Nhà nước phân quyền cát cứ là gì? Nguyên nhân dẫn đến
phân quyền cát cứ
1. Nhà nước phân quyền cát cứ là gì?
Nhà nước phân quyền cát cứ hình thức nhà nước phong kiến, trong đó quyền lực nhà vua bị hạn
chế bởi sự lộng quyền của các lãnh chúa địa phương.
2. Trạng thái phân quyền cát cứ phong kiến
Phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản, nổi bật nhất trong thời kì phát triển của chế độ phong kiến
Tây Âu. Nó bao trùm và chi phối mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị phong kiến.
Ngay từ thời đế quốc Frăng đã nảy sinh hiện tượng phân quyền cát cứ. Sau khi Clovit chết năm
511, Vương quốc Frăng đã bị chi phối thành bốn phần do những người con của ông cai quản. Từ
cuối thế kỉ VI, nội chiến giữa các anh em dòng họ vanh giêng thường diễn ra, khiến cho
quyền lực của các ông vua ngày càng suy yếu. Trong khi đó thế lực của bọn quý tộc ngày càng
mạng lấn át cả quyền lực của nhà vua, biến vua thành chắn để che đỡ trong việc tranh giành
nhau quyền lợi. Nhiều vùng trước kia thần phục, nay thoát li khỏi phạm vi thế lực của nhà vua, trở
thành những ng độc lập. Mãi tới đầu thế kỉ VIII, thừa tướng Sác Mác ten dùng lực khôi
phục lại trật tự cũ trong toàn vương quốc.
Từ sau Hoà ước Véc đoong, Tây Âu hoàn toàn trạng thái phân quyền cát cứ. Không những đế
quốc Frawng bị chia cắt tan ra mà ngay mỗi vương quốc cũng bị tiếp tục chia cắt thành nhiều
mảnh. Sau khi quyền lực của hoàng đế bị các vua lấn át đến lượt uy quyền của các vua bị lãnh
chúa phong kiến coi thường. Nội chiến giữa các chúa phong kiến diễn ra triền miên cùng với nạn
ngoại xâm làm cho nhân dân lao động vô cùng cơ cực.
Pháp là nước phân quyền cát cứ nhất ở Tây Âu. Nếu như ở Pháp, Anh từ đầu thế kỉ XV, chính thể
quân chủ chun chế được xác lập, thì Đức, Italia trạng thái phân quyền cátcuws tồn tại vững
chắc suốt thời phong kiến, cho đến khi nước Đức, Ý được thống nhất.
3. Nguyên nhân dẫn đến phân quyền cát c
3.1. Nguyên nhân sâu xa
Đế quốc Frang được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm lược được duy trì
bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiệp tạm thời không vững chắc, trong phạm
vi cả Tây Âu và trong phạm vi từng nước, các cộng đồng dân cư ở vào trình độ phát triển kinh tế,
hội khác nhau, do đó đều khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng buộc
của chính quyền trung ương.
3.2. Nguyên nhân cơ bản
Nguyên nhân cơ bản có tính chất quyết định là về kinh tế. Trong đó trước hết phải nói đến chế độ
sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của phong kiến được hình thành từ
hai nguồn:
- Nguồn thứ nhất: Chế độ phân phong ruộng đất và chế độ thừa kế ruộng đất. Các vua đều ban cấp
ruộng đất cho những người trong họ hàng cha bầy tôi giao cho giáo hội để trả công cho họ hoặc
để mua chuộc sự ủng hộ của họ. Đến các quý tộc các lãnh chúa lớn cũng phải làm như vậy. Tức
cũng phải đem ruộng đất được vua phân phong đđem chia cho y tùng của mình. Chế độ phải
phân phong ruộng đất.
