Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin

Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
21 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin

Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

50 25 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45740153
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
THÀNH VIÊN: NHÓM 3
LỚP CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (122)_09
GIẢNG VIÊN: LÊ THỊ HỒNG
Hà Nội, tháng 09 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3
lOMoARcPSD| 45740153
ST Họ và tên MSV
T
1 Ngô Thị Linh 11217377
2 Nguyễn Thị Khánh Linh 11213323
3 Nguyễn Thanh Tâm 11217397
4 Bùi Thị Đào 11217351
5 Nguyễn Hương Giang 11217333
6 Nguyễn Thị Mai Hương 11217371
7 Nguyễn Thị Mỹ Ngọc 11217385
8 Đinh Mai Phương Anh 11217333
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử hội loài người từ trước đến nay trải qua 5 hình thái kinh tế hội với 4
kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, hội chủ nghĩa, và tất cả đều có liên
hệ mật thiết với pháp quyền. Nhà ớc pháp quyền chúng ta quan niệm không phi
kiểu nhà nước gắn liền với một giai cấp một hình thức tổ chức, một trình độ phát
triển của nhà nước về phương diện tổ chức quyền lực để đảm bảo hiến pháp pháp luật
giữ địa vị tối cao. Hay nói cách khác, đó là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp
luật, pháp chế trong tổ chức bộ máy nhà nước và đời sống xã hội.
lOMoARcPSD| 45740153
Lý luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật cho thấy, nhà nước pháp quyền là một
trong những giá trị chung của nhân loại tiến bộ, thể hiện ước muốn, khát vọng của con
người về một hội dân chủ bình đẳng. Điều này đang trở thành một xu thế khách quan,
tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại và Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế chung đó. Xây dựng, tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi việc kiện toàn nhà nước là một
nhiệm vụ cốt lõi hàng đầu, đề cao việc xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa.
Hiến pháp năm 2013 cũng đã khẳng định “Nhà ớc cộng hòa hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đó là
sở pháp cũng văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hóa đường lối
của Đảng đề ra trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Sự xây dựng nhà ớc pháp quyền hội chủ nghĩa không chỉ khẳng định quyết
tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức hoạt động của nhà nước,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế còn sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới
của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới, một nhà nước của dân, do dân dân
Như vậy, việc xây dựng từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa
đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và vô cùng quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước nói
chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị hội chủ nghĩa nói riêng, nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị ớc ta. Chính sự cần thiết và thời sự của vấn đề,
chúng em đã chọn đề tài Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam” trong
bài tập nhóm lần này.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Lý luận chung về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
- Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Giải pháp nhằm xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa ởViệt Nam hiện nay
I. Lý luận chung về nhà nước pháp quyền XHCN
1. Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã
hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tưởng của thời cổ
lOMoARcPSD| 45740153
đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những
tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau này như
John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant
(1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới.
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tưởng vĩ đại
khác cũng đã góp phần phát triển các tưởng về Nhà nước pháp quyền như Tômát
Jepphecxơn (1743 - 1826) - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776), Tômát Pên
(1737 - 1809), John A đam (1735 - 1826)…
Những tưởng coi trọng pháp luật trong cai trị quản hội đã xuất hiện từ
thời cổ đại phương Đông (Trung Hoa) và phương Tây (Hy Lạp). Đó là Tuân Tử, Hàn
Phi... Hêraclít, Platôn, Arixtốt...
Mặc các tưởng triết học về nhà nước pháp quyền đã từ rất sớm trong lịch sử
nhưng thuyết triết học về nhà nước pháp quyền đạt tới trình độ thuyết về nhà
nước pháp quyền hoàn chỉnh thì chỉ bắt đầu tthời cận đại Tây Âu. Đó cũng thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh chính trị giành quyền lực nhà nước giữa hai giai cấp sản giai
cấp phong kiến.
Thích ứng với nhu cầu lịch sử ấy có các nhà lý luận nổi tiếng như:
Nhà triết học Lan - Xpinôda người sáng lập ra thuyết về pháp quyền tự nhiên”
cho rằng: Nhà nước pháp quyền kết quả của những sự thỏa thuận giữa con người với
nhau phù hợp với quyền tự nhiên vốn có của mình và phù hợp với quy luật tự nhiên. Theo
thuyết này, một khi pháp luật phù hợp với quy luật tự nhiên thì cũng nghĩa phù
hợp với bản tính tự nhiên của con người. Theo Ông cần hạn chế quyền lực của nhà nước
bằng những đòi hỏi tự do của con người cần sự phân biệt ng giữa pháp luật
đạo đức trong quản lý.
Nhà triết học người duy vật người Anh-Lốccơ cũng đứng trên quan điểm pháp quyền
tự nhiên của con người mà cho rằng “Luật tự nhiên bắt nguồn từ sự liên kết của con người
thành cộng đồng theo một quy luật tự nhiên khách quan. Trong sự liên kết đó, con người
thỏa thuận với nhau để lập nên nhà nước như là một lực lượng thể hiện ý chí chung. Cũng
thế nhà ớc trở thành quan quyền lực chung của hội mỗi công n phải
lOMoARcPSD| 45740153
tuân theo quyền lực của nó. Ông ng một trong những nhà tưởng triết học đặt nền
móng lý luận cho sự ra đời của lý thuyết tam quyền phân lập tư sản.
Tuy nhiên nói đến lý thuyết về tam quyền phân lập và khế ước xã hội là nói đến các
nhà tưởng khai sáng ra Môngtexkiơ Rútxô người Pháp. thuyết của hai nhà
tưởng này đã ảnh hưởng lớn tới các thuyết pháp quyền của các nhà triết học nước Đức
ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đó là Cantơ và Hêghen.
Theo Cantơ thì con người chủ thể của quyền lực; Quyền lực nhà nước được tạo
nên bởi bản tính tuyệt đối của con người, nên nhà nước phục tùng theo pháp luật, tức
phục tùng bản tính tuyệt đối của con người; mỗi con người phải phục tùng mệnh lệnh
tuyệt đối.
Còn theo Hêghen thì nhà nước và pháp quyền là sự thể hiện ý niệm (đạo đức) tuyệt
đối và ý chí tự do. Theo Ông, pháp luật trong nhà nước pháp quyền chính là hiện thực của
tự do và là tồn tại thực tế của ý chí tự do.
2. Khái niệm nhà nước pháp quyền và những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp
quyền
2.1 Khái niệm
Trong việc nghiên cứu về nhà ớc pháp luật, vấn đề nhà nước pháp quyền tr
thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người làm công tác thực tiễn cũng
như nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay ở trong nước cũng như ngoài nước. Do cách
tiếp cận vấn đề hay nhận định đánh giá vấn đề góc độ khác nhau, một số vấn đề rất
bản liên quan đến nhà ớc pháp quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hay chưa được
làm sáng tỏ. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều thống nhất cho rằng: dưới góc độ chính trị
- hội phân tầng giai cấp hội, nhà ớc pháp quyền không phải một kiểu nhà
nước mới, thoát ly các kiểu nhà nước mà lịch sử nhân loại đã chứng kiến là: Nhà nước chủ
nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vậy Nhà nước pháp quyền một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt đó
sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
lOMoARcPSD| 45740153
Quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Theo quan niệm
chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật, nhà nước hướng tới những
vấn đề phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy
hết năng lực của chính mình. Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, các cơ quan của
nhà ớc được phân quyền ràng được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc nh
đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước pháp quyền
vẫn có những cách hiểu khác nhau. Song, từ những cách tiếp cận đó, nhà nước pháp quyền
được hiểu là một kiểu nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục pháp luật
và phải hiểu biết pháp luật, tuân thpháp luật, pháp luật phải bảo đảm tính nghiêm minh;
trong hoạt động của các quan nhà nước, phải có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn
nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.
