào các sự kiện xảy ra trong nước cũng như quốc
tế. Không chó phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện xem xét lại điều ước quốc tế.
Hành vi này chỉ được thực hin với phương thức đình chỉ và xem xét hợp pháp theo sự thỏa
thun của các bên là thành viên điều ước.
Thhai, các bên ký kết có nghĩa vụ phải thực thi các điều ước đang có hiệu lực một cách thiện
chí. Khi điều ước đã bắt đầu có hiệu lực ràng buộc, thì các quốc gia cũng bắt đu phải thực thi
điều ưc quốc tế đó, và phải thực thi theo cách thứ thiện chí. Cthể mọi chủ thể có nghĩa vụ
thực hiện tự nguyện và có thiện chí các nghĩa vụ quốc tế được xác lập theo pp luật quốc tế.
Các quốc gia không có quyền kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình được
quy định theo điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia kí kết. Ngoài ra việc cắt đứt quan hệ
ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các quốc gia thành viên của điều ước quốc tế không làm
lOMoARcPSD|27879 799
ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các quốc gia, trừ trường hợp các quan hệ
ngoại giao, quan hệ lãnh sự là đi tượng cho việc thực hiện điều ước quốc tế. Và các quốc gia
thành viên điều ước quốc tế không đưc viện dẫn các quy định ca pháp luật quốc gia đtừ
chối thực hiện nghĩa vụ của mình.
III. Ngoại lệ:
Khi Điều ước quốc tế có ni dung trái với Hiến chương Liên Hiệp Quốc, nguyên tắc cơ bản của
Luật Quốc tế: trong trường hợp có xung đt giữa nghĩa vụ của Thành viên Liên Hợp Quốc theo
Hiến chương này và nghĩa vụ theo bất kỳ tha thuận quốc tế khác, nghĩa v theo Hiến chương
này được ưu tiên áp dụng. Quốc gia không phải thực hiện Điều ưc Quốc tế khi một trong các
bên hoặc các bên vi phạm quy định của pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục kí kết điều
ước quốc tế. Khi một thành viên không thực hiện nghĩa v điều ước của mình thì mt trong các
thành viên khác có quyn từ chi thực hiện nghĩa v. Quốc gia có quyền từ chối thực hiện điều
ước quốc tế khi có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (Rebus sis Stantibus).
IV. Thực tiễn thực hiện nguyên tc Pacta sunt servanda
Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các điều ước đã kí kết một cách tận tâm, thiện chí như đối
với vụ Philippines kiện Trung Quc. Trung Quốc thi nh chính sách ba không: không công
nhận thẩm quyền của Tòa, không tham gia, không chấp nhn thi hành phán quyết. Nhưng là một
thành viên Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công ước viên năm 1969 vLuật Điều ưc quốc tế và
UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định của Công ưc,
trong đó có nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài (theo nguyên tắc Pacta Sunt
Servanda - tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế). Là chủ thể của luật quốc tế, Trung
Quốc có nghĩa vụ tuân th các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế - những tưởng chính
trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, giá tr bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi ch
thể luật quốc tế, mà một trong những nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế là nguyên tắc
Pacta sunt servanda. Khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 hay Điều 26
Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế chỉ ra rằng: "Mọi điều ước đã có hiệu lực
đều ràng buộc các bên tham gia và phải đưc các bên thi hành với thiện chí". Nguyên tắc này
còn được ghi nhận mt cách chính thức trong Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản ca
luật quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc là bên ký kết và phê chun UNCLOS có nghĩa là họ
đồng ý với toàn bộ Công ước, trong đó có những phần và điều khoản liên quan đến giải quyết
tranh chấp. Philipines đã căn cứ vào mục giải quyết tranh chấp bt buộc của Công ưc để đưa
các vấn đề ra Tòa. Tòa Trọng tài được thành lập theo đúng quy định ở ph lc VII của Công
ước. Công ước cũng quy định rõ thủ tục thành lp a và quy trình xét xử nếu một bên trực tiếp
liên quan không tham gia và trên thực tế, a trọng tài vụ kiện Philippines - Trung Quốc đã
được thành lập và tiến hành xem xét các nội dung theo đúng các quy trình này. Vì vậy, khi phán
quyết đưc ban hành, là một thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tận tâm, thiện
chí thực hiện c quy định ca Công ước, trong đó có nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa
Trọng tài. Ngoài ra, Trung Quốc từng tuyên bố rút khỏi UNCLOS nhưng cũng sẽ không làm
lOMoARcPSD|27879 799
mất đi nghĩa vụ ca họ phải thực hiện theo phán quyết ca a Trọng tài do không ảnh hưởng
đến giá trị pháp ca phán quyết.
Như vậy, c nguyên tắc cơ bản của Luật quc tế là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chp
quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế thường đưc viện dẫn trong hệ thống các
quan của Luật quốc tế. Trong đó, nguyên tắc pacta sunt servanda có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
bởi lẽ trong quan hquốc tế không tn tại bộ máy hoàn toàn thực hiện chức năng cưỡng chế
tuân thủ quy phạm pháp luật quốc tế, mà việc thực hiện nó phụ thuộc trưc hết và chủ yếu vào
thiện chí và tính tự giác của các bên chủ thể.
Quy phạm Jus corgens
1. Khái niệm
Quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung (jus cogens) là một nm quy phạm pp luật quốc tế có
giá trị pháp lý cao nhất.
Jus cogens xuất hiện lần đầu trong Công ước Viên vLuật điều ước quốc tế nằm 1969. Điều 53
Công ước quy định “quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung quy phạm được chấp nhận và công
nhận bởi toàn thể cng đồng quốc tế ca các quốc gia như một quy phạm mà không cho pp
bất kỳ quy định trái ngược, và chỉ có thể thay đổi bằng một quy phạm sau đó của luật pháp quốc
tế chung có tính chất tương tự.” Hai tính chất đặc biệt ca jus cogens là:
- Phải được toàn thể cộng đồng quốc tế công nhận và chấp nhận;
- Không cho phép bất k quy định nào đưc trái ngược, kể cả điều ước hay tập quán.
Cho đến hiện nay Tòa ICJ chỉ mới công nhận một cách rõng một quy định được xem là quy
phạm jus cogens: quy định về cấm tra tấn. Việt Nam cho rằng nguyên tắc bình đẳng chủ quyền
và toàn vnnh thổ cũng là quy phạm jus cogens
2. Khái quát chung về trật tự thứ bậc giữa các nguồn cơ bản của luật quc tế
Điều 38 (1) Quy chế a án Công lý quốc tế (ICJ) được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi
như là một tuyên bố chính thức về các nguồn ca luật quốc tế, trong đó liệt kê các nguồn theo
thứ tnhư sau: điều ước quốc tế, luật tập quán quốc tế, nguyên tắc chung ca luật, phán quyết
của tòa án quốc tế và học thuyết ca các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế.
Mặc dù còn có quan điểm khác nhau về phân loại các nguồn nhưng các học giả đều cho rằng,
điều ưc quốc tế và luật tập quán quốc tế là nguồn cơ bản. Phán quyết của tòa án quốc tế và học
thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế chỉ là “phương tiện để xác
địnhcác quy phạm pháp luật”.
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, các quy định của pháp luật được ban hành và có trật tự th
bậc hiệu lực rõ ràng, trong đó hiến pháp có hiệu lực cao nhất, sau đó là luật và các văn bản
lOMoARcPSD|27879 799
hướng dẫn thi hành; bất kỳ quy đnh nào trái vi hiến pháp đều vô hiệu. Trong luật quốc tế, các
nguyên tắc và quy phạm pp luật được hình thành trên cơ sở thỏa thun, được ghi nhận trong
điều ưc quốc tế và luật tập quán quốc tế. Vì vậy, các nguồn ca luật quốc tế không được sắp
xếp theo trật tự thứ bậc hiu lực với nghĩa là nguồn luật nào v trí cao hơn thì các quy phạm
trong nguồn luật đó có hiệu lực loại bỏ việc áp dụng các quy phm mâu thuẫn với nó thuộc loại
nguồn còn lại.
