





Preview text:
TRƯỜNG PHÁI NGUYÊN TỬ LUẬN DEMOCRITOS 1. Tiểu sử
Democritos là học trò của Leucippos và là người phát triển học
thuyết Atomism. Về cuộc đời của ông, sử sách không chép lại một cách
rõ ràng, chỉ biết rằng, ông sinh vào khoảng năm 460-360 TCN ở Abdera -
thành phố thương mại, thuộc xứ Thrace, trong một gia đình thương gia
giàu có. Chính vì vậy mà ông có cơ hội cùng cha đi du lịch qua nhiều
nước khác nhau, thậm chí ông đã từng qua châu Á, đến Ấn Độ và Êtiôpia.
Theo sử gia Diogenes Laertius thì Democritus từng đi khắp đất nước Hy
Lạp, giao thiệp với nhiều triết gia và học giả trong đó có danh y nổi tiếng
Hippocrates, và cũng có thể ông đã vài lần trò chuyện cùng triết gia
Socrates. Qua những chuyến du hành, chàng thanh niên Democritus đã
học hỏi được nhiều điều hay lẽ phải, biết nhiều chuyện nhân tình thế thái.
Theo Diodorus Siculus thì Democritus sống đến 90 tuổi, nhưng cũng có
tư liệu cho rằng ông hưởng thọ ngoài trăm tuổi - một tuổi thọ tương đối
hiếm thời bấy giờ. Một trong những nguyên nhân sống lâu của ông có lẽ
là do tính thẩn lạc quan, vì các bức họa vẽ chân dung ông đều ở
trongtrạng thái cười rất tự nhiên, mãn nguyện.
Democritus là một trong những nhà triết học cổ đại được các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá cao, C. Mác và Ph.
Ăngghen cho rằng: “Đêmôcrít chẳng những không lảng xa thế giới, mà
trái lại, nghiên cứu một cách thực nghiệm giới tự nhiên và là một bộ óc
bách khoa đầu tiên trong những người Hy Lạp". V.I. Lênin coi
Democritus là người thể hiện rõ nhất chủ nghĩa duy vật thời cổ.
2. Thuyết nguyên tử:
Nguyên tử là hạt vật chất không thể chia được nữa, hoàn toàn
nhỏ bé và không thể cảm nhận bằng trực quan. Nguyên tử không biến đổi,
tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng. Nguyên tử không khác nhau
về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và màu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau
về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Mọi vật thể
đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật thể
bị tiêu diệt. Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu,
nhẹ, và nóng tạo nên. Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời
thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác.
Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Démocrite,
chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận
động được. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không thì
vô hạn và không có hình dáng.
Mặc dù Démocrite chưa giải thích được nguyên nhân của vận
động, nhưng ông đã gắn liền vận động với nguyên tử, và nó cũng vô
cùng, vô tận như nguyên tử. Đó là một đóng góp hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết học duy vật.
3. Quan niệm về nguồn gốc con người
Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản
nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử
hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác.
Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết
quả của quá trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những
vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ. Theo ông, con người là một
loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ có tay
chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp.
Démocrite đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và
thần linh; thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính
của con người. Nguyên tử vận động trong chân không theo luật nhân quả
mang tính tất nhiên tuyệt đối. Trong thế giới, mọi sự vật, hiện tượng xảy
ra đều theo lẽ tất nhiên; vì vậy, bản tính thế giới là tất nhiên. Sự thiếu
hiểu biết, sự bất lực trong nhận thức của con người mới sinh ra cái ngẫu
nhiên; ngẫu nhiên mang tính chủ quan
Như vậy, vạn vật trong thế giới, dù là vô sinh hay hữu sinh, đều
xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hay ai đó
sáng tạo ra. Thậm chí, nếu có thần thánh thì họ cũng được tạo ra từ
nguyên tử và tồn tại trong chân không.