2.2. Nội dung khái quát về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam:
Theo cương lĩnh xây dựng đất ớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội của Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra:
Đề cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật
Đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đảm bảo quyền con người
Tổ chức bộ máy vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, vừa sự phân công giữa các
nhánh quyền lực, phân cấp quyền hạn trách nghiệm giữa các cấp chính quyền
nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, tránh lạm quyền.
Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng lắng
nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân
Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
Tổ chức hoạt động của bộ máy quản nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, thống nhất quyền lực, phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương.
2.3. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Một là, nhà nước pháp quyền có sự ngự trị cao nhất của pháp luật.
lOMoARcPSD| 45740153
Luật pháp là tiêu chuẩn cao nhất, là căn cứ cơ bản nhất, là công cụ quản lý chủ yếu
để quản lý mọi hoạt động của xã hội và công dân.
Quyền lực của pháp luật vượt trên quyền lực của mọi tổ chức chính trị hội hay
của mọi cá nhân.
Đây đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp để xác định một nhà ớc nào đó
có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở trình độ nào.
Hai là, quyền lực nhà nước phải thể hiện ý clợi ích của đại đa số nhân dân
Thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực.
Mỗi nhân đều ng dân tự do, quyền lợi nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật, được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm.
Pháp luật chỉ nghiêm cấm những hành vi xâm hại đến lợi ích của cácnhân hay
tổ chức xã hội.
Ba là, nhà nước pháp quyền có sự bảo đảm thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách
nhiệm giữa nhà nước và công dân.
Quyền công dân thuộc về trách nhiệm của nhà ớc ngược lại, quyền của nhà
nước thuộc về trách nhiệm của công dân.
Nhà ớc phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi phạm pháp luật
của mình, làm phương hại đến lợi ích của công dân, của các tổ chức trong hội.
Ngược lại, công dân các tổ chức trong hội phải thực hiện các nghĩa vụ
chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo quy định của pháp luật.
Ngoài ba đặc trưng chung của mọi nnước pháp quyền đã nêu trên cũng quan
niệm cho rằng nguyên tắc “Tam quyền phân lập” cũng là nguyên tắc đặc trưng của mọi nhà
nước pháp quyền. Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà ớc được phân thành ba nhánh
quyền lực, đó quyền lập pháp, quyền hành pháp quyền pháp. 2.4. Đặc trưng
bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất này của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh, các văn
kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013. Các đặc
lOMoARcPSD| 45740153
trưng bản này được trình bày dưới các dạng thức khác nhau bởi các nhà luận, phục
thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan điểm học thuật của từng người.
Cách trình bày thế khác nhau, song về bản chất thể quy về các giá trị tính tổng
quát sau:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân
Thứ hai, nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế phối hợp
nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng Sản Việt
Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của Nhà nước được
giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông
qua các tổ chức, của cá nhân được nhân dân ủy nhiệm
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền con
người, coi con người chủ thể, trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của nhân
dân được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân quyền bầu và bãi miễn những đại biểu
không xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
sự phân công, phân cấp, phối hợp kiểm soát lẫn nhau, nhưng đảm bảo quyền lực
thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương
Những đặc điểm của Nhà ớc pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam đang y
dựng đã thể hiện được các tinh thần bản của một nhà nước pháp quyền nói chung. Bên
cạnh đó, còn thể hiện sự khác biệt so với các nhà nước pháp quyền khác. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho
nhân dân; nhà nước công cụ chủ yếu để Đảng Cộng Sản Việt Nam định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 45740153
3. Bản chất của nhà nước pháp quyền
Xuất phát từ bản chất Nnước của Nhân dân, do Nhân dân, Nhân dân, Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc sau:
(1) Quyền lực nhà ớc thống nhất, sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơquan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
(2) Thượng tôn Hiến pháp pháp luật, mọi chủ thể trong hội đều phải tôn trọng
vànghiêm chỉnh thực hiện pháp luật Hiến pháp đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang
tính nền tảng;
(3) Khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng
củamọi cá nhân trong thụ hưởng phát triển quyền, không sự phân biệt đối xử, trước
tiên chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản nhà nước hội; (4) Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật;
(5) Bảo vệ ng lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền nghĩa vụ của ng n
được pháp luật thừa nhận, tôn trọng bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật
pháp.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Namnhà nước đặt dưới sự điều
chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính
công khai, minh bạch, khả thi hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
và bảo vệ quyền con người.
4. Chức năng, vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động
chủ yếu phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ vai trò của nó. Tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước quyết định và
định hướng bởi thực tế khách quan của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đây một trong những chức năng chủ yếu của nhà nước, bởi tất cả những chức năng
đối nội của nhà nước hội chủ nghĩa chỉ thể được thực hiện khi Tổ quốc hội chủ
nghĩa được bảo vệ vững chắc. Chức năng này thể hiện ở việc bảo vệ chủ quyền đất nước;
bảo vệ chế độ chính trị Hiến pháp đã xác lập; thực hiện ý chí của nhân dân trong các
Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
lOMoARcPSD| 45740153
đạo luật các quyết định của nhà nước; đại diện chính thức cho đất nước trên trường quốc
tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ lX của Đảng khẳng định rõ: "Bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc".
Chức năng tổ chức quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nều phân chia đời sống xã hội thành hai linh vực lớn là chính trị và kinh tế - xã hội thì
có thể thấy rằng chức năng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước nói chung là một hoạt
động của nhà nước, hoạt động này thể hiện vai trò của nhà nước đổi với sự phát triển
của nền kinh tế. Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô; xây dựng kế
hoạch để phát triển kinh tế quốc dân, xác định các trương trình, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, đề ra các biện pháp cụ thể đạt tới mục tiêu đó trong từng thời kỳ nhất
định; sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò tạo ra các yếu tố
kích thích hay hạn chế sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định. Nhà
nước quản lý kinh tế vĩ mô bằng pháp luật, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước ở nền kinh tế thị trường.
Chức năng xã hội
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ X
đã khăng định: "tăng trường kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời
sống vật chất tinh thân của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng hội" Văn kiện
Đại hội X nêu "chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, hội, văn hóa những
lĩnh vực thhiện nhất chức năng của nhà nước nói chung chức năng xã hội của nhà
nước nói riêng luôn gắn liền với các phạm trù như "bản chất nhà nước" và "vai trò của nhà
nước".