Trên thực tế, trong quá trình soạn tho Quy chế ICJ, đề xuất về trật tự th bậc giữa các nguồn
được liệt kê trong Điều 38 đã bị từ chối. Thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế cho thấy tính
phổ biến (từ cao đến thấp) trong sử dụng các nguồn cơ bản liệt kêĐiều 38(1) Quy chế ICJ là:
điều ưc quốc tế, luật tập quán quốc tế và cuối ng là các nguyên tắc chung của luật. Điều này
đồng nghĩa với việc các thẩm phán coi điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế là những
nguồn quan trọng nhất, trong đó điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng rồi đến luật tập quán
quốc tế và cuối cùng là các nguyên tắc chung ca luật. Tuy nhiên, thực tiễn này không nghĩa
là ICJ thừa nhận một hệ thống phân cấp thứ bậc giữa các nguồn được liệt kê trong Điều 38 Quy
chế ICJ. Khi xác định luật có thể áp dụng trong c tranh chấp quốc tế, Tòa không đề cập đến
các quy tắc về thứ tự ưu tiên hoặc hiệu lực của các điều ước. Thc tiễn này chỉ cho thấy, trong
nhng trường hợp c thể, a sẽ ưu tiên thứ tự được nêu trong điều khon Điều 38 Quy chế
ICJ.
3. Sự cn thiết phải thừa nhận một s quy phạm có hiệu lực cao hơn các quy phạm khác
Điều ước và luật tập quán quốc tế có giá trị pháp lý như nhau và song song tồn tại. Vì vậy, cùng
một nghĩa vụ có thđược m thấy trong cả nguồn điều ước và luật tập quán. dụ, nghĩa vụ
không sử dụng vũ lực được quy định trong Điều 2 (4) Hiến chương Liên hiệp quốc (UN), nhưng
nghĩa vụ này cũng đồng thời tồn tại như là luật tập quán quốc tế. Trong trường hợp, cùng mt
vấn đề nhưng quy tắc xử sự theo luật tập quán lại xung đt với quy tắc xử sự đưc ghi nhận
trong điều ước thì cơ quan tài phán quốc tế sẽ áp dụng quy tắc x sự thuộc nguồn luật nào?
Giữa điều ước quốc tế hình thành trước với luật tập quán quốc tế hình thành sau thì áp dụng
nguồn luật nào?... Điều này đặt ra yêu cầu phải xác định thứ bậc hiệu lực áp dụng giữa các quy
tắc xử sự thuộc các nguồn khác nhau của luật quốc tế.
Sự cần thiết phải nhận ra và phác tho một hệ thống phân cấp giữa các quy phạm (và do đó
phân cấp giữa các nguồn ca chúng) trong luật quốc tế ngày càng trở nên cần thiết hơn bởi vì,
trong c thp kỷ gần đây, luật quốc tế đã phát triển rất nhanh chóng với hàng loạt điều ước
quốc tế đưc ký kết. n cạnh đó, ngày càng có nhiều cơ quan tài pn quốc tế được thành lập
và hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của luật quốc tế, ví dụ như Tòa Luật Biển quốc tế
(ITLOS), Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO (DSB), Trọng tài trong lĩnh vực đầu tư quốc
tế (ICSID), Tòa án Hình sự quốc tế (ICC), Tòa án Nhân quyền châu Âu (ECtHR)… Tuy nhiên,
khi giải quyết một vụ việc, các cơ quan tài phán chỉ có thẩm quyền áp dụng luật quốc tế trong
phạm vi nhất định, trên cơ sở các điều khoản thành lập cơ quan tài phán đó mà kng thể xem
xét và so sánh với các quy định thuộc ngành luật khác. Số lượng các điều ước và cơ quan tài
lOMoARcPSD|27879 799
phán quốc tế tiếp tục tăng lên, dễ dẫn tới tình trạng mâu thuẫn giữa các quy định của các ngành
luật khác nhau thuộc các nguồn luật khác nhau. Ví dụ, “quyền được hưởng mức sống thích
đángquy định tại Điều 11 Công ước năm 1966 về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được
xem là một trong những quyền cơ bản của con người. Việc thực hiện quyn này có thể ảnh
hưởng c hoạt động kinh tế thương mại của một quốc gia và do đó, mâu thuẫn với các quy
định trong luật thương mại quốc tế. Trong trường hợp này, quy tắc pháp lý thuộc nguồn của
ngành luật nào sẽ được áp dụng? Nếu thừa nhận thứ bậc hiệu lực áp dụng giữa các ngun của
luật quốc tế t các thẩm pn ng không cần phải c gắng tìm ra cách để hiểu một quy tắc này
luôn phải phù hợp với quy tắc khác. Việc xác định rõ vị thế của các loại nguồn của luật quốc tế
cũng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong việc giải thích, viện dn và hiểu rõ sự vận hành
của hệ thống pháp luật quốc tế.
Cơ quan tài phán quốc tế thường áp dụng các nguyên tắc truyền thống để giải quyết mâu thuẫn
giữa các quy phạm của luật quốc tế với nhau. Nếu mt số quy đnh thuộc cùng mt nguồn luật
quốc tế mâu thuẫn với nhau (ví dụ, các quy phạm điều ước mâu thuẫn với nhau) thì quy định
của nguồn luật ra đi sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước (lex posterior derogat legi priori) hoặc
luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung (lex specialis derogatlegi generali). Khi các quy phạm
điều ưc mâu thun với quy phạm luật tập quán quốc tế thì vn có thể cân nhắc sử dụng hai
nguyên tắc truyền thống nêu trên. Theo nguyên tắc “luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung”,
khi một điều ước được ký kết nhằm mục đích thay thế hoặc cụ thể hóa một quy định trong luật
tập quán chung thì quy định theo điều ước cần được ưu tiên áp dụng. Tương tự, theo nguyên tắc
“luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực ca luật trước”, một quy định theo điều ước có thể bị thay thế
bởi mt quy đnh theo luật tập quán quốc tế hình thành sau, bởi vì, hiệu lực ca quy tắc luật tập
quán đó đã được chính các bên là thành viên của điều ưc thừa nhận thông qua hành vi thực
tiễn sau này của các bên. Điều này lại ngụ ý thêm rằng, nếu một quy định trong điều ước hoặc
trong luật tập quán đã được ưu tiên áp dụng bởi vì nó cụ thể hơn (lex specialis) hoặc bởi vì
được hình thành sau (lex posterior), thì trong một hoàn cảnh khác sau này, chính chúng cũng có
thể lại bị thay thế bởi một nghĩa v khác cụ thhơn hoặc xuất hiện sau hơn nữa về phương diện
thời gian. Như vậy, xung đột giữa các quy định thuộc các nguồn luật khác nhau không phải
được giải quyết trên cơ sở thứ bậc hiệu lực giữa các nguồn, theo nghĩa là nguồn nào có giá trị
cao hơn thì nó sẽ luôn đưc áp dụng trong trường hợp mâu thuẫn với c quy định xuất phát t
các nguồn khác. Việc áp dụng các nguyên tắc nêu tn không nhm mục đích trao cho quy phạm
thuộc nguồn luật được ưu tiên áp dụng một v thế vượt trội hơn so với nguồn còn lại, không tạo
ra một trật tự thứ bậc vững chắc giữa điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế mà chỉ nhằm
giải quyết một tình huống mâu thuẫn giữa các quy định của luật trong từng vviệc cụ thể.
Hiện nay, c cơ quan tài phán ca quốc gia và cơ quan tài phán quốc tế hiếm khi sử dụng các
nguyên tắc nêu trên đgiải quyết mâu thuẫn giữa các nghĩa vụ quốc tế. Điều này bắt nguồn từ
thực tế là mâu thuẫn giữa các quy định trong luật quc tế hiện đại thường xảy ra giữa quy định
thuộc các chuyên ngành luật quốc tế khác nhau. Trong nhiều trường hợp, các nghĩa vụ theo điều
lOMoARcPSD|27879 799
ước về quyền con ngưi mâu thuẫn với nghĩa vụ trong các ngành luật khác của luật quốc tế.
dụ, nghĩa vụ dẫn độ, nghĩa vụ về môi trường, thương mại và đầu tư quốc tế. Các nghĩa vụ này
chủ yếu dựa trên điều ước nhưng chúng cũng có thđược ghi nhận trong luật tập quán. Nguyên
tắc “luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung” có nghĩa là khi hai hoặc nhiều quy định điều
chỉnh về cùng một vấn đề, quy định cụ thể hơn sẽ được ưu tn áp dụng. Trong trường hợp các
nghĩa vụ c thể (lex specialis) theo điều ước về quyn con người xung đột với các nghĩa vụ c
thể (lex specialis) khác theo điều ước hoặc luật tập quán về thương mại quốc tế, môi trường
quốc tế… thì khó có thể áp dụng nguyên tắc “luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chungđể giải
quyết mâu thuẫn giữa các quy định đó, bởi vì chúng khác nhau về bản chất.