- Nguồn thứ hai: Số ruộng đất ít ỏi của những nhân dân tự do, nằm rải rác trong khu đất của lãnh
chúa. Những người dân ngoài việc phải đi lính cho nhà vua thì họ còn luôn đứng trước nguy cơ bị
cướp bóc, nạn nhân của các cuộc nội chiến nên họ phải nhờ vào một chỗ dựa nào đấy, đó
chúa phong kiến lãnh địa “bảo hộ” cho mình. thế họ phải hiến đất cho lãnh chúa trở
thành lệ nông hoặc nông để phục vụ trong các lãnh địa .Như vậy, các phần tử trong giai cấp
phong kiến luôn luôn đứng trước một mâu thuẫn, một mặt bao giờ chúng cũng muốn tăng cường
quyền lực và mở rộng lãnh địa của mình tới mức độ lớn nhất mặt khác lại phaỉ chia sẻ quyền lực
lãnh địa của mình cho các thần thuộc bên dưới để biến bon này thành chỗ dựa. Chính vậy,
đã dẫn đến hậu quả quyền sở hữu tối cao ruộng đất không thuộc về nhà vua và dẫn đến trạng thái
phân quyền cát cứ. Trạng thái này đẻ ra trạng thái kinh tế tự cung tự cấp. Đến lượt nó nền kinh tế
tự nhiên lại là một yếu tố kinh tế củng cố trạng thái chính trị phân quyền cát cứ Việc thiết lập
cấu trúc phân quyền cát cứ cũngdo vấn đề giao thông đi lại khó khăn bị hỏng nhiều bởi chiến
tranh từ thời đế quốc La mã. Việc đi lại chuyên chở cũng không an toàn nạn cướp bóc, đường
đi lại khó khăn, trắc trở khiến cho mối liên hệ giữa các vùng cũng không thường xuyên đã làm cho
tình trạng cát cứ địa phương ở các lãnh địa trở nên sâu sắc rõ nét hơn.
3.3. Các nguyên nhân khác
Ngoài ra đối với từng nước còn có các nguyên nhân khác như ở Pháp do lãnh địa hẹp thu nhập ít
thế lực của nhà vua rất hạn chế còn lãnh địa của các lãnh chúa ngày càng được mở rộng nên họ
thường có thế mạnh áp đảo nhà vua. Hoặc như ở Italia do sự xâm lược và xâu xé của nhiều thế lực
bên ngoài cộng với sự hình thành các quốc gia thành thị… nên Italia không có chính quyền trung
ương. Còn Đức các lãnh chúa phong kiến có tham vọng rất lớn nên chúng thường đi xâm lược
để thỏa mãn nhu cầu ruộng đất của cải. Chính bởi việc hình thành các bậc thang đẳng cấp phong
kiến ở Tây Âu đa hình hành mối quan hệ “ bồi thần của bồi thần chứ không phải bồi thần của ta”
như câu nói của một nhà vua. Từ bâc thang đẳng cấp phong kiến nảy sinh tình trạng một số quý
tộc nhỏ ở địa phương không nghe theo lệnh của vua vì vậy quyền của vua rất yếu ớt cũng chỉ như
một lãnh chúa mà thôi. Chế độ này gọi là chế độ phân quyền cát cứ phong kiến có nghĩa là quyền
lực đã bị phân tán và nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến chứ không tập trung vào tay vua như
ở phương Đông.
4. Biểu hiện của phân quyền cát cứ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hi
Nói đến trạng thái cát cứ là nói về lãnh địa và lãnh chúa phong kiến. Đất đai được phân phong dần
dần biến thành vật tư hữu và tạo nên lãnh địa. Đồng thời thế lực của người nhận đất ngày càng lớn
trở thành lãnh chúa, một lãnh chúa nhiều lãnh địa thể thừa kế cho con trai kèm theo
những nghĩa vụ đối với những người trong lãnh địa đó.
4.1. Về kinh tế
Mỗi lãnh địa phong kiến là một đơn vị khép kín, tự cung tự cấp, sẩn phẩm do nông nô làm ra thủ
công nghiệp thương nghiệp phát triển rất yếu ớt. Mỗi lãnh địa nhiều trang viên, trong mỗi
trang viên phong kiến lại chia làm hai phần: phần thứ nhất gồm lâu đài và một số ruộng đất, vườn
tược do lãnh chúa trực tiếp quản lý và sức lao động ở đây là tô lao dịch của nông nô. Phần thứ hai
chủ yếu gồm đất canh c được chia thành nhiều khoảnh nhỏ cấp cho các gia đình nông dân lĩnh
canh.
4.2.Về chính trị – xã hội
- Về xã hội
Quan hệ bản quan hệ giữa lãnh chúa nông dân. Nông dân ba loại: nông dân tự do, lệ
nông và nông nô. Trong đó, lệ nông dần dần trở thàn nồng nô. Ngay cả nông dân tự do trước sau
cũng bi biến thành nông nô. Nông lệ thuộc vào chúa phong kiến cả về ruộng đất thân thể.