Chức năng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân
Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một
chức năng rất quan trọng, một trong những tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ. Trong sự
nghiệp đổi mới, nhà nước hội chủ nghĩa phải bảo đảm tốt trật tự, an toàn hội nhằm
lOMoARcPSD| 45740153
duy trì ổn định trật tự, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện đầy đủ quyền con người,
quyền ng dân Hiến pháp đã ghi nhận. Nhà nước hội chủ nghĩa phải đủ sức
mạnh kịp thời dập tan mọi âm mưu hành động của các thế lực thù địch chống đối
cách mạng, đồng thời đầu tranh chống, phòng ngừa hiệu quả tội phạm các vi phạm
pháp luật khác, làm cho hội luôn luôn ổn định, trật tự pháp luật, pháp chế hội chủ
nghĩa được giữ gìn, thúc đầy phát triển kinh tế xã hội và trên toàn thế giới. Vì vậy, ở nước
ta hiện nay, tăng cường bảo vệ trật tự, an toàn hội yêu cầu khách quan, cấp bách chẳng
những bảo vệ chính quyên, bảo vệ cách mạng còn tạo điều kiện trong công cuộc đổi
mới và phát triển nhà nước.
Chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp
tác và hữu nghị với các dân tộc vì hòa bình, ổn định và phát triển Toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu và phát triển trong quan hệ ngoại
giao quốc tế hiện đại.. Xu hướng đó tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã
hội trong mỗi quốc gia, làm thay đổi sâu sắc nhận thức và hành động của mỗi quốc gia
trong quan hệ quốc tế.. Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và hữu nghị
với các dân tộc theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, độc lập và phát triển là một trong những
nguyên tắc rất quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Củng cố duy trì tình hữu nghị với các nước láng giềng cũng như
có cơ hội giao thương hợp tác phát triển là mục tiêu mở rộng quan hệ ngoại giao của
nhà nước.
II. Thc trng xây dng nhà nước pháp quyền XHCN ở Viêt Na 1. Về t
chức của bô máy nhà nước
1.1. Những thành tựu đt đưc
Bô máy nhà nước đã được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống
nhất, sự phân công phối hợp giữa các quan nnước trong viêc thực hiệ các
quyền lâp pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân công giữa các quan nhà nước
trong viêc
thực hiệ n quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho mỗiquan nhà nước thị hành có hiêu
quả chức năng, nhiệ m vụ, quyền hạn của mình, không phải sự phân chia, cắt khúc, đối
lOMoARcPSD| 45740153
lâp nhau giữa các quyền lậ p pháp, hành pháp pháp ở đây sự phối hợp, hỗ trợ
nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Vị trí, chức năng, nhiêm vụ
quyền hạn của Chính phủ đã được xác định thêm. Cải cách hàn chính đã bước đầu được
tiến hành đồng bô trên các lĩnh vực: cải cách tổ chức bộ máy, cảị cách thể chế và cải cách
thủ tục hành chính. 1.2. Một số hn chế về tổ chức bộ máy nhà nước
Có thể nhận thấy bên cạnh những thành tựu ưu điểm, việc tổ chức hoạt động
của bộ máy nhà nước hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Việc phân định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các quan nhà nước còn chưa thật ràng, chồng chéo về nhiệm vụ
quyền hạn. Trước hết là tổ chức, bộ y của một số bộ phận trong các quan của Quốc
hội chưa được sắp xếp hợp lý. Hoạt động lập pháp của Quốc hội còn phần hạn chế:
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa thật phù hợp, luật ban hành còn chậm, chưa
đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ hội chủ yếu bằng luật; kỹ thuật lập
pháp vẫn khâu yếu, luật ban hành thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, một số luật ban
hành chưa phát huy hết tác dụng, chất lượng chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc
sống, còn phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần.
2. Về hê thng pháp luậ
2.1. Những thành tựu đt đưc
Trong hơn 20 năm đổi mới, có những tiến bộ đáng kể trong chất lượng về nội dung
của các văn bản quy phạm pháp luật. Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật ở nước
ta đang dần dần tiếp cận gần hơn với những tiêu chí của một văn bản quy phạm pháp luật
“tốt” - văn bản “chứa đựng đúng đắn, khách quan các giá trị chính trị – kinh tế xã hội ở
trong nước, đồng thời chứa đựng các giá trị nhân loại được thừa nhận chung” Về mặt nội
dung có thể thấy đường lối, chính sách đổi mới của Đảng được thể chế hoá trong c văn
bản pháp luật. Các đạo luật, pháp lệnh ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của
nhân dân lao động. Bên cạnh đó, các đạo luật, pháp lệnh sự kế thừa và phát triển các giá
trị tiến bộ của nhân loại được thừa nhận chung trong việc điều chỉnh các quan hệ hội
bằng pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.
lOMoARcPSD| 45740153
2.2. Một số hn chế của hệ thống pháp luật
Nhìn chung hệ thống pháp luật vẫn nhiều yếu kém bất cập. Hệ thống pháp luật
còn chưa theo kịp chưa đáp ứng đầy đủ cho yêu cầu phát triển kinh tế - hội của đất
nước; hệ thống các quan thi hành bảo vệ pháp luật, đặc biệt các quan pháp
chưa đủ mạnh; ý thức sống làm việc theo pháp luật của cán bộ nhân dân còn nhiều
hạn chế. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được chiến lược xây dựng hoàn thiện
pháp luật của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Còn nhiều
hạn chế về tính khách quan, tính khả thi, tính minh bạch của pháp luật. Ngoài ra, một số
đạo luật, pháp lệnh còn chứa đựng yếu tố mâu thuẫn, chồng chéo trong bản thân từng đạo
luật, pháp lệnh và mâu thuẫn với hệ thống pháp luật
3. Dân chủ ha đi sng xã hôị
3.1. Những thành tựu đt đưc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự cần thiết phải thực hiện dân chủ trong
việc xây dựng Nnước Việt Nam: “Nước ta ớc dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân... Chính
quyền từ đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến do
dân tổ chức nên”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định: “Xã
hội hội chủ nghĩa nhân dân ta xây dựng một hội: dân giàu, nước mạnh, n
chủ, công bằng, văn minh và do nhân dân làm chủ”. Dân chủ không chỉ là mục tiêu còn
động lực của sự phát triển đất nước, nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội; bởi lẽ, thực hiện tốt dân chủ sẽ phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân
với vai trò “chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử
3.2. Môt số đim hn chế của việ c dân chủ h
Măc dù đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên  trong đời sống hôi vẫn tìn
trạng vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỉ cương. Quyền làm chủ của nhân dân vẫn chưa được
phát huy và tôn trọng đầy đủ. Trong xã hôi vẫn còn không ít hiệ n tượng mất dân chủ, dâ
chủ hình thức. nhiều nơi, pháp luât quy định mộ t số quyền của công dân nhưng
không
lOMoARcPSD| 45740153
được tôn trọng, nhiều khiếu nại, kiến nghị của người dân chưa được giải quyết, thâm chí
còn có tình trạng bắt oan và xử oan người vô tộ i. Mặ t khác, trậ t tự xã hộ i cò nhiều yếu
kém, hiên tượng coi thường không chấp hành pháp luậ t, kỉ ơng còn nhiều. chế pháp
luât bảo đảm dân chủ hóa tuy đã tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều vấn đề thiếu sót chưa
cụ thể. Viêc thực hiệ n các hình thức dân chủ trực tiếp đại diệ n chưạ đạt hiêu quả cao,
có nộ i dung thực hiệ n còn chỉ mang tính hình thức. 