Mặc dù Đêmôcrít không lý giải được nguồn gốc của vận động,
không biết được linh hồn là hiện tượng tinh thần; nhưng việc ông khẳng
định bản chất thế giới là vật chất – nguyên tử luôn vận động theo quy luật
nhân quả; vũ trụ vật chất là vô hạn và đa dạng, không được sáng tạo và
không bị hủy diệt bởi các thế lực siêu nhiên,. là quan niệm duy vật
4. Quan niệm về nhận thức của Democrit:
Démocrite phủ nhận sự tồn tại của thần linh, Thượng đế. Theo
ông, thần thánh chẳng qua là sản phẩm của sự tưởng tượng của con
người. Những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông,
muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức
bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà
phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý
tính. Do đó, ông chia nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức "mờ tối"
(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”.
Đêmôcrít cho rằng, mọi nhận thức của con người đều có nội dung
chân thực, nhưng mức độ rõ ràng, đầy đủ của chúng khác nhau. Ông chia
nhận thức chân thực của con người ra làm hai dạng có liên hệ mật thiết
với nhau là nhận thức mờ tối do giác quan mang lại, tức nhận thức cảm
tính, và nhận thức sáng suốt do suy đoán đem đến, tức nhận thức lý tính.
Nhận thức mờ tối chỉ cho ta biết được dáng vẻ bề ngoài của sự vật. Muốn
khám phá ra bản chất của sự vật cần phải tiến hành nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính đáng tin cậy, nhưng đó lại là một quá trình đầy khó
khăn, phức tạp và đòi hỏi phải có một năng lực tư duy tìm tòi khám phá
của con người khao khát hiểu biết.
Như vậy, theo Đêmôcrít, nhận thức cảm tính là tiền đề của nhận
thức lý tính; muốn nắm bắt bản chất thế giới không thể không sử dụng
nhận thức lý tính. Khi đề cao nhận thức lý tính, Đêmôcrít tiến hành xây
dựng các phương pháp nhận thức lôgích như quy nạp, so sánh, giả thuyết,
định nghĩa. Ông được Arixtốt coi là nhà lôgích học đầu tiên phát biểu về nội dung lôgíc học.
5. Quan niệm về đạo đức
Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống đúng mực, ôn hòa,
không gây hại cho mình và cho người là sống có đạo đức. Hạnh phúc của
con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng lạc
vừa phải trong sự thanh thản của tâm hồn tự do. Mặc dù Đêmôcrít coi
hạnh phúc hay bất hạnh, tốt hay xấu. . đều phải dựa trên nghề nghiệp,
nhưng ông luôn phản đối sự giàu có quá đáng, phản đối sự trục lợi bất
lương, bởi vì chúng là cội nguồn dẫn tới sự bất hạnh cho con người. Ông
luôn đề cao những hành động vị nghĩa cao thượng của con người, bởi vì
chỉ có những hành vi đầy nghĩa khí mới làm cho con người trở thành vĩ
đại. Theo Đêmôcrít, con người lúc đầu sống theo bầy đàn, ăn lông ở lỗ
nhưng do nhu cầu giao tiếp mà có tiếng nói; do nhu cầu ăn ở mà có nhà
cửa, quần áo, biết chăn nuôi, săn bắn, trồng trọt. .; nghĩa là, nhu cầu vật
chất để tồn tại và phát triển của con người là động lực phát triển xã hội.
6. Quan niệm về chính trị và xã hội
Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmôcrít luôn xuất phát
từ quan niệm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế
độ dân chủ chủ nô. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với
nền thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó cũng phải gắn liền với
tình thân ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, chứ
không phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ.
Nhà nước cộng hò là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô phải biết tự điều
hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Quản
lý nhà nước phải coi như một nghệ thuật mang lại cho con người hạnh
phúc, vinh quang, tự do và dân chủ.
Ông coi nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm
khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức.
7. Mối quan hệ tất nhiên - ngẫu nhiên
Nguyên tử luận cũng được triển khai vào việc giải thích mối quan
hệ tất nhiên - ngẫu nhiên - một trong những mối quan hệ nền tảng của
các sự vật, hiện tượng, quá trình đang diên ra khắp nơi.