Họ bị cột chặt suốt đời vào ruộng đất phong kiến không có quyền bỏ đi nơi khác.Nếu chúa phong
kiến chuyển nhượng ruộng đất thì cũng chuyển nhượng luôn những nông nô sống trên đó. Nhưng
nông chưa mất tự do hoàn toàn, họ có quyền có gia đình, tài sản riêng. Lãnh chúa có thể mua
bán nông nô những không thể y tiện giết họ như nô lệ. Đối với lệ nông không phải nông thì
số ngày lao dịch khoản hiện vật được giảm nhẹ hơn. nông lẹ thuộc vào chúa phong
kiến về mặt thân thể, nên họ phải nộp thuế thân cho chúa phong kiến. Nông nô lấy vợ, lấy chồng
phải nộp thuế kết hôn. Con cái nông muốn kế thừa tài sản của cha cũng phải nộp khoản thuế
gọi là thuế thừa kế. Những so với nô lệ trong xã hội cổ đại thân phận của nông nô có khá hơn.
- Về chính trị
Lãnh địa cũng một đơn vị chính trị biệt lập tương tự như một vương quốc quân đội luật lệ
tòa án, tài chính đơn vị đo lường riêng. Những tước vị chức vụ trong chính quyền mà nhà vua
trao cho các lãnh chúa nay đã trở thành cha chuyền con nối. Không những thế các lãnh chúa còn
biến luôn khu cả khu vực hành chính do chúng đứng đầu thành lãnh địa riêng. Nhà vua không thể
điều động, thuyên chuyển hoặc thay thế chúng bằng người khác. Chúng còn dùng uy quyền biễn
các thần thuộc của nhà vua thành thần thuộc của chúng, biến những thần dân của nhà vua thành
thần dân của chúng. Các lãnh chúa đều có tòa án riêng xét xử những thần dân trong lãnh địa giám
chông lại chúng. Những vụ xét xử này còn đem lại cho lãnh chúa một khoản thu nhập lớn. Ngoài
ra quyền đúc tiền cũng đem lại một nguồn lợi không nhỏ cho các lãnh chúa. Quyền thu thuế ở địa
phương cúng thuộc về các lãnh chua. Giữa các chúa phong kiến thường xảy ra chiến tranh, nhằm
cưỡng đoạt đất đai, tài sản, mở rộng phạm vi thế lực. Bộ phận quân đội của lãnh chúa hoàn toàn
tách khỏi sự điều động của nhà vua
thể thấy, trạng thái phân quyền cát cứ Tây Âu thời kỳ phong kiến ảnh hưởng rất lớn đến
tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu như ở thời kì đầu trong chỉ là bầy tôi giúp việc quản lí sản nghiệp
đó, vuatổng chỉ huy quân đội giữ quyền xét xử tối cao, quyền thế thì đến thời kì phân quyền cát
cứ Tây Âu đứng đầu nhà nước vẫn vua nhưng quyền lực lại bị hạn chế phân tán cho các
lãnh chúa. Hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương không có sự thống nhất chặt
chẽ. Mỗi lãnh đia như là một quốc gia riêng các lãnh chúa chính một ông vua ngự trị trên
vương quốc đó.
Như vậy trên thực tế các lãnh địa đã trở thành những quốc gia nhỏ. Các lãnh chúa trở thành vua
trên lãnh địa của mình có đầy đủ quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, có by chính quyền, tòa
án, quân đội luật lệ riêng. Chính trong trạng thái phân quyền cát cứ đó, quan hệ phong kiến được
thể hiện nét nhất, thể hiện qua chế độ sở hữu phong kiến quan hệ địa chphong kiến nông
địa vị của hai giai cấp này trong xã hội và phương thức bóc lột địa tô. Như vậy thời kì phân quyền
cát cứ là thời kì phát triển nhất chế độ phong kiến Tây Âu.

Preview text:

Nhà nước phân quyền cát cứ là gì? Nguyên nhân dẫn đến phân quyền cát cứ
1. Nhà nước phân quyền cát cứ là gì?
Nhà nước phân quyền cát cứ là hình thức nhà nước phong kiến, trong đó quyền lực nhà vua bị hạn
chế bởi sự lộng quyền của các lãnh chúa địa phương.