4. Về hoàn thiên mi quan hệ giữa nhà nước và công dâ
4.1. Những thành tựu đt đưc
Nhà nước quản lý đã trở thành hê thống quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổị mới.
Mối quan hê giữa Nhà nước và công dân được phát huy tố , thực tiễn Viêt Nam qucác
năm đổi mới cho thấy ý chí và quyền lực của nhân dân được thể hiên trong pháp luậ  và tổ
chức thực hiên pháp luậ t, trong thể chế dân chủ của đất nước. Nhân dân thực hiệ
quyền làm chủ của mình thông qua nhà nước, thông qua các cuôc bầu cử đại biểu Quốc
hôi, bầu cử đại biểu Hi đồng nhân n các cấp. vậ y nhà nước phải trách nhiệ m
bảọ đảm để mọi công dân thực hiên tốt các quyền cơ bản của mình.
4.2. Môt số hn chế
Viêc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiệ
 xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân còn châm trễ và thiếu só . Sự
lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt đông
của nhà nước, còn tình trạng hờ hững và bao biệ n nên chưa phát huy tốt vai trò lãn đạo
của Đảng và hiêu lực điều hành của bộ máy nhà nước.  Quan trong nộ i bộ Đảng, quan
hê giữa Đảng và nhân dân còn nhiều mặ t chưa được củng cố vững chắc
, hiên tượng
quan
liêu, xa dân còn phổ biến, hiên tượng mất đoàn kết trong cấp ủy Đảng ở mộ t số nơị chưa
được khắc phục triêt để, chưa ngăn chặ n được bệ nh quan liêu, tham nhũng trong bộ  máy
cơ quan công quyền.
III. Giải pháp xây dng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch,
vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ mục tiêu Đảng
lOMoARcPSD| 45740153
đặc biệt quan tâm. Sau đây là 8 giải pháp cụ thể để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Một là, “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và pháp trên
cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Giải
pháp này xuất phát từ thực tế chúng ta n lúng túng trong việc xác định vai trò, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp
Đây nhiệm vụ, cũng giải pháp hết sức quan trọng, bởi thực hiện được giải
pháp này thì chức năng của từng cơ quan nhà nước sẽ rõ ràng. Không chồng chéo, không
bỏ sót như vậy thì hoạt động của bộ máy nhà nước mới thống nhất và hiệu quả. Khi các
chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp được xác định rõ ràng thì việc phối hợp, kiểm
soát quyền lực mới hiệu quả, tránh được tình trạng lạm quyền, lộng quyền, độc đoán hoặc
buông lỏng quyền lực. Tuy nhiên, quyền lực của Nhà ớc Việt Nam quyền lực của
Nhân n, do vậy không thể dùng quyền lực của Nhân dân phân chia cho quan, bộ
phận nào của Nhà nước. Quyền lực nhà nước của chúng ta về bản chất luôn thống nhất.
Hai là, “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh
nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền
vững”. Giải pháp này cũng xuất phát từ thực tế việc xây dựng hệ thống pháp luật còn chưa
đầy đủ, thiếu kịp thời, nhiều điều luật thiếu tính khả thi. Rõ ràng, nếu thiếu cơ sở pháp lý,
thiếu hệ thống pháp luật thì hoạt động quản nhà ớc đối với các lĩnh vực kinh tế,
hội sẽ khó khăn, không hiệu quả.
Ba là, “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, quan quyền lực nhà ớc cao nhất. Đổi mới
phương thức, nâng cao chất lượng hiệu quhoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền,
lOMoARcPSD| 45740153
tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức
năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”. Để
thực hiện được giải pháp này, cần tiếp tục thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền công dân; hoàn thiện chế bảo vệ Hiến pháp, lấy phiếu, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân
bầu hoặc phê chuẩn. Gắn với nhiệm vụ này cần “đẩy nhanh tiến độ ban hành các
luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013”.
Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân. Với Mặt trận Tổ quốc, cần “thực
hiện tốt vai trò giám sát, phản biện hội, đại diện bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước”. Đối với Nhân dân, phải thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý
số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm đại biểu hoạt động ở các quan
hành pháp, tư pháp.
Bốn là, “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”. Để thực hiện tốt
giải pháp này cần thực hiện tốt năm biện pháp cụ thể sau:
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
Phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, quan chấp
hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích đề xuất chính sách dựa
lOMoARcPSD| 45740153
trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định trách nhiệm giữa Chính phủ với các
bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương; khắc phục
triệt để tình trạng chồng chéo, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
Bảo đảm quản nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.
Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp
công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả.
Năm là, “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”. Để thực hiện tốt giải
pháp này, cần thực hiện tốt bốn biện pháp cụ thể sau:
Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo
vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Nghiên cứu, ban hành chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó
Chiến lược xây dựng pháp luật và cải cách tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động uy
tín của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, quan điều tra, cơ quan thi hành
án và các cơ quan có tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp.
Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định;
phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động tội phạm và vi phạm pháp luật.
Trong đó tiếp tục: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”.
Sáu là, “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông
lOMoARcPSD| 45740153
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định”. Để thực hiện tốt
giải pháp này, cần triển khai thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận
hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả.
Gắn kết và đổi mới tổ chức, bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp.
Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung
ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương,
nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương.
Bảy là, “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy
tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Để thực hiện được giải pháp này, cần
thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách
đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ
phát triển.
Có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ
cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo
và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Có cơ chế sàng lọc thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi
phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử kluật, không
còn uy tín đối với Nhân dân.
Tám là, “Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật”. Để
thực hiện tốt giải pháp này, cần thực hiện ba biện pháp cụ thể sau:
Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện
lOMoARcPSD| 45740153
tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm pháp luật.
Cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối, bỏ cấp
trung gian, tinh giản biên chế.
Tích cực thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường kết nối, trao đổi
thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân
và doanh nghiệp.
IV. KẾT LUẬN
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam chủ trương mang tầm chiến lược lâu
dài, không thể làm một cách chủ quan nóng vội cần những nghiên cứu luận chuyên
sâu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đầy đủ. Sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam chỉ có thể thành công khi nó được xã hội hóa được thực hiện một cách tự giác
chứ không phải do sự ép buộc nào từ phía chủ trương, chính sách nhà nước hay mệnh lệnh,
nghị quyết nào của Đảng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam chính là xây dựng một nhà nước thực sự
của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả
vì hạnh phúc của nhân dân. Nhà nước được tổ chức, vận hành một cách khoa học, phù hợp
với thực tiễn đất nước, đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nhà nước
quản hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người, chế an toàn hiệu quả,
ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Chỉ khi có một nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền làm chủ của
nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được m việc, được lao động, được học hành, được
đảm bảo trật tự an ninh, an toàn xã hội.
Việc tổ chức xây dựng nhà nước pháp quyền trên cơ sở đổi mới hoàn thiện n
nước cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi Đảng, nhà nước nhân dân ta phải
cùng cố gắng, vạch định những bước đi thích hợp, thực hiện đồng bộ các giải pháp. Do đó,
việc nghiên cứu để chỉ ra những thành tựu và hạn chế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
lOMoARcPSD| 45740153
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện nền dân chủ
hội chủ nghĩa nước ta hết sức cần thiết. Điều đó góp phần cung cấp căn cứ khoa
học, giúp Đảng nhà nước xây dựng những chính sách, biện pháp thực hiện dân chủ
hội ngày càng tốt hơn.