Theo nguyên tắc “luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước”, khi tất cả các bên tham gia điều
ước trước cũng là các bên tham gia điều ước sau về cùng mt vấn đề thì điều ưc trước sẽ chỉ
được áp dụng trong chừng mực mà các quy định của nó là phù hợp với quy định ca điều ước
sau. Tuy nhiên, khả năng áp dụng nguyên tắc này rất hn chế, bởi lẽ, trên thực tế không phải
trong mi trường hợp tất cả các bên là thành viên của điều ước trước cũng là thành viên của
điều ưc sau. Ngoài ra, vẫn còn bất đồng về thế nào là điều ước “liên quan đến ng một vấn
đề”. Nếu giải thích một ch chặt chẽ thì mâu thuẫn giữa các quy phạm thuộc các chuyên ngành
luật quốc tế khác nhau (tức là giữa các nguồn tương ứng của chúng) sẽ nằm ngoài phạm vi áp
dụng của nguyên tắc“luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước”. Mặt khác, nếu giải tch
một cách rộng rãi hơn, điều ước “liên quan đến cùng một vấn đề” có nghĩa là việc thực hiện
nghĩa vụ theo mt điều ước ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ theo một điều ước khác thì
nguyên tắc “luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước” sẽ có thể được áp dụng. Điều 30(2)
Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia (sau đây gọi là Công ước Viên
1969) đã ghi nhận khả năng áp dụng này: “Khi mt điều ước quy định rõ rằng nó phụ thuộc vào
hoặc nó không được xem là mâu thuẫn với một điều ước đã có trước đó hoặc sẽ có sau đó thì
nhng quy định ca điều ưc có trước hoặc sau đó sẽ được ưu tiên áp dụng”. Nhưng ngay cả
trong nhng trường hợp này, một sự ưu tiên đơn giản trên sở thứ tự thời gian là rất hiếm.
Nguyên tắc “luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực ca luật trước” chỉ áp dụng giữa các điều ước điều
chỉnh về cùng một vấn đề và khi việc thực thi mt điều ước này sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi
điều ưc khác. Như vậy, hiển nhiên là mâu thuẫn giữa các quy định thuộc về các ngành luật
khác nhau, giữa các nguồn khác nhau nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của các nguyên tắc “luật ra
đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước”.
Có thể thy rằng, vi số lượng các điều ưc quốc tế, luật tập quán quốc tế, phán quyết của cơ
quan giải quyết tranh chấp quốc tế và án lệ quốc tế ngày càng tăng lên thì những quy định của
luật quốc tế càng có nhiều khả năng u thuẫn với nhau hơn. Trong khi đó, những nguyên tắc
như trên có thể không giải quyết được mâu thuẫn giữa các quy định của luật quốc tế. Do đó, câu
hỏi đặt ra là mâu thun giữa các nghĩa vụ bắt nguồn từ c điều ước và/hoặc luật tập quán thuộc
các ngành luật khác nhau sẽ được giải quyết như thế nào nếu không có bất kỳ phân cấp chính
thức nào giữa điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế, trong khi việc sử dụng hai nguyên tắc
lOMoARcPSD|27879 799
nêu trên lại có nhng hạn chế nhất định? Liệu c xung đột như vậy có thể được giải quyết
thông qua việc thừa nhận một hệ thống phân cấp cơ bản giữa nhng nghĩa vụ nhất định hay
không? Nói cách khác, liệu loại nghĩa vụ o trong luật pháp quốc tế mà do nội dung hay
bản chất đặc biệt của nghĩa vụ đó nên chúng phải có vị thế cao hơn và sẽ đưc ưu tiên thực hiện
so với các nghĩa vụ quốc tế khác mà xung đột với nó? Nếu câu trả lời là “có”, liệu điều này có
phải là sự thừa nhận các nguồn luật (điều ước hoặc luật tập quán) mà ghi nhận nghĩa vụ đó sẽ có
thứ bậc cao hơn các nguồn khác trong luật quốc tế? Ứng viên nổi bật nhất trong trường hợp này
là các quy phạm có hiệu lực tối cao (jus cogens) được ghi nhận trong Điều 53 Công ước Viên
năm 1969 và Điều 103 Hiến chương UN.
4. Vị trí ca quy phạm jus cogens trong nguồn của lut quốc tế
Khái niệm về các quy phạm có hiệu lực ti cao trong luật quốc tế phát triển từ các nghiên cứu
về luật điều ước ca Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) và sau đó được ghi nhận trong luật thực
định, c thể là Điều 53 và Điều 64 Công ước Vn năm 1969. Các điều khoản y chỉ tập trung
vào hiệu lực pháp ca các quy phạm jus cogens. Theo đó, quy phạm jus cogens có hiệu lực
tối cao và không được pp vi phạm hay bảo lưu.
Liên quan tới các quy phạm jus cogen, a Hình sự quốc tế về Nam Tư (cũ) từng lập luận về
nguyên tắc cấm tra tấn như sau: “Vì mức độ quan trọng ca các giá trị được bo vệ, nguyên tắc
cấm tra tấn đã phát triển thành một quy phạm mệnh lệnh tối cao, một quy phạm có vị trí cao
hơn điều ước và luật tập quán quốc tế thông thường khác. Hậu quả dễ nhận thấy nhất của nhóm
quy phạm này là các quốc gia không được phép vi phạm thông qua các điều ưc quốc tế hoặc
các tập quán quốc tế chung, tập quán khu vực và tập quán địa phương mâu thuẫn với các quy
phạm đó. Bản chất jus cogens của nguyên tắc cấm tra tấn thể hiện nhận thức cấm tra tấn đã trở
thành một trong những tiêu chuẩn cơ bản, quan trọng nhất của cộng đồng quc tế. Hơn nữa, quy
định cấm này nhằm mục đích ngăn nga tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế và các cá
nhân vi phạm quyền. Cấm tra tấn là tuyệt đối và không ai được phép làm trái lại”.
Như vậy, khái niệm quy phạm có hiệu lực tối cao (jus cogens) trong luật quốc tế được phát triển
trong bối cảnh luật điều ước vi mục đích vô hiệu hóa điều ước nhưng sau đó nó đã đưc viện
dẫn và thừa nhận ngoài bối cảnh luật điều ước.Việc viện dẫn khái niệm jus cogens trong các
lĩnh vực khác của luật pháp quốc tế đã dẫn đến việc các cơ quan tài phán và các học giả đã xác
định một danh sách giới hạn các quy phạm jus cogens. Hiện nay, ILC cũng đang tiến hành ch
đề nghn cứu vquy phạm jus cogens, trong đó tp trung vào c yếu tcấu thànhdanh
sách minh họa về loại quy phạm này. Bốn Công ước Geneva năm 1949 về luật nhân đạo quốc tế
được xem là chứa đựng các quy phạm jus cogens. dụ như: nghĩa vụ đối xử nhân đạo
không phân biệt đối xử với những người không tham chiến; cấm các hành vi giết người, tra tấn,
bắt giữ con tin, các hình thức hạ nhục và kết tội khi chưa được xét xử công bng. Các bên
thành viên của bốn Công ước này có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo một s quyền nhất đnh
“trong mọi hoàn cảnh”. Những hành vi diệt chủng và tra tấn có thể bị truy tố bởi bất k quốc gia
thành viên nào. Các quốc gia không được ký kết điều ước quc tế đi ngược lại những quy định
lOMoARcPSD|27879 799
cơ bản trong bốn Công ước Geneva năm 1949. Trong luật quốc tế về quyền con người, quy định
về các quyền (ví dụ như quyền sống), cấm tra tấn, cấm giam giữ tùy tiện, cấm chế đ nô lệ…
không cho phép c quốc gia tạm hoãn thực thi các nghĩa vụ đó, ngay cả trong tình thế khẩn
cấp. Một số quyền (ví dụ như quyền không bị tra tấn, đối xử hạ nhục và phi nn tính…) quy
định một cách rõ ràng, không cho phép bảo lưu.