2. Trạng thái phân quyền cát cứ phong kiến
Phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản, nổi bật nhất trong thời kì phát triển của chế độ phong kiến
Tây Âu. Nó bao trùm và chi phối mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và chính trị phong kiến.
Ngay từ thời đế quốc Frăng đã nảy sinh hiện tượng phân quyền cát cứ. Sau khi Clovit chết năm
511, Vương quốc Frăng đã bị chi phối thành bốn phần do những người con của ông cai quản. Từ
cuối thế kỉ VI, nội chiến giữa các anh em dòng họ Mê rô vanh giêng thường diễn ra, khiến cho
quyền lực của các ông vua ngày càng suy yếu. Trong khi đó thế lực của bọn quý tộc ngày càng
mạng lấn át cả quyền lực của nhà vua, biến vua thành lá chắn để che đỡ trong việc tranh giành
nhau quyền lợi. Nhiều vùng trước kia thần phục, nay thoát li khỏi phạm vi thế lực của nhà vua, trở
thành những vùng độc lập. Mãi tới đầu thế kỉ VIII, thừa tướng Sác lơ Mác ten dùng vũ lực khôi
phục lại trật tự cũ trong toàn vương quốc.
Từ sau Hoà ước Véc đoong, Tây Âu hoàn toàn ở trạng thái phân quyền cát cứ. Không những đế
quốc Frawng bị chia cắt và tan ra mà ngay mỗi vương quốc cũng bị tiếp tục chia cắt thành nhiều
mảnh. Sau khi quyền lực của hoàng đế bị các vua lấn át đến lượt uy quyền của các vua bị lãnh
chúa phong kiến coi thường. Nội chiến giữa các chúa phong kiến diễn ra triền miên cùng với nạn
ngoại xâm làm cho nhân dân lao động vô cùng cơ cực.
Pháp là nước phân quyền cát cứ nhất ở Tây Âu. Nếu như ở Pháp, Anh từ đầu thế kỉ XV, chính thể
quân chủ chuyên chế được xác lập, thì ở Đức, Italia trạng thái phân quyền cátcuws tồn tại vững
chắc suốt thời phong kiến, cho đến khi nước Đức, Ý được thống nhất.
3. Nguyên nhân dẫn đến phân quyền cát cứ
3.1. Nguyên nhân sâu xa
Đế quốc Frang được dựng lên do kết quả của những cuộc chiến tranh xâm lược và được duy trì
bằng bạo lực, không có cơ sở kinh tế, chỉ là một liên hiệp tạm thời không vững chắc, trong phạm
vi cả Tây Âu và trong phạm vi từng nước, các cộng đồng dân cư ở vào trình độ phát triển kinh tế,
xã hội khác nhau, do đó đều có khuynh hướng phát triển riêng, muốn tách ra khỏi sự ràng buộc
của chính quyền trung ương.
3.2. Nguyên nhân cơ bản
Nguyên nhân cơ bản có tính chất quyết định là về kinh tế. Trong đó trước hết phải nói đến chế độ
sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đó là sở hữu tư nhân rất lớn của phong kiến được hình thành từ hai nguồn:
- Nguồn thứ nhất: Chế độ phân phong ruộng đất và chế độ thừa kế ruộng đất. Các vua đều ban cấp
ruộng đất cho những người trong họ hàng cha bầy tôi và giao cho giáo hội để trả công cho họ hoặc
để mua chuộc sự ủng hộ của họ. Đến các quý tộc các lãnh chúa lớn cũng phải làm như vậy. Tức là
cũng phải đem ruộng đất được vua phân phong để đem chia cho tùy tùng của mình. Chế độ phải phân phong ruộng đất.