Về phía bản thân, mỗi một người dân cần nâng cao sự hiểu biết về chính sách, pháp
luật ý thức phát huy quyền làm chủ của mình, tích cực tham gia quản nhà nước,
quản lý hội, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, vi phạm dân chủ ở
sở góp phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” theo tinh thần nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra.
Chấp hành tốt những quy định của Đảng và nhà nước. Đồng thời, luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác, đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch cố tình
xuyên tạc về tình hình dân chủ nước ta hiện nay.
| 1/21

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740153
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam THÀNH VIÊN: NHÓM 3
LỚP CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (122)_09
GIẢNG VIÊN: LÊ THỊ HỒNG
Hà Nội, tháng 09 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3 lOMoAR cPSD| 45740153 ST Họ và tên MSV T 1 Ngô Thị Linh 11217377 2
Nguyễn Thị Khánh Linh 11213323 3 Nguyễn Thanh Tâm 11217397 4 Bùi Thị Đào 11217351 5
Nguyễn Hương Giang 11217333 6
Nguyễn Thị Mai Hương 11217371 7
Nguyễn Thị Mỹ Ngọc 11217385 8
Đinh Mai Phương Anh 11217333 LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội với 4
kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa, và tất cả đều có liên
hệ mật thiết với pháp quyền. Nhà nước pháp quyền mà chúng ta quan niệm không phải là
kiểu nhà nước gắn liền với một giai cấp mà là một hình thức tổ chức, một trình độ phát
triển của nhà nước về phương diện tổ chức quyền lực để đảm bảo hiến pháp và pháp luật
giữ địa vị tối cao. Hay nói cách khác, đó là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp
luật, pháp chế trong tổ chức bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 45740153
Lý luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật cho thấy, nhà nước pháp quyền là một
trong những giá trị chung của nhân loại tiến bộ, thể hiện ước muốn, khát vọng của con
người về một xã hội dân chủ và bình đẳng. Điều này đang trở thành một xu thế khách quan,
tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại và Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế chung đó. Xây dựng, tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi việc kiện toàn nhà nước là một
nhiệm vụ cốt lõi hàng đầu, đề cao việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp năm 2013 cũng đã khẳng định rõ “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đó là
cơ sở pháp lý cũng là văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hóa đường lối
của Đảng đề ra trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Sự xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ khẳng định quyết
tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới
của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới, một nhà nước của dân, do dân và vì dân
Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và vô cùng quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước nói
chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nói riêng, là nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị nước ta. Chính vì sự cần thiết và thời sự của vấn đề,
chúng em đã chọn đề tài “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” trong bài tập nhóm lần này.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm những nội dung cơ bản sau: -
Lý luận chung về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa -
Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam -
Giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ởViệt Nam hiện nay
I. Lý luận chung về nhà nước pháp quyền XHCN
1. Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ đã
hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng của thời cổ lOMoAR cPSD| 45740153
đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những
tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau này như
John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant
(1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới.
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ đại
khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như Tômát
Jepphecxơn (1743 - 1826) - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776), Tômát Pên
(1737 - 1809), John A đam (1735 - 1826)…
Những tư tưởng coi trọng pháp luật trong cai trị và quản lý xã hội đã xuất hiện từ
thời cổ đại phương Đông (Trung Hoa) và phương Tây (Hy Lạp). Đó là Tuân Tử, Hàn
Phi... Hêraclít, Platôn, Arixtốt...
Mặc dù các tư tưởng triết học về nhà nước và pháp quyền đã có từ rất sớm trong lịch sử
nhưng lý thuyết triết học về nhà nước và pháp quyền đạt tới trình độ và lý thuyết về nhà
nước pháp quyền hoàn chỉnh thì chỉ bắt đầu từ thời cận đại Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh chính trị giành quyền lực nhà nước giữa hai giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến.
Thích ứng với nhu cầu lịch sử ấy có các nhà lý luận nổi tiếng như:
Nhà triết học Hà Lan - Xpinôda là người sáng lập ra lý thuyết về “pháp quyền tự nhiên”
cho rằng: Nhà nước pháp quyền là kết quả của những sự thỏa thuận giữa con người với
nhau phù hợp với quyền tự nhiên vốn có của mình và phù hợp với quy luật tự nhiên. Theo
lý thuyết này, một khi pháp luật phù hợp với quy luật tự nhiên thì cũng có nghĩa nó phù
hợp với bản tính tự nhiên của con người. Theo Ông cần hạn chế quyền lực của nhà nước
bằng những đòi hỏi tự do của con người và cần có sự phân biệt rõ ràng giữa pháp luật và
đạo đức trong quản lý.
Nhà triết học người duy vật người Anh-Lốccơ cũng đứng trên quan điểm pháp quyền
tự nhiên của con người mà cho rằng “Luật tự nhiên bắt nguồn từ sự liên kết của con người
thành cộng đồng theo một quy luật tự nhiên khách quan. Trong sự liên kết đó, con người
thỏa thuận với nhau để lập nên nhà nước như là một lực lượng thể hiện ý chí chung. Cũng
vì thế mà nhà nước trở thành cơ quan quyền lực chung của xã hội mà mỗi công dân phải lOMoAR cPSD| 45740153
tuân theo quyền lực của nó. Ông cũng là một trong những nhà tư tưởng triết học đặt nền
móng lý luận cho sự ra đời của lý thuyết tam quyền phân lập tư sản.
Tuy nhiên nói đến lý thuyết về tam quyền phân lập và khế ước xã hội là nói đến các
nhà tư tưởng khai sáng ra là Môngtexkiơ và Rútxô người Pháp. Lý thuyết của hai nhà tư
tưởng này đã ảnh hưởng lớn tới các lý thuyết pháp quyền của các nhà triết học nước Đức
ở cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đó là Cantơ và Hêghen.
Theo Cantơ thì con người là chủ thể của quyền lực; Quyền lực nhà nước được tạo
nên bởi bản tính tuyệt đối của con người, nên nhà nước phục tùng theo pháp luật, tức là
phục tùng bản tính tuyệt đối của con người; và mỗi con người phải phục tùng mệnh lệnh tuyệt đối.
Còn theo Hêghen thì nhà nước và pháp quyền là sự thể hiện ý niệm (đạo đức) tuyệt
đối và ý chí tự do. Theo Ông, pháp luật trong nhà nước pháp quyền chính là hiện thực của
tự do và là tồn tại thực tế của ý chí tự do.