Cần lưu ý rằng, vào thời điểm ký kết Công ưc Viên năm 1969, khái niệm “quy phạm mệnh
lệnh bắt buộc của luật quốc tế chung - jus cogens” không nhận được sự ủng h của nhiều nước
phương Tây, đặc biệt là Pháp. Tuy nhiên, các nưc XHCN và các nước mới giành đc lập lại
ủng hộ khái niệm này. Vì vậy, Điều 53 Công ưc Viên năm 1969 không xác định bất kỳ quy
phạm c thnào mang tính jus cogens. Vấn đquy phạm cụ thể nào là jus cogens sẽ do cng
đồng quốc tế xác định.
Việc nhn diện quy phạm jus cogens đã dn đến nhiều cuộc tranh luận, đặc biệt là về các loại
nguồn của quy phạm jus cogens. Một số ý kiến cho rằng, quy phạm jus cogens bảo vệ các giá trị
cơ bản của cộng đồng quốc tế. Các giá trị đó tồn tại một cách độc lập với ý ccủa các quc gia
và có liên quan mật thiết đến nhân phẩm và nhân quyền. Vì vậy, các quy phạm jus cogens bắt
nguồn từ mt nguồn riêng và ngun đó có thứ bậc cao hơn các nguồn khác của luật quốc tế. Do
quyền con người có mối quan hệ chặt chẽ với các giá trị quy phạm jus cogens bảo vệ nên
điều này cũng hàm ý thêm rằng, các điều ưc về quyền con người có giá trị pháp lý cao hơn các
điều ưc và luật tập quán khác, bởi vì chúng cụ thể hóa các giá trị mà quy phạm jus cogens bảo
vệ.
Tuy nhn, quan niệm các quy phạm jus cogens thể hiện các giá trị cơ bản của cộng đồng quốc
tế và tồn tại một cách độc lập với ý chí của các quốc gia sẽ dẫn đến các kết luận tùy ý. Các thẩm
phán quốc tế có thxác định và mở rộng loại quy phạm jus cogens theo quan niệm của chính họ
về các giá trị cơ bản. Vì vậy, quan niệm hợp lý hơn là quy phạm jus cogens không phải là một
loại nguồn mới ca luật pháp quốc tế, mà là khái niệm thể hiện đặc tính cụ thể của các quy
phạm có hiu lực cao hơn các quy phạm khác ca luật quốc tế. Quy phạm jus cogens có thể
được ghi nhận trong điều ước quc tế nhưng với đặc tính của nó, loại quy phạm này chủ yếu tồn
tại dưới hình thức luật tập quán quốc tế. Để trở thành quy phạm jus cogens t trước hết, quy
phạm đó phải được các quốc gia công nhận là luật và hơn nữa, chúng phải được cng đồng các
quốc gia đồng ý rằng đó là quy phạm không được phép vi phạm. Vì vậy, quy phạm jus cogens
phụ thuộc vào “sự chấp nhận kép” ca cộng đồng các quốc gia.
Một quy phạm cụ thể không đòi hỏi sự chấp nhận hoàn toàn của tất cả các quốc gia thì nó mới
có v thế là quy phạm có hiệu lực tối cao (jus cogens) nhưng ít nhất phải được sự chấp nhận của
phần lớn các quốc gia về vị thế đó của quy phạm. Điều này cũng hàm ý thêm rằng, một số (rất
ít) quốc gia không chấp nhận quy phạm jus cogens nhưng vẫn có thể bị ràng buộc bởi quy phạm
đó. Ví dụ, mặc Chính phủ Nam Phi liên tục phản đối quy định cấm phân biệt chủng tộc và
apartheid nhưng Nam Phi vẫn bị ràng buộc bởi quy định này, bởi vì quy phạm có hiệu lực tối
cao (jus cogens) không loại trừ nhng quốc gia liên tục phản đối. Đối với quy phạm có hiệu lực
lOMoARcPSD|27879 799
tối cao (jus cogens), ý chí của một hoặc một số (rất ít) quốc gia có thể bị bác bỏ bởi ý chí ca
tập thể là bởi quy phạm jus cogens bảo vệ các giá trị bản của cộng đồng các quốc gia.
5. Kết luận
Các phân tích ở trên cho thấy sự tồn tại của các quy phạm jus cogens trong luật quốc tế đã được
xác lập vững chắc thông qua định nghĩa được nêu tại Điều 53 và Điều 64 Công ước Viên năm
1969. Sự tồn tại ca loại quy phạm này đã được công nhận rộng rãi. Quy phạm jus cogens thuộc
nhóm các quy phạm có hiu lực đặc biệt dựa vào hậu quả pháp lý của chúng. Quy phạm jus
cogens có hiệu lực cao hơn những quy phạm khác bởi chúng liên quan chặt chẽ đến nhân
phẩm, nhân quyền và nhân đạo vốn được coinhững giá trị cơ bản của cộng đồng quốc tế.
Việc không cho phép các bên ký kết điều ưc quốc tế mâu thuẫn với quy phạm jus cogens
xuất phát từ lợi ích chung ca cộng đồng quốc tế, bao gồm lợi ích của những bên được quy
phạm jus cogens bảo vệ. Tóm lại, quy phạm jus cogens không tồn tại độc lập với ý cca các
quốc gia, trái lại sự hình thành và tồn tại của loại quy phạm này luôn gắn với sự thỏa thuận hoặc
thừa nhận ca các quốc gia.
Trên thực tế, vi phạm nghĩa vụ jus cogens không tđộng xác lập thẩm quyền đương nhiên của
Tòa trong giải quyết tranh chấp liên quan đến quy phạm đó. Hơn nữa, dường như hầu hết các
thẩm phán ICJ đều không cho rằng các quy phạm jus cogensược dựa trên s quyền con
người và lợi ích chung của cộng đồng) sẽ có sức nặng hơn so với các quy định về thẩm quyền
tài phán của Tòa.
| 1/10

Preview text:

lOMoARc PSD|27879799
Nguyên tắc Pacta sunt servanda
I. Khái quát về nguyên tắc Pacta sunt servanda 1. Khái niệm:
Nguyên tắc Pacta sunt Servanda hay còn gọi là nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết
quốc tế được xuất hiện từ rất sớm. "Pacta" có nghĩa là thỏa thuận, điều ước cũng như hợp đồng,
theo từ ngữ La Tinh. Thiện chí là các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ quốc tế, thực hiện
các điều ước quốc tế phải vì mục đích tốt đẹp, vì lợi ích của tất cả các bên tham gia, kí kết. Việc
thực hiện các cam kết phải trên cơ sở tự nguyện, không chịu sự ép buộc từ bất kì yếu tố nào
khác. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế được hiểu là khi các bên chủ thể
trong quan hệ quốc tế tham gia vào ký kết các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) thì phải dựa trên cơ sở
của sự thỏa thuận và tự nguyện, bình đẳng. Đồng thời, khi đã tham gia vào ĐƯQT đó các quốc
gia phải có nghĩa vụ tuân thủ nội dung mà mình đã cam kết. 2. Nguồn gốc:
Trong hệ thống các quy phạm pháp luật của mỗi một ngành hay một hệ thống pháp luật, đều có
một số các quy phạm được gọi là nguyên tắc của ngành hay hệ thống pháp luật ấy. Trong luật
quốc tế, nguyên tắc cơ bản của ngành luật này thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn định
quan hệ quốc tế và ấn định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, tạo điều
kiện cho quan hệ quốc tế phát triển. Bảy nguyên tắc của luật quốc tế bao gồm:
(i) Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ lực
(ii) Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình
(iii) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
(iv) Nguyên tắc hợp tác với các quốc gia khác
(v) Nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc
(vi) Nguyên tắc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ
Trong tổng cộng bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện
cam kết quốc tế hay còn gọi là nguyên tắc Pacta sunt servanda là nguyên tắc có lịch sử lâu đời
nhất và được công nhận rộng rãi. Tiền thân của nguyên tắc này là nguyên tắc tuân thủ các điều
ước xuất hiện từ thời La Mã cổ đại và tồn tại hàng nghìn năm dưới dạng tập quán pháp lý quốc
tế trước khi được ghi nhận chính thức. Một trong những nguyên tắc cơ bản điều chỉnh việc xác
lập và thực thi các nghĩa vụ pháp lý, bất kể thuộc nguồn nào, là nguyên tắc thiện chí. Sự tin
tưởng, tin cậy là bản chất của hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong thời đại mà hợp tác trong nhiều
lĩnh vực đang trở thành một phần thiết yếu. 3. Cơ sở pháp lý: lOMoARc PSD|27879799
Khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc: "Tất cả các thành viên đều phải thực hiện một
cách có thiện ý những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này, nhằm đảm bảo
hưởng toàn bộ các quyền và ưu đãi do tư cách thành viên có."