Trước nay, nhiều nhà viết sử cổ đại vẫn đình ninh răng, Đêmôcrít
loại bỏ khái niệm “ngẫu nhiên ra khỏi học thuyết của mình, căn cứ vào
nhận định không một sự vật nào sinh ra một cách vô nguyên có mà tất cả
đều tuân theo mối quan hệ nhân quả và tình tất yếu. Trên thực tế vấn đề
phúc tạp hơn nhiều. Trước hết với sự phê bình cải ngẫu nhiên của
Đêmôcrít gån liền với sự phê bình phi lý. Người ta nghĩ ra cái ngẫu nhiên
nhắm dùng nó như chiếc lọng che đậy tính chất phi lý nơi mình. Con
người cho một hiện tương nào đó là ngẫu nhiên, vì họ lười suy nghĩ,
không muốn truy tìm nguyên nhân của nó. Đêmócrít không phản bác khái
niệm ngẫu nhiên, mà chỉ loại ra khỏi đời sống cái ngẫu nhiên – số mệnh
mang tính chất tôn giáo. Trước nay, nhiều nhà viết sử cổ đại vẫn đinh
ninh rằng, Đêmôcrít loại bỏ khái niệm “ngẫu nhiên” ra khỏi học thuyết
của mình, căn cứ vào nhận định: không một sự vật nào sinh ra một cách
vô nguyên cớ mà tất cả đều tuân theo mối quan hệ nhân quả và tính tất
yếu. Trên thực tế vấn đề phức tạp hơn nhiều. Trước hết với sự phê bình
cái ngẫu nhiên của Đêmôcrít găn liền với sự phê bình phi lý. Người ta
nghĩ ra cái ngẫu nhiên nhăm dùng nó như chiếc lọng che đậy tính chất phi
lý nơi mình. Từ góc độ triết lý ngẫu nhiên, theo Đêmôcrít, là cái gì đó xảy
ra không theo tự nhiên, khác với tất yêu là cái tồn tại theo tự nhiên.
Những gì diễn ra không theo tự nhiên thường thuộc về trạng thái ban đầu
của sự vật. Trong “Thần khúc” A.Dante, nhà thơ và nhà tư tưởng cuối
thời Trung viết: “Đêmôcrít - người chủ trương vũ trụ tuân theo may rủi”.
Sự đối lập tất nhiên - ngẫu nhiên, xét cho cùng, là sự đối lập cái xảy ra
“theo tự nhiên" với cái xảy ra “không theo tự nhiên”, cái đóng vai trò là
kết quả của những nguyên nhân bên trong với cái biểu thị sự trùng hợp
các sự kiện “không chủ đích”, kết quả của những nguyên nhân bên ngoài.
Nguồn gốc thế giới cũng được lý giải theo quan hệ tất yếu - ngẫu
nhiên. Trước khi có thế giới như tình trạng hiện tại các nguyên tử còn vận
động hỗn độn trong chuỗi thời gian bất tận. Thế giới xuất hiện, chấm dứt
sự ngự trị của cái hỗn độn, ngẫu nhiên. Tất cả giờ đây đều diễn ra theo
tính tất yếu, dòng xoáy lốc các nguyên từ trở thành nguyên nhân xuất
hiện các vật thể. Không còn tự do theo nghĩa tuỳ tiện: tất cả điều tuân
theo tính tất yếu. Nhưng trên nền chung của tính tất yếu, cái ngẫu nhiên
vẫn hiện diện dưới những hình thức khác nhau. Sự tồn tại cái ngẫu nhiên
trong bức tranh về thế giới được quy định bởi tỉnh đa dạng các khuynh
hướng vận động ban đầu của nguyên tử, bởi số lượng vô cùng lớn của
chúng, và bởi sự tổn tại một không gian rỗng vĩ đại.