2. Khái niệm nhà nước pháp quyền và những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
2.1 Khái niệm
Trong việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, vấn đề nhà nước pháp quyền trở
thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người làm công tác thực tiễn cũng
như nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Do cách
tiếp cận vấn đề hay nhận định đánh giá vấn đề ở góc độ khác nhau, một số vấn đề rất cơ
bản liên quan đến nhà nước pháp quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hay chưa được
làm sáng tỏ. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều thống nhất cho rằng: dưới góc độ chính trị
- xã hội và phân tầng giai cấp xã hội, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà
nước mới, thoát ly các kiểu nhà nước mà lịch sử nhân loại đã chứng kiến là: Nhà nước chủ
nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vậy Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có
sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân. lOMoAR cPSD| 45740153
Quan niệm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Theo quan niệm
chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật, nhà nước hướng tới những
vấn đề phúc lợi cho mọi người, tạo điều kiện cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy
hết năng lực của chính mình. Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, các cơ quan của
nhà nước được phân quyền rõ ràng và được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình
đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước pháp quyền
vẫn có những cách hiểu khác nhau. Song, từ những cách tiếp cận đó, nhà nước pháp quyền
được hiểu là một kiểu nhà nước mà ở đó, tất cả mọi công dân đều được giáo dục pháp luật
và phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải bảo đảm tính nghiêm minh;
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, phải có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn
nhau, tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.
2.2. Nội dung khái quát về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam:
Theo cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra:
• Đề cao vai trò tối thượng của Hiến pháp và pháp luật
• Đề cao quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đảm bảo quyền con người
• Tổ chức bộ máy vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, vừa có sự phân công giữa các
nhánh quyền lực, phân cấp quyền hạn và trách nghiệm giữa các cấp chính quyền
nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, tránh lạm quyền.
• Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân
• Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
• Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, thống nhất quyền lực, có phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo
thống nhất của Trung ương.
2.3. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Một là, nhà nước pháp quyền có sự ngự trị cao nhất của pháp luật. lOMoAR cPSD| 45740153
• Luật pháp là tiêu chuẩn cao nhất, là căn cứ cơ bản nhất, là công cụ quản lý chủ yếu
để quản lý mọi hoạt động của xã hội và công dân.
• Quyền lực của pháp luật vượt trên quyền lực của mọi tổ chức chính trị xã hội hay của mọi cá nhân.
Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một nhà nước nào đó
có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước pháp quyền ở trình độ nào.
Hai là, quyền lực nhà nước phải thể hiện ý chí và lợi ích của đại đa số nhân dân
Thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực.
• Mỗi cá nhân đều là công dân tự do, có quyền lợi và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật, được quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm.
• Pháp luật chỉ nghiêm cấm những hành vi xâm hại đến lợi ích của các cá nhân hay tổ chức xã hội.
Ba là, nhà nước pháp quyền có sự bảo đảm thực tế mối quan hệ hữu cơ về quyền và trách
nhiệm giữa nhà nước và công dân.
• Quyền công dân thuộc về trách nhiệm của nhà nước và ngược lại, quyền của nhà
nước thuộc về trách nhiệm của công dân.
• Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi phạm pháp luật
của mình, làm phương hại đến lợi ích của công dân, của các tổ chức trong xã hội.
Ngược lại, công dân và các tổ chức trong xã hội phải thực hiện các nghĩa vụ và
chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo quy định của pháp luật.
Ngoài ba đặc trưng chung của mọi nhà nước pháp quyền đã nêu ở trên cũng có quan
niệm cho rằng nguyên tắc “Tam quyền phân lập” cũng là nguyên tắc đặc trưng của mọi nhà
nước pháp quyền. Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước được phân thành ba nhánh
quyền lực, đó là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. 2.4. Đặc trưng cơ
bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất này của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh, các văn
kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hóa trong Hiến pháp 2013. Các đặc lOMoAR cPSD| 45740153
trưng cơ bản này được trình bày dưới các dạng thức khác nhau bởi các nhà lý luận, phục
thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan điểm học thuật của từng người.
Cách trình bày có thế khác nhau, song về bản chất có thể quy về các giá trị có tính tổng quát sau:
Thứ nhất, xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Thứ hai, nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến pháp và
pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ ràng, có cơ chế phối hợp
nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do Đảng Cộng Sản Việt
Nam lãnh đạo, phù hợp với Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Hoạt động của Nhà nước được
giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông
qua các tổ chức, của cá nhân được nhân dân ủy nhiệm
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng quyền con
người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển. Quyền dân chủ của nhân
dân được thực hành một cách rộng rãi; “nhân dân có quyền bầu và bãi miễn những đại biểu
không xứng đáng”; đồng thời tăng cường thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, nhưng đảm bảo quyền lực là
thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương
Những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang xây
dựng đã thể hiện được các tinh thần cơ bản của một nhà nước pháp quyền nói chung. Bên
cạnh đó, nó còn thể hiện sự khác biệt so với các nhà nước pháp quyền khác. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho
nhân dân; nhà nước là công cụ chủ yếu để Đảng Cộng Sản Việt Nam định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. lOMoAR cPSD| 45740153
3. Bản chất của nhà nước pháp quyền
Xuất phát từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc sau: (1)
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơquan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; (2)
Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn trọng
vànghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng; (3)
Khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng
củamọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối xử, trước
tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội; (4) Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật;
(5) Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân
được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới sự điều
chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính
công khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
và bảo vệ quyền con người.
4. Chức năng, vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động
chủ yếu phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ vai trò của nó. Tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước quyết định và
định hướng bởi thực tế khách quan của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
Đây là một trong những chức năng chủ yếu của nhà nước, bởi vì tất cả những chức năng
đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thực hiện khi Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa được bảo vệ vững chắc. Chức năng này thể hiện ở việc bảo vệ chủ quyền đất nước;
bảo vệ chế độ chính trị mà Hiến pháp đã xác lập; thực hiện ý chí của nhân dân trong các lOMoAR cPSD| 45740153
đạo luật và các quyết định của nhà nước; đại diện chính thức cho đất nước trên trường quốc
tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ lX của Đảng khẳng định rõ: "Bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc".
Chức năng tổ chức quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nều phân chia đời sống xã hội thành hai linh vực lớn là chính trị và kinh tế - xã hội thì
có thể thấy rằng chức năng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước nói chung là một hoạt
động của nhà nước, hoạt động này thể hiện vai trò của nhà nước đổi với sự phát triển
của nền kinh tế. Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô; xây dựng kế
hoạch để phát triển kinh tế quốc dân, xác định các trương trình, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, đề ra các biện pháp cụ thể đạt tới mục tiêu đó trong từng thời kỳ nhất
định; sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò tạo ra các yếu tố
kích thích hay hạn chế sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định. Nhà
nước quản lý kinh tế vĩ mô bằng pháp luật, đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước ở nền kinh tế thị trường.
Chức năng xã hội
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ X
đã khăng định: "tăng trường kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thân của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội" Văn kiện
Đại hội X nêu rõ "chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, xã hội, văn hóa là những
lĩnh vực thể hiện rõ nhất chức năng của nhà nước nói chung và chức năng xã hội của nhà
nước nói riêng luôn gắn liền với các phạm trù như "bản chất nhà nước" và "vai trò của nhà nước".