Cùng với đó, Điều 26 Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế chỉ ra rằng: "Mọi
điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện
chí". Ngoài các văn bản trên, nguyên tắc này còn được ghi nhận một cách chính thức trong
Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Có phạm vi áp dụng cho tất cả
các nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ tất cả cam kết quốc tế (bao gồm cả điều ước quốc tế,
tập quán quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung hay hành vi pháp lý đơn phương).
4. Ý nghĩa của nguyên tắc Pacta sunt servanda:
Với nguyên tắc Pacta sunt servanda tận tâm, thiện chí sẽ đảm bảo việc thực hiện các cam kết đã
ký kết giữa các quốc gia, đảm bảo được sự tự nguyện khi tham gia ký kết điều ước quốc tế hoặc
quyết định các điều khoản trong hiệp ước của mình. đảm bảo trật tự pháp lý quốc tế. Ngoài ra,
đây còn là căn cứ giải quyết tranh chấp quốc tế, khi có sự phát sinh và có hiệu lực của điều ước
quốc tế. II. Nội dung:
Thứ nhất, các điều ước quốc tế đang có hiệu lực đối với các bên ký kết thì đều ràng buộc
(binding) đối với các bên đó, bất kể chính điều ước quốc tế có ghi nhận trong điều khoản về
nguyên tắc pacta sunt servanda hay không. Một điều ước quốc tế đang có hiệu lực thì sẽ tạo ra
ràng buộc pháp lý đối với quốc gia thành viên. Nội dung này có tính chất đương nhiên, minh
thị, và không thể phủ nhận, và cũng không cần thiết chứng minh thêm.
Ở đây, nguyên tắc pacta sunt servanda có hai điều kiện để có thể áp dụng: văn kiện liên quan
phải là điều ước quốc tế và đã bắt đầu có hiệu lực đối với quốc gia thành viên. Điều ước "đang
có hiệu lực" cũng bao gồm cả trường hợp áp dụng tạm thời điều ước theo Điều 25 của Công
ước Viên 1969 (provisional application). Điều ước "đang có hiệu lực" bao gồm điều ước chưa
có hiệu lực, điều ước bị vô hiệu, và điều ước đã bị đình chỉ thi hành hay hủy bỏ. Bên cạnh đó,
mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế, tuân thủ một
cách triệt để, không do dự và không phụ thuộc vào các sự kiện xảy ra trong nước cũng như quốc
tế. Không chó phép các quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại điều ước quốc tế.
Hành vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ và xem xét hợp pháp theo sự thỏa
thuận của các bên là thành viên điều ước.
Thứ hai, các bên ký kết có nghĩa vụ phải thực thi các điều ước đang có hiệu lực một cách thiện
chí. Khi điều ước đã bắt đầu có hiệu lực ràng buộc, thì các quốc gia cũng bắt đầu phải thực thi
điều ước quốc tế đó, và phải thực thi theo cách thứ thiện chí. Cụ thể mọi chủ thể có nghĩa vụ
thực hiện tự nguyện và có thiện chí các nghĩa vụ quốc tế được xác lập theo pháp luật quốc tế.
Các quốc gia không có quyền kí kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình được
quy định theo điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia kí kết. Ngoài ra việc cắt đứt quan hệ
ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các quốc gia thành viên của điều ước quốc tế không làm lOMoARc PSD|27879799
ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các quốc gia, trừ trường hợp các quan hệ
ngoại giao, quan hệ lãnh sự là đối tượng cho việc thực hiện điều ước quốc tế. Và các quốc gia
thành viên điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của pháp luật quốc gia để từ
chối thực hiện nghĩa vụ của mình. III. Ngoại lệ:
Khi Điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên Hiệp Quốc, nguyên tắc cơ bản của
Luật Quốc tế: trong trường hợp có xung đột giữa nghĩa vụ của Thành viên Liên Hợp Quốc theo
Hiến chương này và nghĩa vụ theo bất kỳ thỏa thuận quốc tế khác, nghĩa vụ theo Hiến chương
này được ưu tiên áp dụng. Quốc gia không phải thực hiện Điều ước Quốc tế khi một trong các
bên hoặc các bên vi phạm quy định của pháp luật quốc gia về thẩm quyền và thủ tục kí kết điều
ước quốc tế. Khi một thành viên không thực hiện nghĩa vụ điều ước của mình thì một trong các
thành viên khác có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ. Quốc gia có quyền từ chối thực hiện điều
ước quốc tế khi có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (Rebus sis Stantibus).
IV. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Pacta sunt servanda
Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các điều ước đã kí kết một cách tận tâm, thiện chí như đối
với vụ Philippines kiện Trung Quốc. Trung Quốc thi hành chính sách ba không: không công
nhận thẩm quyền của Tòa, không tham gia, không chấp nhận thi hành phán quyết. Nhưng là một
thành viên Hiến chương Liên Hợp Quốc, Công ước viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế và
UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định của Công ước,
trong đó có nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài (theo nguyên tắc Pacta Sunt
Servanda - tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế). Là chủ thể của luật quốc tế, Trung
Quốc có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế - những tư tưởng chính
trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi chủ
thể luật quốc tế, mà một trong những nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế là nguyên tắc
Pacta sunt servanda. Khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 hay Điều 26
Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế chỉ ra rằng: "Mọi điều ước đã có hiệu lực
đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện chí". Nguyên tắc này
còn được ghi nhận một cách chính thức trong Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc là bên ký kết và phê chuẩn UNCLOS có nghĩa là họ
đồng ý với toàn bộ Công ước, trong đó có những phần và điều khoản liên quan đến giải quyết
tranh chấp. Philipines đã căn cứ vào mục giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước để đưa
các vấn đề ra Tòa. Tòa Trọng tài được thành lập theo đúng quy định ở phụ lục VII của Công
ước. Công ước cũng quy định rõ thủ tục thành lập Tòa và quy trình xét xử nếu một bên trực tiếp
liên quan không tham gia và trên thực tế, Tòa trọng tài vụ kiện Philippines - Trung Quốc đã
được thành lập và tiến hành xem xét các nội dung theo đúng các quy trình này. Vì vậy, khi phán
quyết được ban hành, là một thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tận tâm, thiện
chí thực hiện các quy định của Công ước, trong đó có nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa
Trọng tài. Ngoài ra, Trung Quốc từng tuyên bố rút khỏi UNCLOS nhưng cũng sẽ không làm lOMoARc PSD|27879799
mất đi nghĩa vụ của họ phải thực hiện theo phán quyết của Tòa Trọng tài do không ảnh hưởng
đến giá trị pháp lý của phán quyết.
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp
quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế thường được viện dẫn trong hệ thống các cơ
quan của Luật quốc tế. Trong đó, nguyên tắc pacta sunt servanda có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
bởi lẽ trong quan hệ quốc tế không tồn tại bộ máy hoàn toàn thực hiện chức năng cưỡng chế
tuân thủ quy phạm pháp luật quốc tế, mà việc thực hiện nó phụ thuộc trước hết và chủ yếu vào
thiện chí và tính tự giác của các bên chủ thể. Quy phạm Jus corgens 1. Khái niệm
Quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung (jus cogens) là một nhóm quy phạm pháp luật quốc tế có
giá trị pháp lý cao nhất.
Jus cogens xuất hiện lần đầu trong Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế nằm 1969. Điều 53
Công ước quy định “quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung là quy phạm được chấp nhận và công
nhận bởi toàn thể cộng đồng quốc tế của các quốc gia như một quy phạm mà không cho phép
bất kỳ quy định trái ngược, và chỉ có thể thay đổi bằng một quy phạm sau đó của luật pháp quốc
tế chung có tính chất tương tự.” Hai tính chất đặc biệt của jus cogens là:
- Phải được toàn thể cộng đồng quốc tế công nhận và chấp nhận;
- Không cho phép bất kỳ quy định nào được trái ngược, kể cả điều ước hay tập quán.