Nói đến vận động của vũ trụ, Đêmôcrít luôn nhấn mạnh tỉnh quy
luật và tỉnh tất yếu của nó. Bản thân từ "vũ trụ” (theo tiếng Hy Lạp
kosmos) đã hàm chứa một cái gì đó chuẩn xác, trật tự, là môi trường rộng
lớn, nơi mỗi thực thể điều chiếm một vị trí nhất định. Tuy nhiên thử hỏi:
làm sao có thể có sự vận động chuẩn xác, trật tự của cả một phức hợp
không đếm xuể các nguyên tử, tạo nên vũ trụ nói chung, cùng toàn bộ các
sự vật trong vũ trụ ấy, nếu vận động ban đầu (trước khi vũ trụ xuất hiện)
mang tính chất hỗn độn? Nếu vận động ngay từ đầu đã là vận động hỗn
độn (ngẫu nhiên), thì nó cũng không thể đưa cái gì đến vận động chuẩn
xác, hài hoà được. Thêm nữa, trong quan niệm về tất yếu của Đêmôcrít
có sự nhầm lẫn cơ bản. Thay vì xem tính nhân quả như cơ sở của tính tất
yếu, thì ông lại quy tính tất yếu về tính nhân quả. Nhưng không phải
nguyên nhân nào cũng tất yếu dẫn đến kết quả nấy. Trong thực tế để đạt
được một kết quả nào đó cần hội đủ những điều kiện tương ứng. Thông
thường mỗi kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân sinh ra, và
ngược lại. Mỗi liên hệ nhân quả, do vậy, không đơn giản. Càng ít ảnh
hưởng của điều kiện, hoàn cảnh, thì nguyên nhân sinh ra kết quả càng gắn
nhiều hơn với tính tất yếu, càng ít đi vai trò của ngẫu nhiên. Song điều
này chỉ có thể thực hiện được trong điêu kiện tối ưu - thực nghiệm, kiểm chứng.
Ở các nhà nguyên tử thì cái gì có nguyên nhân điều được xem xét
từ góc độ tính tất yếu. Tất cả mọi biên có điều có nguyên nhân này hay
nguyên nhân khác, tất cả vạn vật trong vũ trụ điều diễn ra một cách tất
yếu. Xét theo nghĩa đó, cái gì xảy ra mà ta chưa biết nguyên nhân, thì gọi
là ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên hoa ra là cái có tính chất chủ quan, bị đồng
nhất với phi nhân quả. Tính chất mâu thuẫn và khập khiễng của học
thuyết tất yếu - ngẫu nhiên ở Đêmôcrít đã quá rõ ràng. Chỉ đứng vừng
trên phương pháp luận biện chứng thực sự mới tìm hiểu một cách sâu sắc
mỗi liên hệ và chuyển hoá lẫn nhau giữa tất yêu và ngẫu nhiên, đồng thời
chỉ ra giới hạn thể hiện của chúng. 8. Kết luận
Triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các
quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của
Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa
duy vật Hy Lạp thời cổ đại. Làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các
trào lưu duy tâm đang thịnh hành bấy giờ, mà sau đó là trào lưu duy tâm
nồi tiếng của Platon. Sau này, Épiquya và Lucorexo đã khắc phục những
hạn chế của ông và phát triển học thuyết nguyên từ hơn nữa. Loxip.
Đêmôcrít, Épiquya trờ thành những tên tuổi đại biểu cho phải nguyên tử
luận thời cổ đại Hy Lạp La Mã. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lịch sử triết học phương Tây - PGS, TS Đinh Ngọc Thạch.
2. Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại - PGS, TS Lê Công Sự.
3. Chũ nghĩa duy vật chất phác Hy Lạp cổ đại và những giá trị, hạn chế
của nó - Nguyễn Vũ Giang.
4. Lịch sử triết học và các luận đề - Stumpf, Samuel Enoch.
5. Và các nguồn từ Internet, thông tin khác.
Document Outline
- 1.Tiểu sử
- 2.Thuyết nguyên tử:
- 3.Quan niệm về nguồn gốc con người
- 4.Quan niệm về nhận thức của Democrit:
- 5.Quan niệm về đạo đức
- 6.Quan niệm về chính trị và xã hội
- 7.Mối quan hệ tất nhiên - ngẫu nhiên
- 8.Kết luận