Chức năng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một
chức năng rất quan trọng, một trong những tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ. Trong sự
nghiệp đổi mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm tốt trật tự, an toàn xã hội nhằm lOMoAR cPSD| 45740153
duy trì ổn định và trật tự, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện đầy đủ quyền con người,
quyền công dân mà Hiến pháp đã ghi nhận. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có đủ sức
mạnh và kịp thời dập tan mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch chống đối
cách mạng, đồng thời đầu tranh chống, phòng ngừa có hiệu quả tội phạm và các vi phạm
pháp luật khác, làm cho xã hội luôn luôn ổn định, trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa được giữ gìn, thúc đầy phát triển kinh tế xã hội và trên toàn thế giới. Vì vậy, ở nước
ta hiện nay, tăng cường bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu khách quan, cấp bách chẳng
những bảo vệ chính quyên, bảo vệ cách mạng mà còn tạo điều kiện trong công cuộc đổi
mới và phát triển nhà nước.
Chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp
tác và hữu nghị với các dân tộc vì hòa bình, ổn định và phát triển Toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu và phát triển trong quan hệ ngoại
giao quốc tế hiện đại.. Xu hướng đó tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã
hội trong mỗi quốc gia, làm thay đổi sâu sắc nhận thức và hành động của mỗi quốc gia
trong quan hệ quốc tế.. Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và hữu nghị
với các dân tộc theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, độc lập và phát triển là một trong những
nguyên tắc rất quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Củng cố duy trì tình hữu nghị với các nước láng giềng cũng như
có cơ hội giao thương hợp tác phát triển là mục tiêu mở rộng quan hệ ngoại giao của nhà nước.
II. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Viêt Naṃ 1. Về tổ
chức của bô máy nhà nước ̣
1.1. Những thành tựu đạt được
Bô máy nhà nước đã được tổ chức lại theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là ̣ thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong viêc thực hiệ ṇ các
quyền lâp pháp, hành pháp và tư pháp. Sự phân công giữa các cơ quan nhà nước ̣ trong viêc
thực hiệ n quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho mỗi cơ quan nhà nước thị hành có hiêu
quả chức năng, nhiệ m vụ, quyền hạn của mình, không phải là sự phân chia,̣ cắt khúc, đối lOMoAR cPSD| 45740153
lâp nhau giữa các quyền lậ p pháp, hành pháp và tư pháp mà ở đây có sự̣ phối hợp, hỗ trợ
nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Vị trí, chức năng, nhiêm vụ và
quyền hạn của Chính phủ đã được xác định rõ thêm. Cải cách hànḥ chính đã bước đầu được
tiến hành đồng bô trên các lĩnh vực: cải cách tổ chức bộ máy, cảị cách thể chế và cải cách
thủ tục hành chính. 1.2. Một số hạn chế về tổ chức bộ máy nhà nước
Có thể nhận thấy bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, việc tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Việc phân định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước còn chưa thật rõ ràng, chồng chéo về nhiệm vụ và
quyền hạn. Trước hết là tổ chức, bộ máy của một số bộ phận trong các cơ quan của Quốc
hội chưa được sắp xếp hợp lý. Hoạt động lập pháp của Quốc hội còn có phần hạn chế:
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa thật phù hợp, luật ban hành còn chậm, chưa
đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu bằng luật; kỹ thuật lập
pháp vẫn là khâu yếu, luật ban hành thiếu đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, một số luật ban
hành chưa phát huy hết tác dụng, chất lượng chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc
sống, còn phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần.
2. Về hê thống pháp luậ ṭ
2.1. Những thành tựu đạt được
Trong hơn 20 năm đổi mới, có những tiến bộ đáng kể trong chất lượng về nội dung
của các văn bản quy phạm pháp luật. Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật ở nước
ta đang dần dần tiếp cận gần hơn với những tiêu chí của một văn bản quy phạm pháp luật
“tốt” - văn bản “chứa đựng đúng đắn, khách quan các giá trị chính trị – kinh tế – xã hội ở
trong nước, đồng thời chứa đựng các giá trị nhân loại được thừa nhận chung” Về mặt nội
dung có thể thấy đường lối, chính sách đổi mới của Đảng được thể chế hoá trong các văn
bản pháp luật. Các đạo luật, pháp lệnh ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của
nhân dân lao động. Bên cạnh đó, các đạo luật, pháp lệnh có sự kế thừa và phát triển các giá
trị tiến bộ của nhân loại được thừa nhận chung trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
bằng pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta. lOMoAR cPSD| 45740153
2.2. Một số hạn chế của hệ thống pháp luật
Nhìn chung hệ thống pháp luật vẫn nhiều yếu kém và bất cập. Hệ thống pháp luật
còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đầy đủ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước; hệ thống các cơ quan thi hành và bảo vệ pháp luật, đặc biệt là các cơ quan tư pháp
chưa đủ mạnh; ý thức sống và làm việc theo pháp luật của cán bộ và nhân dân còn nhiều
hạn chế. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được chiến lược xây dựng và hoàn thiện
pháp luật của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Còn nhiều
hạn chế về tính khách quan, tính khả thi, tính minh bạch của pháp luật. Ngoài ra, một số
đạo luật, pháp lệnh còn chứa đựng yếu tố mâu thuẫn, chồng chéo trong bản thân từng đạo
luật, pháp lệnh và mâu thuẫn với hệ thống pháp luật
3. Dân chủ hóa đời sống xã hôị
3.1. Những thành tựu đạt được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ sự cần thiết phải thực hiện dân chủ trong
việc xây dựng Nhà nước Việt Nam: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân... Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do
dân tổ chức nên”. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định: “Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh và do nhân dân làm chủ”. Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn
là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội; bởi lẽ, thực hiện tốt dân chủ sẽ phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân
với vai trò “chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử”
3.2. Môt số điểm hạn chế của việ c dân chủ hóạ
Măc dù đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên ̣ trong đời sống xã hôi vẫn có tìnḥ
trạng vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỉ cương. Quyền làm chủ của nhân dân vẫn chưa được
phát huy và tôn trọng đầy đủ. Trong xã hôi vẫn còn không ít hiệ n tượng mất dân chủ, dâṇ
chủ có hình thức. Ở nhiều nơi, pháp luât quy định mộ t số quyền của công dân nhưng ̣ không lOMoAR cPSD| 45740153
được tôn trọng, nhiều khiếu nại, kiến nghị của người dân chưa được giải quyết, thâm chí
còn có tình trạng bắt oan và xử oan người vô tộ i. Mặ t khác, trậ t tự xã hộ i còṇ nhiều yếu
kém, hiên tượng coi thường không chấp hành pháp luậ t, kỉ cương còn nhiều.̣ Cơ chế pháp
luât bảo đảm dân chủ hóa tuy đã có tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều vấn đệ̀ thiếu sót và chưa
cụ thể. Viêc thực hiệ n các hình thức dân chủ trực tiếp và đại diệ n chưạ đạt hiêu quả cao,
có nộ i dung thực hiệ n còn chỉ mang tính hình thức. ̣
4. Về hoàn thiên mối quan hệ giữa nhà nước và công dâṇ
4.1. Những thành tựu đạt được
Nhà nước quản lý đã trở thành hê thống quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổị mới.