Cho đến hiện nay Tòa ICJ chỉ mới công nhận một cách rõ ràng một quy định được xem là quy
phạm jus cogens: quy định về cấm tra tấn. Việt Nam cho rằng nguyên tắc bình đẳng chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ cũng là quy phạm jus cogens
2. Khái quát chung về trật tự thứ bậc giữa các nguồn cơ bản của luật quốc tế
Điều 38 (1) Quy chế Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi
như là một tuyên bố chính thức về các nguồn của luật quốc tế, trong đó liệt kê các nguồn theo
thứ tự như sau: điều ước quốc tế, luật tập quán quốc tế, nguyên tắc chung của luật, phán quyết
của tòa án quốc tế và học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế.
Mặc dù còn có quan điểm khác nhau về phân loại các nguồn nhưng các học giả đều cho rằng,
điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế là nguồn cơ bản. Phán quyết của tòa án quốc tế và học
thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế chỉ là “phương tiện để xác
địnhcác quy phạm pháp luật”.
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, các quy định của pháp luật được ban hành và có trật tự thứ
bậc hiệu lực rõ ràng, trong đó hiến pháp có hiệu lực cao nhất, sau đó là luật và các văn bản lOMoARc PSD|27879799
hướng dẫn thi hành; bất kỳ quy định nào trái với hiến pháp đều vô hiệu. Trong luật quốc tế, các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật được hình thành trên cơ sở thỏa thuận, được ghi nhận trong
điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế. Vì vậy, các nguồn của luật quốc tế không được sắp
xếp theo trật tự thứ bậc hiệu lực với nghĩa là nguồn luật nào có vị trí cao hơn thì các quy phạm
trong nguồn luật đó có hiệu lực loại bỏ việc áp dụng các quy phạm mâu thuẫn với nó thuộc loại nguồn còn lại.
Trên thực tế, trong quá trình soạn thảo Quy chế ICJ, đề xuất về trật tự thứ bậc giữa các nguồn
được liệt kê trong Điều 38 đã bị từ chối. Thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế cho thấy tính
phổ biến (từ cao đến thấp) trong sử dụng các nguồn cơ bản liệt kê ở Điều 38(1) Quy chế ICJ là:
điều ước quốc tế, luật tập quán quốc tế và cuối cùng là các nguyên tắc chung của luật. Điều này
đồng nghĩa với việc các thẩm phán coi điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế là những
nguồn quan trọng nhất, trong đó điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng rồi đến luật tập quán
quốc tế và cuối cùng là các nguyên tắc chung của luật. Tuy nhiên, thực tiễn này không có nghĩa
là ICJ thừa nhận một hệ thống phân cấp thứ bậc giữa các nguồn được liệt kê trong Điều 38 Quy
chế ICJ. Khi xác định luật có thể áp dụng trong các tranh chấp quốc tế, Tòa không đề cập đến
các quy tắc về thứ tự ưu tiên hoặc hiệu lực của các điều ước. Thực tiễn này chỉ cho thấy, trong
những trường hợp cụ thể, Tòa sẽ ưu tiên thứ tự được nêu trong điều khoản Điều 38 Quy chế ICJ.
3. Sự cần thiết phải thừa nhận một số quy phạm có hiệu lực cao hơn các quy phạm khác
Điều ước và luật tập quán quốc tế có giá trị pháp lý như nhau và song song tồn tại. Vì vậy, cùng
một nghĩa vụ có thể được tìm thấy trong cả nguồn điều ước và luật tập quán. Ví dụ, nghĩa vụ
không sử dụng vũ lực được quy định trong Điều 2 (4) Hiến chương Liên hiệp quốc (UN), nhưng
nghĩa vụ này cũng đồng thời tồn tại như là luật tập quán quốc tế. Trong trường hợp, cùng một
vấn đề nhưng quy tắc xử sự theo luật tập quán lại xung đột với quy tắc xử sự được ghi nhận
trong điều ước thì cơ quan tài phán quốc tế sẽ áp dụng quy tắc xử sự thuộc nguồn luật nào?
Giữa điều ước quốc tế hình thành trước với luật tập quán quốc tế hình thành sau thì áp dụng
nguồn luật nào?... Điều này đặt ra yêu cầu phải xác định thứ bậc hiệu lực áp dụng giữa các quy
tắc xử sự thuộc các nguồn khác nhau của luật quốc tế.
Sự cần thiết phải nhận ra và phác thảo một hệ thống phân cấp giữa các quy phạm (và do đó là
phân cấp giữa các nguồn của chúng) trong luật quốc tế ngày càng trở nên cần thiết hơn bởi vì,
trong các thập kỷ gần đây, luật quốc tế đã phát triển rất nhanh chóng với hàng loạt điều ước
quốc tế được ký kết. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều cơ quan tài phán quốc tế được thành lập
và hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của luật quốc tế, ví dụ như Tòa Luật Biển quốc tế
(ITLOS), Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO (DSB), Trọng tài trong lĩnh vực đầu tư quốc
tế (ICSID), Tòa án Hình sự quốc tế (ICC), Tòa án Nhân quyền châu Âu (ECtHR)… Tuy nhiên,
khi giải quyết một vụ việc, các cơ quan tài phán chỉ có thẩm quyền áp dụng luật quốc tế trong
phạm vi nhất định, trên cơ sở các điều khoản thành lập cơ quan tài phán đó mà không thể xem
xét và so sánh với các quy định thuộc ngành luật khác. Số lượng các điều ước và cơ quan tài lOMoARc PSD|27879799
phán quốc tế tiếp tục tăng lên, dễ dẫn tới tình trạng mâu thuẫn giữa các quy định của các ngành
luật khác nhau thuộc các nguồn luật khác nhau. Ví dụ, “quyền được hưởng mức sống thích
đáng” quy định tại Điều 11 Công ước năm 1966 về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được
xem là một trong những quyền cơ bản của con người. Việc thực hiện quyền này có thể ảnh
hưởng các hoạt động kinh tế thương mại của một quốc gia và do đó, mâu thuẫn với các quy
định trong luật thương mại quốc tế. Trong trường hợp này, quy tắc pháp lý thuộc nguồn của
ngành luật nào sẽ được áp dụng? Nếu thừa nhận thứ bậc hiệu lực áp dụng giữa các nguồn của
luật quốc tế thì các thẩm phán cũng không cần phải cố gắng tìm ra cách để hiểu một quy tắc này
luôn phải phù hợp với quy tắc khác. Việc xác định rõ vị thế của các loại nguồn của luật quốc tế
cũng có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong việc giải thích, viện dẫn và hiểu rõ sự vận hành
của hệ thống pháp luật quốc tế.
Cơ quan tài phán quốc tế thường áp dụng các nguyên tắc truyền thống để giải quyết mâu thuẫn
giữa các quy phạm của luật quốc tế với nhau. Nếu một số quy định thuộc cùng một nguồn luật
quốc tế mâu thuẫn với nhau (ví dụ, các quy phạm điều ước mâu thuẫn với nhau) thì quy định
của nguồn luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước (lex posterior derogat legi priori) hoặc
luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung (lex specialis derogatlegi generali). Khi các quy phạm
điều ước mâu thuẫn với quy phạm luật tập quán quốc tế thì vẫn có thể cân nhắc sử dụng hai
nguyên tắc truyền thống nêu trên. Theo nguyên tắc “luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung”,
khi một điều ước được ký kết nhằm mục đích thay thế hoặc cụ thể hóa một quy định trong luật
tập quán chung thì quy định theo điều ước cần được ưu tiên áp dụng. Tương tự, theo nguyên tắc
“luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước”, một quy định theo điều ước có thể bị thay thế
bởi một quy định theo luật tập quán quốc tế hình thành sau, bởi vì, hiệu lực của quy tắc luật tập
quán đó đã được chính các bên là thành viên của điều ước thừa nhận thông qua hành vi thực
tiễn sau này của các bên. Điều này lại ngụ ý thêm rằng, nếu một quy định trong điều ước hoặc
trong luật tập quán đã được ưu tiên áp dụng bởi vì nó cụ thể hơn (lex specialis) hoặc bởi vì nó
được hình thành sau (lex posterior), thì trong một hoàn cảnh khác sau này, chính chúng cũng có
thể lại bị thay thế bởi một nghĩa vụ khác cụ thể hơn hoặc xuất hiện sau hơn nữa về phương diện
thời gian. Như vậy, xung đột giữa các quy định thuộc các nguồn luật khác nhau không phải
được giải quyết trên cơ sở thứ bậc hiệu lực giữa các nguồn, theo nghĩa là nguồn nào có giá trị
cao hơn thì nó sẽ luôn được áp dụng trong trường hợp mâu thuẫn với các quy định xuất phát từ
các nguồn khác. Việc áp dụng các nguyên tắc nêu trên không nhằm mục đích trao cho quy phạm
thuộc nguồn luật được ưu tiên áp dụng một vị thế vượt trội hơn so với nguồn còn lại, không tạo
ra một trật tự thứ bậc vững chắc giữa điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế mà chỉ nhằm
giải quyết một tình huống mâu thuẫn giữa các quy định của luật trong từng vụ việc cụ thể.