- Nguồn thứ hai: Số ruộng đất ít ỏi của những nhân dân tự do, nằm rải rác trong khu đất của lãnh
chúa. Những người dân ngoài việc phải đi lính cho nhà vua thì họ còn luôn đứng trước nguy cơ bị
cướp bóc, là nạn nhân của các cuộc nội chiến nên họ phải nhờ vào một chỗ dựa nào đấy, đó là
chúa phong kiến ở lãnh địa “bảo hộ” cho mình. Và vì thế họ phải hiến đất cho lãnh chúa và trở
thành lệ nông hoặc nông nô để phục vụ trong các lãnh địa .Như vậy, các phần tử trong giai cấp
phong kiến luôn luôn đứng trước một mâu thuẫn, một mặt bao giờ chúng cũng muốn tăng cường
quyền lực và mở rộng lãnh địa của mình tới mức độ lớn nhất mặt khác lại phaỉ chia sẻ quyền lực
và lãnh địa của mình cho các thần thuộc bên dưới để biến bon này thành chỗ dựa. Chính vì vậy,
đã dẫn đến hậu quả quyền sở hữu tối cao ruộng đất không thuộc về nhà vua và dẫn đến trạng thái
phân quyền cát cứ. Trạng thái này đẻ ra trạng thái kinh tế tự cung tự cấp. Đến lượt nó nền kinh tế
tự nhiên nó lại là một yếu tố kinh tế củng cố trạng thái chính trị phân quyền cát cứ Việc thiết lập
cấu trúc phân quyền cát cứ cũng là do vấn đề giao thông đi lại khó khăn bị hư hỏng nhiều bởi chiến
tranh từ thời đế quốc La mã. Việc đi lại chuyên chở cũng không an toàn vì nạn cướp bóc, đường
đi lại khó khăn, trắc trở khiến cho mối liên hệ giữa các vùng cũng không thường xuyên đã làm cho
tình trạng cát cứ địa phương ở các lãnh địa trở nên sâu sắc rõ nét hơn.
3.3. Các nguyên nhân khác
Ngoài ra đối với từng nước còn có các nguyên nhân khác như ở Pháp do lãnh địa hẹp thu nhập ít
thế lực của nhà vua rất hạn chế còn lãnh địa của các lãnh chúa ngày càng được mở rộng nên họ
thường có thế mạnh áp đảo nhà vua. Hoặc như ở Italia do sự xâm lược và xâu xé của nhiều thế lực
bên ngoài cộng với sự hình thành các quốc gia thành thị… nên Italia không có chính quyền trung
ương. Còn ở Đức các lãnh chúa phong kiến có tham vọng rất lớn nên chúng thường đi xâm lược
để thỏa mãn nhu cầu ruộng đất và của cải. Chính bởi việc hình thành các bậc thang đẳng cấp phong
kiến ở Tây Âu đa hình hành mối quan hệ “ bồi thần của bồi thần chứ không phải bồi thần của ta”
như câu nói của một nhà vua. Từ bâc thang đẳng cấp phong kiến nảy sinh tình trạng một số quý
tộc nhỏ ở địa phương không nghe theo lệnh của vua vì vậy quyền của vua rất yếu ớt cũng chỉ như
một lãnh chúa mà thôi. Chế độ này gọi là chế độ phân quyền cát cứ phong kiến có nghĩa là quyền
lực đã bị phân tán và nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến chứ không tập trung vào tay vua như ở phương Đông.
4. Biểu hiện của phân quyền cát cứ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội
Nói đến trạng thái cát cứ là nói về lãnh địa và lãnh chúa phong kiến. Đất đai được phân phong dần
dần biến thành vật tư hữu và tạo nên lãnh địa. Đồng thời thế lực của người nhận đất ngày càng lớn
và trở thành lãnh chúa, một lãnh chúa có nhiều lãnh địa có thể thừa kế cho con trai và kèm theo
những nghĩa vụ đối với những người trong lãnh địa đó. 4.1. Về kinh tế
Mỗi lãnh địa phong kiến là một đơn vị khép kín, tự cung tự cấp, sẩn phẩm do nông nô làm ra thủ
công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất yếu ớt. Mỗi lãnh địa có nhiều trang viên, trong mỗi
trang viên phong kiến lại chia làm hai phần: phần thứ nhất gồm lâu đài và một số ruộng đất, vườn
tược do lãnh chúa trực tiếp quản lý và sức lao động ở đây là tô lao dịch của nông nô. Phần thứ hai
chủ yếu gồm đất canh tác được chia thành nhiều khoảnh nhỏ cấp cho các gia đình nông dân lĩnh canh.