Mối quan hê giữa Nhà nước và công dân được phát huy tốṭ
, thực tiễn Viêt Nam quạ các
năm đổi mới cho thấy ý chí và quyền lực của nhân dân được thể hiên trong pháp luậ ṭ và tổ
chức thực hiên pháp luậ t, trong thể chế dân chủ của đất nước. Nhân dân thực hiệ ṇ
quyền làm chủ của mình thông qua nhà nước, thông qua các cuôc bầu cử đại biểu Quốc ̣
hôi, bầu cử đại biểu Hộ i đồng nhân dân các cấp. Vì vậ y nhà nước phải có trách nhiệ m
bảọ đảm để mọi công dân thực hiên tốt các quyền cơ bản của mình.̣
4.2. Môt số hạn chệ́
Viêc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiệ
ṇ xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân còn châm trễ và thiếu sóṭ . Sự
lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt đông
của nhà nước, còn tình trạng hờ hững và bao biệ n nên chưa phát huy tốt vai trò lãnḥ đạo
của Đảng và hiêu lực điều hành của bộ máy nhà nước. ̣ Quan hê trong nộ i bộ Đảng,̣ quan
hê giữa Đảng và nhân dân còn nhiều mặ t chưa được củng cố vững chắc ̣ , hiên tượng ̣ quan
liêu, xa dân còn phổ biến, hiên tượng mất đoàn kết trong cấp ủy Đảng ở mộ t số nơị chưa
được khắc phục triêt để, chưa ngăn chặ n được bệ nh quan liêu, tham nhũng trong bộ ̣ máy cơ quan công quyền.
III. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch,
vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ là mục tiêu Đảng lOMoAR cPSD| 45740153
đặc biệt quan tâm. Sau đây là 8 giải pháp cụ thể để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Một là, “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên
cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”. Giải
pháp này xuất phát từ thực tế chúng ta còn lúng túng trong việc xác định vai trò, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp
Đây là nhiệm vụ, cũng là giải pháp hết sức quan trọng, bởi thực hiện được giải
pháp này thì chức năng của từng cơ quan nhà nước sẽ rõ ràng. Không chồng chéo, không
bỏ sót như vậy thì hoạt động của bộ máy nhà nước mới thống nhất và hiệu quả. Khi các
chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp được xác định rõ ràng thì việc phối hợp, kiểm
soát quyền lực mới hiệu quả, tránh được tình trạng lạm quyền, lộng quyền, độc đoán hoặc
buông lỏng quyền lực. Tuy nhiên, quyền lực của Nhà nước Việt Nam là quyền lực của
Nhân dân, do vậy không thể dùng quyền lực của Nhân dân phân chia cho cơ quan, bộ
phận nào của Nhà nước. Quyền lực nhà nước của chúng ta về bản chất luôn là thống nhất.
Hai là, “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh
nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền
vững”. Giải pháp này cũng xuất phát từ thực tế việc xây dựng hệ thống pháp luật còn chưa
đầy đủ, thiếu kịp thời, nhiều điều luật thiếu tính khả thi. Rõ ràng, nếu thiếu cơ sở pháp lý,
thiếu hệ thống pháp luật thì hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế, xã
hội sẽ khó khăn, không hiệu quả.
Ba là, “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là
cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới
phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, lOMoAR cPSD| 45740153
tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức
năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”. Để
thực hiện được giải pháp này, cần tiếp tục thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền công dân; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, lấy phiếu, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân
bầu hoặc phê chuẩn. Gắn với nhiệm vụ này cần “đẩy nhanh tiến độ ban hành các
luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013”.
Thiết lập đồng bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân. Với Mặt trận Tổ quốc, cần “thực
hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước”. Đối với Nhân dân, phải thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý
số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách; giảm đại biểu hoạt động ở các cơ quan hành pháp, tư pháp.
Bốn là, “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”. Để thực hiện tốt
giải pháp này cần thực hiện tốt năm biện pháp cụ thể sau:
• Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
• Phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo, phân tích và đề xuất chính sách dựa lOMoAR cPSD| 45740153
trên luận cứ khoa học và thực tiễn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
• Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các
bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương; khắc phục
triệt để tình trạng chồng chéo, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn.
• Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.
• Nâng cao chất lượng dịch vụ công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp
công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả.
Năm là, “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”. Để thực hiện tốt giải
pháp này, cần thực hiện tốt bốn biện pháp cụ thể sau:
• Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo
vệ quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
• Nghiên cứu, ban hành chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có
Chiến lược xây dựng pháp luật và cải cách tư pháp.
• Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy
tín của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành
án và các cơ quan có tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp.
• Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định;
phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động tội phạm và vi phạm pháp luật.
Trong đó tiếp tục: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”.
Sáu là, “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn nông lOMoAR cPSD| 45740153
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định”. Để thực hiện tốt
giải pháp này, cần triển khai thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận
hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Gắn kết và đổi mới tổ chức, bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp.
Cải cách phân cấp ngân sách nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung
ương, ngân sách địa phương, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương,
nâng cao tính chủ động, tự chủ của ngân sách địa phương.
Bảy là, “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy
tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Để thực hiện được giải pháp này, cần
thực hiện tốt ba biện pháp cụ thể sau:
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách
đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển.
Có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ
cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo
và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Có cơ chế sàng lọc thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi
phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không
còn uy tín đối với Nhân dân.
Tám là, “Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật”. Để
thực hiện tốt giải pháp này, cần thực hiện ba biện pháp cụ thể sau:
Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện lOMoAR cPSD| 45740153
tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm pháp luật.
Cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối, bỏ cấp
trung gian, tinh giản biên chế.
Tích cực thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường kết nối, trao đổi
thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. IV. KẾT LUẬN
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là chủ trương mang tầm chiến lược lâu
dài, không thể làm một cách chủ quan nóng vội mà cần có những nghiên cứu lý luận chuyên
sâu và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đầy đủ. Sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam chỉ có thể thành công khi nó được xã hội hóa và được thực hiện một cách tự giác
chứ không phải do sự ép buộc nào từ phía chủ trương, chính sách nhà nước hay mệnh lệnh,
nghị quyết nào của Đảng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam chính là xây dựng một nhà nước thực sự
của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả
vì hạnh phúc của nhân dân. Nhà nước được tổ chức, vận hành một cách khoa học, phù hợp
với thực tiễn đất nước, đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Nhà nước
quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người, có cơ chế an toàn và hiệu quả,
ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Chỉ khi có một nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền làm chủ của
nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được
đảm bảo trật tự an ninh, an toàn xã hội.
Việc tổ chức xây dựng nhà nước pháp quyền trên cơ sở đổi mới và hoàn thiện nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi Đảng, nhà nước và nhân dân ta phải
cùng cố gắng, vạch định những bước đi thích hợp, thực hiện đồng bộ các giải pháp. Do đó,
việc nghiên cứu để chỉ ra những thành tựu và hạn chế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ lOMoAR cPSD| 45740153
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hết sức cần thiết. Điều đó góp phần cung cấp căn cứ khoa
học, giúp Đảng và nhà nước xây dựng những chính sách, biện pháp thực hiện dân chủ xã hội ngày càng tốt hơn.
Về phía bản thân, mỗi một người dân cần nâng cao sự hiểu biết về chính sách, pháp
luật và có ý thức phát huy quyền làm chủ của mình, tích cực tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, vi phạm dân chủ ở cơ
sở góp phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” theo tinh thần nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra.
Chấp hành tốt những quy định của Đảng và nhà nước. Đồng thời, luôn nâng cao tinh thần
cảnh giác, đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch cố tình
xuyên tạc về tình hình dân chủ nước ta hiện nay.