Hiện nay, các cơ quan tài phán của quốc gia và cơ quan tài phán quốc tế hiếm khi sử dụng các
nguyên tắc nêu trên để giải quyết mâu thuẫn giữa các nghĩa vụ quốc tế. Điều này bắt nguồn từ
thực tế là mâu thuẫn giữa các quy định trong luật quốc tế hiện đại thường xảy ra giữa quy định
thuộc các chuyên ngành luật quốc tế khác nhau. Trong nhiều trường hợp, các nghĩa vụ theo điều lOMoARc PSD|27879799
ước về quyền con người mâu thuẫn với nghĩa vụ trong các ngành luật khác của luật quốc tế. Ví
dụ, nghĩa vụ dẫn độ, nghĩa vụ về môi trường, thương mại và đầu tư quốc tế. Các nghĩa vụ này
chủ yếu dựa trên điều ước nhưng chúng cũng có thể được ghi nhận trong luật tập quán. Nguyên
tắc “luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung” có nghĩa là khi hai hoặc nhiều quy định điều
chỉnh về cùng một vấn đề, quy định cụ thể hơn sẽ được ưu tiên áp dụng. Trong trường hợp các
nghĩa vụ cụ thể (lex specialis) theo điều ước về quyền con người xung đột với các nghĩa vụ cụ
thể (lex specialis) khác theo điều ước hoặc luật tập quán về thương mại quốc tế, môi trường
quốc tế… thì khó có thể áp dụng nguyên tắc “luật cụ thể chiếm ưu thế hơn luật chung” để giải
quyết mâu thuẫn giữa các quy định đó, bởi vì chúng khác nhau về bản chất.
Theo nguyên tắc “luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước”, khi tất cả các bên tham gia điều
ước trước cũng là các bên tham gia điều ước sau về cùng một vấn đề thì điều ước trước sẽ chỉ
được áp dụng trong chừng mực mà các quy định của nó là phù hợp với quy định của điều ước
sau. Tuy nhiên, khả năng áp dụng nguyên tắc này rất hạn chế, bởi lẽ, trên thực tế không phải
trong mọi trường hợp tất cả các bên là thành viên của điều ước trước cũng là thành viên của
điều ước sau. Ngoài ra, vẫn còn bất đồng về thế nào là điều ước “liên quan đến cùng một vấn
đề”. Nếu giải thích một cách chặt chẽ thì mâu thuẫn giữa các quy phạm thuộc các chuyên ngành
luật quốc tế khác nhau (tức là giữa các nguồn tương ứng của chúng) sẽ nằm ngoài phạm vi áp
dụng của nguyên tắc“luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước”. Mặt khác, nếu giải thích
một cách rộng rãi hơn, điều ước “liên quan đến cùng một vấn đề” có nghĩa là việc thực hiện
nghĩa vụ theo một điều ước ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ theo một điều ước khác thì
nguyên tắc “luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước” sẽ có thể được áp dụng. Điều 30(2)
Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia (sau đây gọi là Công ước Viên
1969) đã ghi nhận khả năng áp dụng này: “Khi một điều ước quy định rõ rằng nó phụ thuộc vào
hoặc nó không được xem là mâu thuẫn với một điều ước đã có trước đó hoặc sẽ có sau đó thì
những quy định của điều ước có trước hoặc sau đó sẽ được ưu tiên áp dụng”. Nhưng ngay cả
trong những trường hợp này, một sự ưu tiên đơn giản trên cơ sở thứ tự thời gian là rất hiếm.
Nguyên tắc “luật ra đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước” chỉ áp dụng giữa các điều ước điều
chỉnh về cùng một vấn đề và khi việc thực thi một điều ước này sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi
điều ước khác. Như vậy, hiển nhiên là mâu thuẫn giữa các quy định thuộc về các ngành luật
khác nhau, giữa các nguồn khác nhau nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của các nguyên tắc “luật ra
đời sau bãi bỏ hiệu lực của luật trước”.
Có thể thấy rằng, với số lượng các điều ước quốc tế, luật tập quán quốc tế, phán quyết của cơ
quan giải quyết tranh chấp quốc tế và án lệ quốc tế ngày càng tăng lên thì những quy định của
luật quốc tế càng có nhiều khả năng mâu thuẫn với nhau hơn. Trong khi đó, những nguyên tắc
như trên có thể không giải quyết được mâu thuẫn giữa các quy định của luật quốc tế. Do đó, câu
hỏi đặt ra là mâu thuẫn giữa các nghĩa vụ bắt nguồn từ các điều ước và/hoặc luật tập quán thuộc
các ngành luật khác nhau sẽ được giải quyết như thế nào nếu không có bất kỳ phân cấp chính
thức nào giữa điều ước quốc tế và luật tập quán quốc tế, trong khi việc sử dụng hai nguyên tắc lOMoARc PSD|27879799
nêu trên lại có những hạn chế nhất định? Liệu các xung đột như vậy có thể được giải quyết
thông qua việc thừa nhận một hệ thống phân cấp cơ bản giữa những nghĩa vụ nhất định hay
không? Nói cách khác, liệu có loại nghĩa vụ nào trong luật pháp quốc tế mà do nội dung hay
bản chất đặc biệt của nghĩa vụ đó nên chúng phải có vị thế cao hơn và sẽ được ưu tiên thực hiện
so với các nghĩa vụ quốc tế khác mà xung đột với nó? Nếu câu trả lời là “có”, liệu điều này có
phải là sự thừa nhận các nguồn luật (điều ước hoặc luật tập quán) mà ghi nhận nghĩa vụ đó sẽ có
thứ bậc cao hơn các nguồn khác trong luật quốc tế? Ứng viên nổi bật nhất trong trường hợp này
là các quy phạm có hiệu lực tối cao (jus cogens) được ghi nhận trong Điều 53 Công ước Viên
năm 1969 và Điều 103 Hiến chương UN.
4. Vị trí của quy phạm jus cogens trong nguồn của luật quốc tế
Khái niệm về các quy phạm có hiệu lực tối cao trong luật quốc tế phát triển từ các nghiên cứu
về luật điều ước của Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) và sau đó được ghi nhận trong luật thực
định, cụ thể là Điều 53 và Điều 64 Công ước Viên năm 1969. Các điều khoản này chỉ tập trung
vào hiệu lực pháp lý của các quy phạm jus cogens. Theo đó, quy phạm jus cogens có hiệu lực
tối cao và không được phép vi phạm hay bảo lưu.
Liên quan tới các quy phạm jus cogen, Tòa Hình sự quốc tế về Nam Tư (cũ) từng lập luận về
nguyên tắc cấm tra tấn như sau: “Vì mức độ quan trọng của các giá trị được bảo vệ, nguyên tắc
cấm tra tấn đã phát triển thành một quy phạm mệnh lệnh tối cao, một quy phạm có vị trí cao
hơn điều ước và luật tập quán quốc tế thông thường khác. Hậu quả dễ nhận thấy nhất của nhóm
quy phạm này là các quốc gia không được phép vi phạm thông qua các điều ước quốc tế hoặc
các tập quán quốc tế chung, tập quán khu vực và tập quán địa phương mâu thuẫn với các quy
phạm đó. Bản chất jus cogens của nguyên tắc cấm tra tấn thể hiện nhận thức cấm tra tấn đã trở
thành một trong những tiêu chuẩn cơ bản, quan trọng nhất của cộng đồng quốc tế. Hơn nữa, quy
định cấm này nhằm mục đích ngăn ngừa tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế và các cá
nhân vi phạm quyền. Cấm tra tấn là tuyệt đối và không ai được phép làm trái lại”.