4.2.Về chính trị – xã hội - Về xã hội
Quan hệ cơ bản là quan hệ giữa lãnh chúa và nông dân. Nông dân có ba loại: nông dân tự do, lệ
nông và nông nô. Trong đó, lệ nông dần dần trở thàn nồng nô. Ngay cả nông dân tự do trước sau
cũng bi biến thành nông nô. Nông nô lệ thuộc vào chúa phong kiến cả về ruộng đất và thân thể.
Họ bị cột chặt suốt đời vào ruộng đất phong kiến không có quyền bỏ đi nơi khác.Nếu chúa phong
kiến chuyển nhượng ruộng đất thì cũng chuyển nhượng luôn những nông nô sống trên đó. Nhưng
nông nô chưa mất tự do hoàn toàn, họ có quyền có gia đình, có tài sản riêng. Lãnh chúa có thể mua
bán nông nô những không thể tùy tiện giết họ như nô lệ. Đối với lệ nông không phải nông nô thì
số ngày lao dịch và khoản tô hiện vật được giảm nhẹ hơn. Vì nông nô lẹ thuộc vào chúa phong
kiến về mặt thân thể, nên họ phải nộp thuế thân cho chúa phong kiến. Nông nô lấy vợ, lấy chồng
phải nộp thuế kết hôn. Con cái nông nô muốn kế thừa tài sản của cha cũng phải nộp khoản thuế
gọi là thuế thừa kế. Những so với nô lệ trong xã hội cổ đại thân phận của nông nô có khá hơn. - Về chính trị
Lãnh địa cũng là một đơn vị chính trị biệt lập tương tự như một vương quốc có quân đội luật lệ
tòa án, tài chính đơn vị đo lường riêng. Những tước vị và chức vụ trong chính quyền mà nhà vua
trao cho các lãnh chúa nay đã trở thành cha chuyền con nối. Không những thế các lãnh chúa còn
biến luôn khu cả khu vực hành chính do chúng đứng đầu thành lãnh địa riêng. Nhà vua không thể
điều động, thuyên chuyển hoặc thay thế chúng bằng người khác. Chúng còn dùng uy quyền biễn
các thần thuộc của nhà vua thành thần thuộc của chúng, biến những thần dân của nhà vua thành
thần dân của chúng. Các lãnh chúa đều có tòa án riêng xét xử những thần dân trong lãnh địa giám
chông lại chúng. Những vụ xét xử này còn đem lại cho lãnh chúa một khoản thu nhập lớn. Ngoài
ra quyền đúc tiền cũng đem lại một nguồn lợi không nhỏ cho các lãnh chúa. Quyền thu thuế ở địa
phương cúng thuộc về các lãnh chua. Giữa các chúa phong kiến thường xảy ra chiến tranh, nhằm
cưỡng đoạt đất đai, tài sản, mở rộng phạm vi thế lực. Bộ phận quân đội của lãnh chúa hoàn toàn
tách khỏi sự điều động của nhà vua
Có thể thấy, trạng thái phân quyền cát cứ ở Tây Âu thời kỳ phong kiến có ảnh hưởng rất lớn đến
tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu như ở thời kì đầu trong chỉ là bầy tôi giúp việc quản lí sản nghiệp
đó, vua là tổng chỉ huy quân đội giữ quyền xét xử tối cao, quyền thế thì đến thời kì phân quyền cát
cứ ở Tây Âu đứng đầu nhà nước vẫn là vua nhưng quyền lực lại bị hạn chế và phân tán cho các
lãnh chúa. Hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương không có sự thống nhất chặt
chẽ. Mỗi lãnh đia như là một quốc gia riêng và các lãnh chúa chính là một ông vua ngự trị trên vương quốc đó.
Như vậy trên thực tế các lãnh địa đã trở thành những quốc gia nhỏ. Các lãnh chúa trở thành vua
trên lãnh địa của mình có đầy đủ quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, có bộ máy chính quyền, tòa
án, quân đội luật lệ riêng. Chính trong trạng thái phân quyền cát cứ đó, quan hệ phong kiến được
thể hiện rõ nét nhất, thể hiện qua chế độ sở hữu phong kiến quan hệ địa chủ phong kiến nông nô
địa vị của hai giai cấp này trong xã hội và phương thức bóc lột địa tô. Như vậy thời kì phân quyền
cát cứ là thời kì phát triển nhất chế độ phong kiến Tây Âu.