Như vậy, khái niệm quy phạm có hiệu lực tối cao (jus cogens) trong luật quốc tế được phát triển
trong bối cảnh luật điều ước với mục đích vô hiệu hóa điều ước nhưng sau đó nó đã được viện
dẫn và thừa nhận ngoài bối cảnh luật điều ước.Việc viện dẫn khái niệm jus cogens trong các
lĩnh vực khác của luật pháp quốc tế đã dẫn đến việc các cơ quan tài phán và các học giả đã xác
định một danh sách giới hạn các quy phạm jus cogens. Hiện nay, ILC cũng đang tiến hành chủ
đề nghiên cứu về quy phạm jus cogens, trong đó tập trung vào các yếu tố cấu thành và danh
sách minh họa về loại quy phạm này. Bốn Công ước Geneva năm 1949 về luật nhân đạo quốc tế
được xem là chứa đựng các quy phạm jus cogens. Ví dụ như: nghĩa vụ đối xử nhân đạo và
không phân biệt đối xử với những người không tham chiến; cấm các hành vi giết người, tra tấn,
bắt giữ con tin, các hình thức hạ nhục và kết tội khi chưa được xét xử công bằng. Các bên là
thành viên của bốn Công ước này có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo một số quyền nhất định
“trong mọi hoàn cảnh”. Những hành vi diệt chủng và tra tấn có thể bị truy tố bởi bất kỳ quốc gia
thành viên nào. Các quốc gia không được ký kết điều ước quốc tế đi ngược lại những quy định lOMoARc PSD|27879799
cơ bản trong bốn Công ước Geneva năm 1949. Trong luật quốc tế về quyền con người, quy định
về các quyền (ví dụ như quyền sống), cấm tra tấn, cấm giam giữ tùy tiện, cấm chế độ nô lệ…
không cho phép các quốc gia tạm hoãn thực thi các nghĩa vụ đó, ngay cả trong tình thế khẩn
cấp. Một số quyền (ví dụ như quyền không bị tra tấn, đối xử hạ nhục và phi nhân tính…) quy
định một cách rõ ràng, không cho phép bảo lưu.
Cần lưu ý rằng, vào thời điểm ký kết Công ước Viên năm 1969, khái niệm “quy phạm mệnh
lệnh bắt buộc của luật quốc tế chung - jus cogens” không nhận được sự ủng hộ của nhiều nước
phương Tây, đặc biệt là Pháp. Tuy nhiên, các nước XHCN và các nước mới giành độc lập lại
ủng hộ khái niệm này. Vì vậy, Điều 53 Công ước Viên năm 1969 không xác định bất kỳ quy
phạm cụ thể nào mang tính jus cogens. Vấn đề quy phạm cụ thể nào là jus cogens sẽ do cộng
đồng quốc tế xác định.
Việc nhận diện quy phạm jus cogens đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận, đặc biệt là về các loại
nguồn của quy phạm jus cogens. Một số ý kiến cho rằng, quy phạm jus cogens bảo vệ các giá trị
cơ bản của cộng đồng quốc tế. Các giá trị đó tồn tại một cách độc lập với ý chí của các quốc gia
và có liên quan mật thiết đến nhân phẩm và nhân quyền. Vì vậy, các quy phạm jus cogens bắt
nguồn từ một nguồn riêng và nguồn đó có thứ bậc cao hơn các nguồn khác của luật quốc tế. Do
quyền con người có mối quan hệ chặt chẽ với các giá trị mà quy phạm jus cogens bảo vệ nên
điều này cũng hàm ý thêm rằng, các điều ước về quyền con người có giá trị pháp lý cao hơn các
điều ước và luật tập quán khác, bởi vì chúng cụ thể hóa các giá trị mà quy phạm jus cogens bảo vệ.
Tuy nhiên, quan niệm các quy phạm jus cogens thể hiện các giá trị cơ bản của cộng đồng quốc
tế và tồn tại một cách độc lập với ý chí của các quốc gia sẽ dẫn đến các kết luận tùy ý. Các thẩm
phán quốc tế có thể xác định và mở rộng loại quy phạm jus cogens theo quan niệm của chính họ
về các giá trị cơ bản. Vì vậy, quan niệm hợp lý hơn là quy phạm jus cogens không phải là một
loại nguồn mới của luật pháp quốc tế, mà là khái niệm thể hiện đặc tính cụ thể của các quy
phạm có hiệu lực cao hơn các quy phạm khác của luật quốc tế. Quy phạm jus cogens có thể
được ghi nhận trong điều ước quốc tế nhưng với đặc tính của nó, loại quy phạm này chủ yếu tồn
tại dưới hình thức luật tập quán quốc tế. Để trở thành quy phạm jus cogens thì trước hết, quy
phạm đó phải được các quốc gia công nhận là luật và hơn nữa, chúng phải được cộng đồng các
quốc gia đồng ý rằng đó là quy phạm không được phép vi phạm. Vì vậy, quy phạm jus cogens
phụ thuộc vào “sự chấp nhận kép” của cộng đồng các quốc gia.
Một quy phạm cụ thể không đòi hỏi sự chấp nhận hoàn toàn của tất cả các quốc gia thì nó mới
có vị thế là quy phạm có hiệu lực tối cao (jus cogens) nhưng ít nhất phải được sự chấp nhận của
phần lớn các quốc gia về vị thế đó của quy phạm. Điều này cũng hàm ý thêm rằng, một số (rất
ít) quốc gia không chấp nhận quy phạm jus cogens nhưng vẫn có thể bị ràng buộc bởi quy phạm
đó. Ví dụ, mặc dù Chính phủ Nam Phi liên tục phản đối quy định cấm phân biệt chủng tộc và
apartheid nhưng Nam Phi vẫn bị ràng buộc bởi quy định này, bởi vì quy phạm có hiệu lực tối
cao (jus cogens) không loại trừ những quốc gia liên tục phản đối. Đối với quy phạm có hiệu lực lOMoARc PSD|27879799
tối cao (jus cogens), ý chí của một hoặc một số (rất ít) quốc gia có thể bị bác bỏ bởi ý chí của
tập thể là bởi vì quy phạm jus cogens bảo vệ các giá trị cơ bản của cộng đồng các quốc gia. 5. Kết luận
Các phân tích ở trên cho thấy sự tồn tại của các quy phạm jus cogens trong luật quốc tế đã được
xác lập vững chắc thông qua định nghĩa được nêu tại Điều 53 và Điều 64 Công ước Viên năm
1969. Sự tồn tại của loại quy phạm này đã được công nhận rộng rãi. Quy phạm jus cogens thuộc
nhóm các quy phạm có hiệu lực đặc biệt dựa vào hậu quả pháp lý của chúng. Quy phạm jus
cogens có hiệu lực cao hơn những quy phạm khác bởi vì chúng liên quan chặt chẽ đến nhân
phẩm, nhân quyền và nhân đạo vốn được coi là những giá trị cơ bản của cộng đồng quốc tế.
Việc không cho phép các bên ký kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với quy phạm jus cogens là
xuất phát từ lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, bao gồm lợi ích của những bên được quy
phạm jus cogens bảo vệ. Tóm lại, quy phạm jus cogens không tồn tại độc lập với ý chí của các
quốc gia, trái lại sự hình thành và tồn tại của loại quy phạm này luôn gắn với sự thỏa thuận hoặc
thừa nhận của các quốc gia.
Trên thực tế, vi phạm nghĩa vụ jus cogens không tự động xác lập thẩm quyền đương nhiên của
Tòa trong giải quyết tranh chấp liên quan đến quy phạm đó. Hơn nữa, dường như hầu hết các
thẩm phán ICJ đều không cho rằng các quy phạm jus cogens (được dựa trên cơ sở quyền con
người và lợi ích chung của cộng đồng) sẽ có sức nặng hơn so với các quy định về thẩm quyền tài phán của Tòa.